Tính sử ca - nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975

Suốt hai mươi mốt năm (1954-1975) đất nước chia cắt đôi miền, toàn dân miền Bắc

luôn kết lại thành một khối quần chúng đồng lòng dồn hết tâm lực vào công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa kháng chiến chống Mỹ và đấu tranh thống nhất đất nước. Mục

tiêu chính trị này đã chi phối toàn bộ đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa. Âm nhạc cũng như

mọi ngành văn học nghệ thuật khác, luôn gắn liền với đời sống tinh thần người dân, đặc biệt

trong giai đoạn chiến tranh, là lúc mà yếu tố tinh thần còn mang ý nghĩa nhân lên gấp bội để

khích lệ mỗi công dân góp phần tối đa vào sự sống còn của dân tộc. Trong bài viết này tác giả

giới thiệu tính sử ca – nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-

1975.

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tính sử ca - nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính sử ca - nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975

Tính sử ca - nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 41 
TÍNH SỬ CA – NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CA KHÚC CÁCH MẠNG VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN 1954-1975 
Trần Ngọc Hoàng* 
Tóm tắt 
Suốt hai mươi mốt năm (1954-1975) đất nước chia cắt đôi miền, toàn dân miền Bắc 
luôn kết lại thành một khối quần chúng đồng lòng dồn hết tâm lực vào công cuộc xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa kháng chiến chống Mỹ và đấu tranh thống nhất đất nước. Mục 
tiêu chính trị này đã chi phối toàn bộ đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa. Âm nhạc cũng như 
mọi ngành văn học nghệ thuật khác, luôn gắn liền với đời sống tinh thần người dân, đặc biệt 
trong giai đoạn chiến tranh, là lúc mà yếu tố tinh thần còn mang ý nghĩa nhân lên gấp bội để 
khích lệ mỗi công dân góp phần tối đa vào sự sống còn của dân tộc. Trong bài viết này tác giả 
giới thiệu tính sử ca – nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-
1975. 
Từ khóa: sử ca, ca khúc cách mạng, 1954-1975 
1. Bối cảnh lịch sử 
 Năm 1965, đế quốc Mỹ chính thức 
thay thế thực dân Pháp nhảy vào xâm lược 
Việt Nam. Cả nước bước vào một công 
cuộc kháng chiến trường kỳ mới. Bên cạnh 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
miền Bắc, phong trào cách mạng chiến đấu 
giải phóng miền Nam là mục đích chính. 
Lịch sử và ca khúc luôn có sự hòa quyện, 
thống nhất với nhau vì vậy mà ca khúc Việt 
Nam được sáng tác trong giai đoạn này đã 
để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử âm 
nhạc Việt Nam nói chung và ca khúc Việt 
Nam nói riêng. Hai mươi mốt năm từ 1954 
– 1975 đánh dấu sự phát triển với tốc độ 
chưa từng thấy của các ca khúc Việt Nam 
cho đến bây giờ. Ca khúc ra đời từ cuộc 
sống và trở về phục vụ cho cuộc sống. Ca 
khúc đã góp phần tạo nên những kỳ tích 
của dân tộc. Lời ca, tiếng hát đã cổ vũ cho 
lao động, sản xuất và chiến đấu. Trong 
phong trào cách mạng, các ca khúc yêu 
nước đã xuất hiện như con thuyền gặp gió, 
bay bổng trong không khí hào hùng của 
_____________________________ 
* CN, Trường Đại học Phú Yên 
thời đại Hồ Chí Minh. Xuyên suốt thế kỷ 
XX, chưa bao giờ ca khúc lại đẹp về giai 
điệu, hay về ngôn từ như thế như ở thời kỳ 
này. Có lẽ lịch sử đã tạo cảm hứng, sự rung 
động trong trái tim của người nghệ sĩ. Các 
ca khúc lúc này đã phản ánh không khí náo 
nức và quyết tâm đánh thắng hoàn toàn 
giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta. Ca 
khúc khởi lên từ cuộc sống lao động và 
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, giai điệu chính 
xuyên suốt mấy thập niên liên tục là giai 
điệu hào hùng của cuộc chiến đấu. Trong 
phong trào cách mạng tiến công, ca khúc là 
một phương tiện của nghệ thuật để gắn liền 
các khối người, liên kết các đám đông quần 
chúng. Mười năm vừa xây dựng chủ nghĩa 
xã hội, vừa chiến đấu chống Mỹ cứu nước 
là mười năm phát triển không ngừng của ca 
khúc và đã thu được những thành tựu lớn. 
Mười năm hòa bình ở miền Bắc là mười 
năm hoàng kim của ca khúc. Ca khúc mang 
vẻ đẹp mới, tầm vóc mới, khát vọng thống 
nhất đất nước. Đây là thời kỳ phát triển tột 
bậc của ca khúc. Khi Mỹ ném bom phá 
hoại miền Bắc, hơi thở của ca khúc hừng 
hực hào khí, dậy lên phong trào “tiếng hát 
42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
át tiếng bom”. Không biết bao nhiêu bài hát 
hừng hực hào khí đã cất lên, những âm 
thanh chiến đấu đã rực đỏ cả không gian 
đất nước. Xét về mặt nghệ thuật, khúc thức, 
hòa âm trong ca khúc lúc này đã được nới 
rộng, đa dạng, phong phú; ca từ đẹp lên rất 
nhiều. Nếu ta nói văn hóa nghệ thuật là vũ 
khí sắc bén trong việc thể hiện lịch sử đời 
thường thì âm nhạc – nhất là mảng ca khúc 
– là loại hình nhanh nhạy nhất. Có thể nói 
rằng, lịch sử đất nước trong thời kỳ đầy 
biến động này là dấu ấn được ghi đậm nét 
nhất trong lịch sử phát triển đất nước cả 
hàng ngàn năm của dân tộc. Đồng hành với 
lịch sử này là ca khúc, lịch sử đã chắp thêm 
đôi cánh cho ca khúc trở nên bay bổng hơn 
– thêm một minh chứng nữa để chứng tỏ 
rằng tính sử ca là nét điển hình của ca khúc 
Việt Nam ở thế kỷ XX! 
2. Nét đặc trưng điển hình các ca khúc 
thời kỳ 1954-1975 
 Một nhà sử học đã nói, trong 20 thế 
kỷ qua, dân tộc ta chỉ có 300 năm hòa bình, 
còn 17 thế kỷ là đấu tranh. Ở thế kỷ XX 
vừa qua, dân tộc ta phải trải qua hai cuộc 
kháng chiến chống xâm lược không dưới 
30 năm. Trong các cuộc kháng chiến vệ 
quốc ấy, cả dân tộc đã lên đường trong âm 
thanh của những bản hùng ca chiến đấu mà 
tác giả của nó hầu hết là các nghệ sĩ mặc áo 
lính, mang tâm hồn người lính. Thế hệ 
chiến sỹ trong kháng chiến chống Pháp là 
những người từ cuộc đời nô lệ - chủ yếu là 
nông dân – đứng lên giành lại đất nước. 
Thế hệ chiến sỹ trong kháng chiến chống 
Mỹ và sau này lại là những con người đã 
làm chủ đất nước (miền Bắc được giải 
phóng và xây dựng Chủ nghĩa xã hội), lớn 
lên và trưởng thành với chế độ mới. Họ trẻ 
tuổi đời, được học hành và có tri thức, được 
giáo dục và nâng cao trình độ giác ngộ về 
chủ nghĩa yêu nước và CNXH do đó họ 
vào trận với tư thế đàng hoàng, tự hào và 
kiêu hãnh về đất nước – tư thế của người 
chủ đang chiến đấu để giữ lấy đất nước. 
Hình ảnh người lính với tư thế kiêu hãnh tự 
hào ấy đã thể hiện rất rõ trong ca khúc 
Đường chúng ta đi (Huy Du, phổ thơ Xuân 
Sách), hai từ Việt Nam được cất lên ở 
giọng trưởng như một tiếng kèn hiệu lệnh, 
hùng tráng, hào khí mà khoan thai. Với Ca 
ngợi tổ quốc (Hồ Bắc), bức tranh của cả 
đất nước Việt Nam được vẽ lên rất cao 
rộng, sáng ngời mà vẫn ấm áp, tình tứ, nhẹ 
nhàng, bao la mà vẫn dịu dàng, thân 
thương, mộc mạc, chân thật mà vẫn bay 
bổng ước mơ Trước mắt ta như hiện lên 
hình ảnh từng đàn chim én báo hiệu mùa 
xuân khi nghe giai điệu của ca khúc Bài ca 
hy vọng (Văn Ký). Ta nhớ mãi hình ảnh 
của những đôi chim bay giữa mùa xuân, 
dấu hiệu báo mùa của chim én cũng là sự 
dự báo cho chân trời tương lai đang rộng 
mở của con người trước cuộc sống. Giai 
điệu của ca khúc đẹp sang trọng và mạnh 
mẽ trong cảm xúc, thể hiện chiều sâu của 
một hình tượng giàu tính triết lý. Rất đơn 
giản, mộc mạc nhưng lời ca lại rung cảm 
lòng người. Các ca khúc đã ghi lại những 
ký ức rực rỡ về những năm tháng lịch sử 
của thế hệ trước và bài ca truyền thống quý 
giá cho thế hệ sau. 
 Nhưng chất liệu lịch sử này không 
thể có được nếu thiếu một yếu tố quan 
trọng bậc nhất: sự lãnh đạo của Đảng. 
Trong sâu thẳm của tâm hồn, Đảng được 
bật ra trong ca khúc hết sức tự nhiên: Dưới 
cờ Đảng vẻ vang (Lưu Hữu Phước), Đâu 
Đảng cần chúng ta có (Văn An). Nhờ có 
Đảng mà chúng ta được “sáng mắt, sáng 
lòng” và “bao năm khổ đau đất nước ta 
không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao 
tù bao hờn căm” nhưng nhờ có “vầng 
dương hé sáng” mà chúng ta có một mùa 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 43 
xuân đầy khát vọng, mùa xuân với ánh sáng 
tràn khắp nơi nơi, trong tiếng hát ca “ngân 
vang lòng yêu đời” như trong Đảng cho ta 
mùa xuân (Phạm Tuyên). Đó còn là Vững 
bước dưới cờ Đảng (Phạm Đình Sáu), 
Dâng Đảng quang vinh (La Thăng), 
Đường ta đi có nắng mặt trời (Hồng 
Đăng), Vinh quang Đảng Lao động Việt 
Nam (Nguyễn Đức Toàn), Tiến bước dưới 
cờ Đảng (Văn Ký), Người dân biết ơn 
đảng (Phan Thanh Nam), Quê ta dưới cờ 
Đảng (Lê Lôi – Huyền Tâm), Ba lá cờ 
Đảng (Văn Trung), Tuổi xuân dâng Đảng 
(Nguyễn Mạnh Thường), hay Người Mèo 
ơn Đảng (Thanh Phúc) Dâng lên Đảng 
niềm tin (Trọng Loan), Tiếng hát dâng 
Đảng (Lưu Hữu Phước). Bài Lúa mới 
(Nguyễn Đức Toàn) diễn tả được tấm lòng 
của người nông dân Việt Nam đối với Đảng 
cộng sản Việt Nam. Ca khúc đã phản ánh 
đúng tình cảm nông dân dưới ách áp bức 
bóc lột phong kiến và sự “đổi đời” sau khi 
có ruộng. Viết về Đảng, bài nào hầu như 
cũng nhắc đến một hình ảnh, một nguồn 
sáng: Mặt trời, ánh sao, ánh đèn, ánh nắng, 
ánh dương Điều đó chứng tỏ Đảng là 
chân lý, Đảng không ngưng đọng bất biến 
mà cũng luôn vận động và phát triển. Tất cả 
các ca khúc đều gặp nhau ở chất ngợi ca 
một cách tôn nghiêm, thành kính . 
Qua lời ca, tiếng nhạc, quang cảnh 
âm u mà hùng vĩ của vùng núi chiến khu 
cách mạng hiện lên thật thân thương và 
hoành tráng. Bài Hồ Chí Minh đẹp nhất 
tên Người (Trần Kiết Tường, 1962) là một 
trong những ca khúc hay nhất viết về Bác 
Hồ. Bằng chất liệu của dân ca Nam bộ, bài 
hát thể hiện tình cảm kính yêu lãnh tụ hòa 
hợp sâu sắc với tình yêu quê hương đất 
nước gợi cho người nghe liên tưởng đến 
câu thơ của Bảo Định Giang: 
 “Tháp Mười đẹp nhất bông sen 
 Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” 
 Các ca khúc viết về Bác hướng về 
cái dung dị, bình dị. Một đôi dép, một hàng 
cây, một dòng suối tất cả đều như nhắc 
nhở đến công lao của Người Ta bắt gặp 
một dòng cảm xúc nhớ thương trong thanh 
thản, thanh thản khi thương nhớ Người vì 
tự thấy mình đã làm được ít nhiều lời 
Người căn dặn. Một niềm thương nhớ đầy 
tự tin. Bước chuyển đổi trong nhận thức 
thẩm mỹ hiện ra rõ ràng hơn, đặc biệt là 
qua ngôn ngữ âm nhạc nhạc, nhất là tiết 
tấu. Trong cách cảm nhận đã mang tính 
thời đại và hiện đại. Không còn sùng kính, 
cung kính mà đây là hát về Người trong 
niềm hân hoan, tự hào. Cái tôi đầy tự tin, tự 
hào, và cao hơn nữa là kiêu hãnh: đất nước 
ta, dân tộc ta có một lãnh tụ-đó là Hồ Chí 
Minh. Và Mùa xuân trên thành phố Hồ 
Chí Minh (Xuân Hồng, 1975), đã đưa một 
nhân chứng vĩ đại của lịch sử trở nên gần 
gũi và thân thiết hơn bao giờ hết. Hồ Chí 
Minh - một con người bình dị có tâm hồn 
cao cả, ý chí sắt đá, lòng nhân ái bao la, trí 
thông minh, tài thao lược tuyệt vời, là một 
đề tài vĩnh cữu trong ca khúc, trong âm 
nhạc và trong tất cả các lĩnh vực nghệ thuật 
nói chung. 
 Bên cạnh sự tôn kính thiêng liêng 
của Đảng, của Bác còn hình ảnh của người 
lính, người mẹ, người chị, người em 
trong cuộc kháng chiến trường kỳ của cả 
dân tộc. Bài Hành quân đêm của Xuân 
Hồng là bước chân của những đoàn quân 
dù đang trong khó khăn, gian khổ, ác liệt 
vẫn tin tưởng vào ngày mai thắng lợi. Cùng 
với Hành quân đêm, các bài hát như: Cô 
gái vót chông (Hoàng Hiệp), Xuân chiến 
khu (Xuân Hồng), Tiếng chày trên sóc 
Bom Bo (Xuân Hồng), Bài ca Trường Sơn 
(Trần Chung – phổ thơ Gia Dũng) là những 
tiếng hát lạc quan, tươi tắn giữa đạn bom ác 
liệt, biểu hiện một niềm tin tất thắng vào 
cuộc chiến đấu. Với chất liệu âm thanh, ca 
44 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
khúc đã thể hiện tâm hồn phơi phới của 
tuổi trẻ đi vào chiến trường mà không kẻ 
thù nào ngăn nổi, như bài Qua sông (Phạm 
Minh Tuấn), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Lư 
Nhất Vũ)Âm hình tiết tấu và điệu thức 
của ca khúc đã làm rạo rực con tim, thôi 
thúc lòng người thưởng thức. Đây chính là 
sự thành công của ca khúc khi bắt nguồn từ 
lịch sử. Những bàn chân không nghỉ, Hát 
mừng quê ta giải phóng, Người mẹ miền 
Nam tay không đánh giặc (Thuận Yến) 
như tượng đài bằng âm thanh dựng lên hình 
tượng anh hùng của công cuộc trường kì 
chống Mỹ. Chào em cô gái Lam Hồng 
(Ánh Dương) là một bài hát độc đáo khi sử 
dụng chất dân ca Nghệ Tĩnh. Nhịp cầu nối 
những bờ vui (Vĩnh An) là một giai điệu 
trữ tình có sức lan tỏa rộng. Chẳng kẻ thù 
nào ngăn nổi bước ta đi (Thanh Phúc), 
Tiến bước dưới quân kỳ (Doãn Nho), là 
những bản hành khúc có sức âm vang lớn, 
với những rung cảm đi vào chiều sâu bằng 
chất liệu âm nhạc hết sức chọn lọc. Nhân 
vật từ lịch sử đi vào ca khúc như trong bài 
hát ngợi ca Nguyễn Văn Trỗi - Lời anh 
vọng mãi ngàn năm (Vũ Thanh), Nguyễn 
Viết Xuân cả nước yêu thương (Nguyễn 
Đức Toàn). Với Biết ơn Võ Thị Sáu 
(Nguyễn Đức Toàn) là một bài hát tràn đầy 
sự âu yếm dịu dàng về người con gái anh 
hùng “Người thiếu nữ ấy như mùa xuân, 
chị đã dâng cả cuộc đời để chiến đấu với 
bao niềm tin, dù chết vẫn không lùi bước. 
Chị Sáu đã hi sinh rồi. Giọng hát vẫn còn 
vang dội vào trái tim những người đang 
sống. Giục đi lên không bao giờ lùi” Biết 
ơn Võ Thị Sáu vượt lên với một ấn tượng 
kỳ lạ trong hàng chục triệu quân và dân ta. 
Những câu hát yêu thương ngợi ca hình ảnh 
bất tử về chị Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức 
Toàn hay hình tượng người anh hùng bất tử 
lấy thân mình làm giá súng gây chấn động 
sâu sắc trong hàng chục triệu đồng bào cả 
nước, cho đến những người anh hùng vô 
danh trong Dáng đứng Việt Nam (Nguyễn 
Hữu Trí, phổ thơ Lê Anh Xuân) đã thể 
hiện rõ ràng sự gắn bó hữu cơ giữa ca khúc 
với lịch sử. Bước chân trên dải Trường 
Sơn (Vũ Trọng Hối) đã đan dệt chuỗi ca 
khúc dọc đường giao liên “dài theo đất 
nước” đầy hào hùng theo bước tiến của 
những người chiến sĩ “đi theo ánh lửa trái 
tim mình” như những nhịp đi trầm hùng mà 
mạnh mẽ trước kẻ thù để giải phóng tổ 
quốc. Mặc dù “núi vút thành vách đứng, 
nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối”, 
nhưng đoàn quân vẫn cất bước đi hào hùng 
rầm rập “đá mòn mà đôi gót không mòn” 
“theo ánh lửa từ trái tim mình” vì “miền 
Nam đó đang dang tay gọi”. Lịch sử đi vào 
ca khúc và ca khúc đã nâng cao tầm nhìn về 
lịch sử lên một mức độ cao hơn và sâu sắc 
hơn. 
 Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ 
cứu nước, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ đã 
ngời sáng trong nhiều bài hát như thoát ra 
từ huyền thoại của nhân vật Thạch Sanh, 
đấu tranh cho lý tưởng giải phóng con 
người, giải phóng dân tộc. Họ đã chấp nhận 
biết bao gian khổ, hi sinh, bước vào cuộc 
chiến tranh gìn giữ độc lập dân tộc với ý 
chí sắt son, kiên quyết nhưng lại với cả một 
tấm lòng nhân hậu, một bản chất ngàn đời 
của dân tộc Việt Nam. Các ca khúc vẽ lên 
hình ảnh những chiến sĩ giải phóng quân 
trước và trong cách mạng Tháng Tám, rồi 
những anh vệ quốc đoàn, anh bộ đội cụ Hồ 
làm nên bao chiến tích khiến kẻ thù phải 
khiếp sợ nhưng rất đỗi thân thương với 
đồng bào. Hình ảnh người chiến sĩ Việt 
Nam tựu trung nhất ở các ca khúc, là hình 
ảnh những con người mang một trái tim 
cháy bỏng yêu thương hòa cùng tầm cao 
của trí tuệ - đó là Qua sông (Phạm Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 45 
Tuấn, 1963), Tiếng chày trên sóc Bom Bo 
(Xuân Hồng), Tiến về Sài gòn (Lưu Hữu 
Phước), Mỗi bước ta đi (Thuận Yến), Bước 
chân trên dải Trường Sơn (Vũ Trọng 
Hối), Bác vẫn cùng chúng cháu hành 
quân (Huy Thục), Chẳng kẻ thù nào ngăn 
nổi bước ta đi (Thanh Hải, Hải Hồ), Anh 
vẫn hành quân (Huy Du, phỏng thơ Trần 
Hữu Thung) Hình ảnh anh chiến sĩ giải 
phóng quân với chiếc mũ tai bèo “sáng 
trên đầu như một mảnh trời xanh”, đôi dép 
lốp vượt chông gai, tấm khăn dù quàng vai 
cùng cây súng đã trở thành hình tượng đẹp 
đẽ nhất của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 
cứu nước và “tên anh đã thành tên đất 
nước”. Có lẽ ít có một dân tộc nào trên trái 
đất này đã phải lấy xương máu của mình để 
đắp bồi cho mảnh đất của Tổ quốc ngay từ 
buổi đầu của lịch sử như dân tộc Việt Nam 
ta. Hình ảnh người chiến sĩ của chúng ta 
bước vào từng trận đánh với tâm hồn phơi 
phới, tràn đầy niềm tin và mang hồn thơ – 
nhạc. Những bài hát nêu trên nêu lên sự 
phát triển của lịch sử dân tộc, qua các thời 
đại, trong đó anh chiến sĩ được trưởng 
thành, từ những người chiến sĩ thuở “gậy 
tầm vông vót nhọn”, súng trường, lựu đạn 
đến người chiến sĩ lái máy bay, xe tăng, 
điều khiển súng phòng không, tên lửa, dám 
nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Dù được 
trang bị khác nhau, nhưng các chiến sĩ của 
các thời kỳ ấy đều cùng chung một ý 
nguyện giải phóng dân tộc, cùng một niềm 
tin tất thắng. 
 Sống trong lòng cuộc chiến, ước 
mơ của người lính cũng là mơ ước của mọi 
người – đó là ý chí chiến thắng kẻ thù. 
Chưa lúc nào ca khúc lại đầy hào khí, 
hoành tráng, đủ về chất và đầy về lượng 
như lúc này. Các ca khúc không chỉ nâng 
bổng bước chân thần tốc của đoàn quân 
vượt thác, băng ghềnh, đạp bằng mọi trở 
ngại gian nguy, mà còn là ngọn gió mát 
thổi vào tâm hồn lồng lộng, tạo nên sự 
hứng khởi vô song, tiếp thêm nguồn sinh 
lực dồi dào, tăng thêm sức mạnh mãnh liệt 
cho người chiến sĩ ra trận. Những năm 
tháng oanh liệt của lịch sử được thể hiện 
trong ca khúc và ca khúc là nhân chứng 
trung tâm cho những nhân chứng oai hùng 
của lịch sử thời chống Mỹ. Đây cũng là nét 
chấm phá quá rõ cho sự gắn bó hữu cơ giữa 
lịch sử và ca khúc. Điệu nhạc dồn dập như 
những bước chân rạo rực, điệu nhạc thôi 
thúc như thế tiến công trong Bão nổi lên 
rồi (Trọng Bằng), Tiến về Sài Gòn (Lưu 
Hữu Phước) đã làm thức dậy cả một giai 
đoạn lịch sử “Tiếng về Sài Gòn ta quét 
sạch giặc thù” để đạt mục tiêu cuối cùng là 
“giải phóng thành đô”. Cái riêng nằm 
trong cái chung “trên đường quê nghe tiếng 
mẹ ta khắc khoải mong chờ”. Tiến về Sài 
Gòn như một người lính xung trận trong 
mặt trận ca khúc được hun đúc từ ngọn lửa 
và bầu nhiệt huyết kỳ lạ từ lịch sử đời 
thường đã truyền tải rất sâu sắc trong hàng 
chục triệu chiến sĩ và người dân yêu nước, 
họ sẵn sàng hy sinh vì cách mạng đúng như 
lời bài hát. Giải phóng miền Nam (Huỳnh 
Minh Siêng) thể hiện những chủ trương, 
quyết tâm lớn của chúng ta cũng như những 
tình cảm thiết tha của nhân dân trong sự 
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất 
đất nước. Âm nhạc của bài hát thật rộn 
ràng, thúc giục, sẽ còn đọng lại mãi trong 
mỗi con người Việt Nam. 
 Từ những chuỗi âm thanh, sự kiện 
năm tháng sẽ sống động, tiếp thêm nguồn 
sinh lực cho hiện tại. Lời ca có thể biến 
thành sức mạnh khi nó đã vượt qua bến bờ 
của lý trí, biến thành tình cảm. Ca khúc đã 
có sức cảm hóa, thu hút diệu kỳ và đã làm 
được công việc phi thường ấy. Nhạc điệu 
và lời ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ 
cứu nước sẽ nâng cánh cho các sự kiện lịch 
sử oai hùng của dân tộc. Những giai điệu 
46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
của nhịp hành khúc là những giai điệu nhịp 
nhàng xuyên suốt chiều dài đất nước. 
Người chiến sĩ cầm súng chiến đấu, ngoài 
việc nhận lấy những gian khổ, hy sinh, đau 
thương của chiến tranh, họ còn nhận được 
những tình cảm yêu thương tràn đầy của 
những người mẹ, người chị, người em ở 
hậu phương. Họ lo cho người chiến sĩ từ 
miếng cơm ăn đến chiếc áo mặc. Họ động 
viên nhau làm hết sức mình để phục vụ tiền 
tuyến. Giai điệu vui tươi, tiết tấu nhanh, 
gấp gáp trong Bài ca may áo (Xuân Hồng) 
đã thể hiện không khí khẩn trương của công 
việc hậu phương. Họ cùng nhau may nhanh 
những tấm áo để người lính được ấm lòng 
nơi tiền tuyến. Tấm lòng của những người 
me, người chị, người em nơi quê nhà biểu 
hiện qua những tấm áo không chỉ mang 
tình cảm hậu phương mà còn tiếp thêm sức 
mạnh cho người chiến sĩ những khi mỏi 
mệt trên đường chiến đấu gian nan, là chỗ 
dựa tinh thần cho người chiến sĩ thể hiện 
trong bài Tấm áo mẹ vá năm xưa (Nguyễn 
Văn Tý). Ca khúc cứ thế mà trào dâng, 
cuồn cuộn như dòng suối chảy ào ạt. Anh 
vẫn hành quân (Huy Du phổ thơ Trần Hữu 
Thung), Tiếng đàn Talư (Huy Thục), 
Chiếc gậy Trường Sơn (Phạm Tuyên) viết 
về phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên 
miền Bắc trong những năm tiến hành chiến 
tranh chống Mỹ cứu nước. Bác vẫn cùng 
chúng cháu hành quân (Huy Thục), Sài 
Gòn quật khởi (Hồ Bắc), Hành quân đêm 
(Xuân Hồng), Trên đỉnh Trường Sơn ta 
hát (Huy Du).... đó là hình ảnh về những 
người chiến sĩ giải phóng từ đời thường của 
lịch sử đã đi vào ca khúc. 
 Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào, 
dù là viết về đề tài tình yêu, mảng ca khúc 
trong thời kì chống Mỹ vẫn toát lên một nét 
đẹp của chân – thiện – mỹ. Cái nhìn lạc 
quan trong đạn bom, khói lửa như Bài ca 
người nữ tự vệ Sài Gòn (Phạm Minh Tuấn, 
lời Lê Anh Xuân) hay Hành khúc ngày và 
đêm (Phan Huỳnh Điểu, phổ thơ Bùi Công 
Minh) đều mang một nét gì trầm trầm, oai 
nghiêm, bi tráng mà hào hùng rất phù hợp 
với tính cách dân tộc. Dù là hành khúc mà 
vẫn đậm đà, sâu lắng của một ca khúc viết 
về tình yêu. “Cái chết cúi gục đầu” trước 
tình yêu khi trên đồi cao pháo anh đang 
“nã vào đầu giặc Mỹ” và trên bục giảng 
dưới hầm trú ẩn “em cũng là chiến sĩ”. Họ 
vẫn sát cánh bên nhau trong chiến đấu dù 
thời gian ngăn trở còn “rất dài và rất xa” 
hay không gian chia cách họ “hai đứa ở hai 
đầu xa thẳm” của rừng già Trường Sơn. 
Yêu nhau tha thiết nhưng họ đã lấy công 
việc để “gạt nỗi riêng tư” và “xua đi nỗi 
nhớ”, nhưng mãi mãi trong họ Đông 
Trường Sơn vẫn nối Tây Trường Sơn như 
trong bài Trường Sơn đông – Trường Sơn 
tây (Hoàng Hiệp, phổ thơ Pham Tiến Duật). 
 Những ca khúc ở thời kì kháng 
chiến chống Mỹ cứu nước, dù viết ở đề tài 
nào cũng rực lửa cách mạng, mãi trường 
tồn cùng đất nước. Các ca khúc ở thời kì 
này thể hiện bản chất tuyệt vời của con 
người Việt Nam: kiên cường, sắt đá trước 
kẻ thù; yêu thương, nhân hậu với đồng bào, 
đồng chí; cứng rắn như sắt thép mà cũng 
mềm mại như tơ lụa. 
 Bên cạnh các bài hát có tiết tấu 
mạnh mẽ, hùng tráng như thúc giục là 
những âm thanh hiền hòa như thể hiện tình 
yêu thương, giàu lòng nhân ái của người 
Việt Nam. Khi Hoàng Hiệp viết Câu hò 
bên bờ Hiền Lương (1956) là lúc ông đã 
đồng cảm tận cùng với tâm trạng của người 
dân cách nhau ở hai đầu cầu giới tuyến. Sự 
trông ngóng giữa bờ Bắc và bờ Nam trong 
đời thực đã được đưa vào ca khúc. Bằng 
giai điệu của âm thanh, sự khắc khoải trông 
đợi, yêu thương đã được nêu bật. Cả phần 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 47 
âm nhạc và ca từ trong Câu hò bên bờ 
Hiền Lương mang đậm chất liệu âm nhạc 
dân ca của cả miền Nam lẫn miền Bắc, phải 
chăng sự thống nhất trong âm nhạc này 
cũng là niềm mơ ước cho sự thống nhất 
Bắc Nam trong từng con người Việt Nam?. 
Lời ca da diết, dạt dào cảm xúc trong bài 
Tình ca của Hoàng Việt cũng là cảnh thật ở 
đời thường. Cảnh vợ Nam chồng Bắc – sự 
thật của đời sống lúc ấy đã được ca khúc cụ 
thể hóa bằng chất liệu âm thanh. Ca khúc 
và lịch sử lại đan xen, hòa nhập vào nhau 
một cách trọn vẹn. Dường như bản Tình ca 
là một ca khúc hoàn chỉnh nhất của giai 
đoạn âm nhạc cách mạng thời kỳ 1957 khi 
đất nước còn bị chia cắt. Đó là sự hòa tan 
hai tâm hồn lớn trong sự nghiệp cách mạng 
cao cả. Vẻ đẹp của lời ca và giai điệu gây 
xúc động mãnh liệt cho người nghe. Tính 
hùng ca trữ tình của bài hát đã lấn át những 
nỗi buồn chia ly đau khổ, đem lại niềm yêu 
thuơng cuộc sống vô bờ bến trong mỗi con 
người. Tình ca đã xuất hiện và có sức sống 
bền vững suốt nửa thế kỷ qua. 
Ca khúc trong thời kỳ này đã gắn 
liền với lịch sử. Những ca khúc cách mạng 
đã giúp bao thế hệ giữ gìn truyền thống của 
cha ông và tự hoàn thiện nhân cách, với 
mỗi sự kiện lịch sử, gợi lên một nhân cách 
chân thực, mỗi một giai đoạn quá khứ. 
Chúng ta có thể không nhớ hết nổi những 
số liệu về năm tháng, không nhớ hết nổi 
những sự kiện đã diễn biến trong lịch sử 
nhưng khó có thể nào quên những ca khúc 
đã từng gắn liền với những trang sử chói 
lọi, hào hùng của quá khứ, những âm thanh, 
giai điệu đã từng làm rung động từng mạch 
máu, mỗi con tim của biết bao con người. 
Chính những ca khúc này đã làm tái hiện 
lịch sử, đã giúp cho lịch sử trở về từ quá 
khứ một cách sống động nhất. Các ca khúc 
có thể được xem như là một loại biên niên 
sử bằng âm thanh. Bởi vậy, ca khúc đã 
được mọi người đón nhận một cách nồng 
nhiệt. Vào cái ngày 30.4.1975 lịch sử ấy, ca 
khúc đã như tiếng kèn chiến thắng vang lên 
theo từng bước chân thần tốc của đoàn 
quân Tiến về Sài Gòn (Lưu Hữu Phước), 
đã như tiếng reo hòa chung của cả dân tộc 
trong niềm vui toàn thắng Như có Bác Hồ 
trong ngày vui đại thắng (Phạm Tuyên). 
Mọi người đã cùng sát cánh bên nhau 
hướng về ngày mai trong mùa xuân mới, 
mùa xuân chiến thắng, mùa xuân thống 
nhất, ta như nghe thấy tiếng cười hồ hởi 
tưng bừng, như nhìn thấy những ánh mắt 
lấp lánh ngời ngời tươi vui trong ca khúc 
Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh 
(Xuân Hồng, 1975). Và Đất nước trọn 
niềm vui được coi là một sự kiện âm nhạc 
chính trị xã hội lớn. Bài hát được sáng tác 
vào thời điểm miền Nam và Sài Gòn giải 
phóng. Đây là một trong những hành khúc 
nổi tiếng và có giá trị lịch sử trong thời 
điểm quan trọng nhất của đất nước ta. Ca 
khúc này đã mang trong mình cái trường 
tồn, cái bản chất của lịch sử. Một lần nữa 
nét điển hình của ca khúc Việt Nam ở thế 
kỷ XX, tính sử ca – lại được thể hiện một 
cách rõ rệt và sâu đậm nhất. 
3. Kết luận 
Ca khúc ở thời kỳ này lời ca hòa 
vào giai điệu thể hiện đậm nét bản sắc dân 
tộc của quá trình lịch sử, gợi lên ý thức 
theo năm tháng lịch sử là minh chứng cho 
tinh thần yêu nước, yêu hòa bình, yêu cuộc 
sống, yêu cái đẹp của dân tộc Việt Nam 
trong thời kỳ này. Ca khúc ở giai đoạn này 
đã thể hiện được lịch sử đấu tranh hào hùng 
và vẻ vang của một dân tộc kiêu hùng chưa 
hề biết khuất phục trước kẻ thù. Do song 
hành cùng với lịch sử nên hòa cùng nhịp 
bước rầm rập của cả nước trong cuộc chiến, 
vì vậy mà phần lớn chất liệu chính trong ca 
khúc ở thời kỳ này là nhịp hành khúc. Các 
ca khúc lúc này mang tiết tấu rộn ràng, dồn 
48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
dập như nhịp đi của con người Việt Nam 
trên đường chiến đấu oanh liệt và chiến 
thắng trước kẻ thù. Ca khúc bấy giờ như 
một đội kèn xung trận, một bản hiệu triệu 
thúc giục nhân dân ta đứng lên chống lại kẻ 
thù. Ở một khía cạnh nào đó, nó đã chứa 
đựng những tài liệu, sự kiện lịch sử cụ thể. 
 “Nếu sưu tầm được đầy đủ và đem 
sắp xếp theo đúng trình tự thời gian tất cả 
những bài hát sáng tác trong mấy chục 
năm qua, ta có thể có được một tuyển tập 
lớn gần như một biên niên sử bài hát cách 
mạng” [4, tr.6]. Một lần nữa, chúng ta có 
thể khẳng định rằng: Tính sử ca là nét điển 
hình của các ca khúc cách mạng Việt Nam 
ở giai đoạn 1954 -1975 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Thụy Kha (1998), Nửa thế kỷ Tân nhạc Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. 
[2] Nguyễn Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm nhạc. 
[3] Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên (2000), 
Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu, Viện Âm nhạc. 
[4] Nhiều tác giả (1975), Tiếng hát Việt Nam (1930-1963), tập 1, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
[5] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tân_Nhạc-Việt_Nam (25/3/2016) 
[6] https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhạc-đỏ (25/3/2016) 
[7] https://www.wattpad.com/6217882-lịch-sử-âm-nhạc-việt-nam (25/3/2016) 
[8]  
(02/4/2017) 
[9] https://vi.wikipedia.org/wiki/Âm_nhạc_Việt_Nam (11/4/2017) 
[10]  (26/4/2017) 
Abstarct 
Epic – The typical feature of Vietnamese songs in the period 1954 - 1975 
For twenty-one years (1954-1975), the country was split up into two regions, the 
people in the north of Viet Nam always united into a mass unanimously devoted to 
constructing the socialism in the North, fighting against the American imperialists and 
fighting for the country’s reunification. This political goal governed the entire social, 
economic and cultural life. Music as well as all other forms of arts and literature, always 
associated with the spiritual life of the people, especially during the war-time, the period in 
which mental factors was multiplied to encourage every citizen to contribute their utmost to 
the survival of the nation. In this article, the author continues to recommed the epics, as 
typical features of Vietnamese songs in the period 1954-1975. 
Keywords: epic, communist revolutionary musical gerne 1954-1975 

File đính kèm:

  • pdftinh_su_ca_net_dac_trung_cua_ca_khuc_cach_mang_viet_nam_giai.pdf