Tính khả thi của việc áp dụng pháp luật phá sản đối với tổ chức tín dụng

TÓM TẮT

Phá sản tổ chức tín dụng là một trong

những điểm nhấn đáng chú ý của Luật Phá sản

2014, chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày

01/01/2015. Đây là vấn đề được người dân và

doanh nghiệp đặc biệt quan tâm bởi lần đầu tiên

luật phá sản dành hẳn một chương quy định cụ

thể trình tự, thủ tục giải quyết phá sản tổ chức

tín dụng và cũng bởi từ trước đến nay chưa từng

có tổ chức tín dụng nào phá sản ở Việt Nam mặc

dù Luật Phá sản 2004 đã có đề cập đến vấn đề

này. Khi thảo luận về việc phá sản tổ chức tín

dụng, hầu hết các nhà khoa học Luật và người

dân đều đặt ra câu hỏi:“Liệu những quy định về

phá sản tổ chức tín dụng được đề cập trong Luật

Phá sản 2014 có phải là một bước tiến hay

không và tính khả thi của những quy định này

trên thực tế như thế nào?”. Để giải quyết câu

hỏi trên, bài viết sẽ phân tích những quy định

mới của Luật Phá sản 2014 về thủ tục phá sản

tổ chức tín dụng, đồng thời đi sâu làm rõ thực

tiễn áp dụng và tính khả thi của những quy định

này trên thực tế.

pdf 11 trang phuongnguyen 7260
Bạn đang xem tài liệu "Tính khả thi của việc áp dụng pháp luật phá sản đối với tổ chức tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính khả thi của việc áp dụng pháp luật phá sản đối với tổ chức tín dụng

Tính khả thi của việc áp dụng pháp luật phá sản đối với tổ chức tín dụng
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 
Trang 60 
Tính khả thi của việc áp dụng pháp luật 
phá sản đối với tổ chức tín dụng 
 Cao Thị Thùy Nhƣ 
Trường Đại học Thủ Dầu Một - Email: nhuctt@tdmu.edu.vn 
(Bài nhận ngày 29 tháng 9 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 25 tháng 01 năm 2016) 
TÓM TẮT 
Phá sản tổ chức tín dụng là một trong 
những điểm nhấn đáng chú ý của Luật Phá sản 
2014, chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 
01/01/2015. Đây là vấn đề được người dân và 
doanh nghiệp đặc biệt quan tâm bởi lần đầu tiên 
luật phá sản dành hẳn một chương quy định cụ 
thể trình tự, thủ tục giải quyết phá sản tổ chức 
tín dụng và cũng bởi từ trước đến nay chưa từng 
có tổ chức tín dụng nào phá sản ở Việt Nam mặc 
dù Luật Phá sản 2004 đã có đề cập đến vấn đề 
này. Khi thảo luận về việc phá sản tổ chức tín 
dụng, hầu hết các nhà khoa học Luật và người 
dân đều đặt ra câu hỏi:“Liệu những quy định về 
phá sản tổ chức tín dụng được đề cập trong Luật 
Phá sản 2014 có phải là một bước tiến hay 
không và tính khả thi của những quy định này 
trên thực tế như thế nào?”. Để giải quyết câu 
hỏi trên, bài viết sẽ phân tích những quy định 
mới của Luật Phá sản 2014 về thủ tục phá sản 
tổ chức tín dụng, đồng thời đi sâu làm rõ thực 
tiễn áp dụng và tính khả thi của những quy định 
này trên thực tế. 
Từ khóa: tính khả thi, phá sản, tổ chức tín dụng. 
1. GIỚI THIỆU 
Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp 
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động 
ngân hàng. TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD 
phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ 
tín dụng nhân dân1. Như vậy, TCTD cũng là một 
doanh nghiệp có chức năng kinh doanh và do đó 
phá sản là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị 
trường nếu TCTD đó không đủ năng lực để cạnh 
tranh với các TCTD khác. Tuy nhiên, khác với 
các doanh nghiệp thông thường, TCTD là một 
loại doanh nghiệp đặc biệt, thể hiện ở nội dung 
hoạt động và cách thức hoạt động. Về nội dung 
hoạt động, TCTD hoạt động với tư cách là một 
1 Khoản 1, Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010. 
trung gian tài chính trong nền kinh tế. Về cách 
thức hoạt động, TCTD có thể có rất nhiều tài 
khoản phục vụ cho hoạt động của mình và đồng 
thời phải quản lý một số lượng tài khoản vô 
cùng lớn của khách hàng. Chính vì vậy, khả 
năng tác động của TCTD, đặc biệt là ngân hàng 
thương mại, đối với nền kinh tế rất lớn. Chỉ cần 
một ngân hàng sụp đổ sẽ kéo theo những hệ quả 
khôn lường cho hệ thống tài chính quốc gia, cụ 
thể như sau: 
Thứ nhất, phá sản TCTD sẽ gây ảnh hưởng 
đến quyền lợi người gửi tiền. Đối với khách 
hàng là cá nhân, khoản tiền gửi trong TCTD là 
khoản tiền tiết kiệm mà họ tích góp được trong 
quá trình lao động. Họ gửi tiền vào TCTD với 
hy vọng đảm bảo an toàn cho khoản tiền gửi và 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 
Trang 61 
thu được một khoản lãi từ số tiền này. Đối với 
khách hàng là tổ chức, đây là khoản tiền vốn 
nhàn rỗi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc khoản 
lợi nhuận không chia nhằm tái sản xuất kinh 
doanh trong thời gian tới. Xuất phát từ tầm quan 
trọng của khoản tiền gửi đối với người gửi tiền, 
việc tổ chức nhận tiền gửi bị tuyên bố phá sản sẽ 
gây ra hậu quả không nhỏ đối với đời sống và 
hoạt động sản xuất kinh doanh của người gửi 
tiền. 
Thứ hai, phá sản TCTD sẽ gây đổ vỡ cả hệ 
thống tài chính. Hiện tượng này được gọi là 
“hiệu ứng domino” trong phá sản. Theo lý 
thuyết chung, trong nền kinh tế, các doanh 
nghiệp đều có mối quan hệ hợp tác kinh doanh 
với nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Một 
doanh nghiệp bị phá sản thì tất yếu sẽ dẫn đến 
sự đổ vỡ của những doanh nghiệp có mối quan 
hệ hợp tác với nó và dần dần sự đổ vỡ này sẽ lan 
sang các doanh nghiệp khác, cuối cùng sẽ gây 
sụp đổ cả nền kinh tế. Đối với TCTD, do là một 
loại doanh nghiệp đặc biệt nên hiệu ứng domino 
diễn ra càng nhanh và gây hậu quả nặng nề hơn. 
Theo đó, việc một số khách hàng bị mất tiền gửi 
tại TCTD bị tuyên bố phá sản sẽ gây tâm lý 
hoang mang cho khách hàng gửi tiền ở những 
TCTD khác, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng 
loạt trong hệ thống TCTD. Khi tất cả khách 
hàng đều yêu cầu rút tiền trước thời hạn, TCTD 
sẽ không thể xoay vòng vốn và không đủ khả 
năng chi trả, điều này có thể dẫn đến nguy cơ 
phá sản ở cả những TCTD lẽ ra đang hoạt động 
bình thường. 
Thứ ba, phá sản TCTD sẽ gây mất trật tự xã 
hội. Việc người dân chen chúc, đổ xô đi rút tiền 
với tâm lý hoang mang cũng sẽ gây ảnh hưởng 
không tốt đến trật tự an toàn xã hội và sẽ rất khó 
cho cơ quan chức năng trong việc ổn định trật tự 
và trấn an người dân khi toàn bộ tài sản của họ 
đều đang ủy thác cho TCTD. Bên cạnh đó, khi 
hệ thống TCTD sụp đổ, số lượng lớn người lao 
động làm việc trong TCTD sẽ bị thất nghiệp và 
khó có thể tìm được công việc phù hợp trong 
thời gian ngắn. Đây sẽ là một gánh nặng rất lớn 
cho xã hội. 
Từ những hậu quả nặng nề mà việc phá sản 
TCTD có thể gây ra cho nền tài chính quốc gia, 
việc phá sản TCTD trở thành một trong những 
vấn đề nhạy cảm được Nhà nước cân nhắc rất kỹ 
lưỡng. Đó là lý do tại sao trong một khoảng thời 
gian dài từ khi Luật Phá sản lần đầu tiên được 
ban hành vào năm 1993 đến nay, Tòa án Việt 
Nam chưa từng tiếp nhận bất kỳ vụ việc phá sản 
nào liên quan đến TCTD trong khi số lượng 
TCTD hoạt động yếu kém ở nước ta không nhỏ. 
Đáng nhớ nhất trong lịch sử là vào những năm 
1990, hàng loạt hợp tác xã tín dụng đổ vỡ để lại 
hàng loạt khó khăn cho nền kinh tế và xã hội. 
Tuy nhiên, Luật Phá sản 1993 không có bất kỳ 
quy định nào đề cập đến vấn đề phá sản TCTD, 
do đó các hợp tác xã tín dụng yếu kém được giải 
quyết bằng cách hợp nhất, sáp nhập, mua lại đổi 
tên, trường hợp xấu nhất là giải thể. Năm 2004, 
Luật Phá sản mới được ban hành thay thế cho 
Luật Phá sản 1993, theo đó danh mục các doanh 
nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài 
chính, ngân hàng, bảo hiểm được áp dụng Luật 
Phá sản do Chính phủ quy định2. Và theo Đề án 
“Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 
2011-2015” ban hành kèm theo Quyết định 
254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 do Thủ tướng 
Chính phủ phê duyệt, tạm thời chưa áp dụng 
giải pháp phá sản TCTD theo quy định của Luật 
Phá sản trong giai đoạn hiện nay để bảo đảm giữ 
vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và 
trật tự an toàn xã hội. Thay vào đó, Ngân hàng 
Nhà nước khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, 
mua lại các TCTD theo nguyên tắc tự nguyện, 
bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các 
quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên 
quan. Như vậy, phá sản TCTD là sự việc chưa 
từng xảy ra trong khoảng thời gian có hiệu lực 
2 Khoản 2, Điều 2 Luật Phá sản 2004. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 
Trang 62 
của Luật Phá sản 1993 và Luật Phá sản 2004. 
Đến năm 2014, Luật Phá sản mới được thông 
qua và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 
01/01/2015. Một trong những đổi mới căn bản 
của luật này là đã dành hẳn một chương riêng để 
quy định việc phá sản TCTD. Điều này đồng 
nghĩa với việc Nhà nước đã chính thức cho phép 
áp dụng pháp luật phá sản đối với những TCTD 
yếu kém. 
Trên cơ sở quan điểm mới mang tính bước 
ngoặc của Luật Phá sản 2014, bài viết sẽ tập 
trung vào các nội dung sau: 
(i) Phân tích thực tiễn giải quyết tình trạng 
TCTD mất khả năng thanh toán trong khoảng 
thời gian có hiệu lực của Luật Phá sản 1993 và 
Luật Phá sản 2004; 
(ii) Làm rõ quy định của Luật Phá sản 2014 
về thủ tục phá sản TCTD; 
(iii) Đánh giá tính khả thi của các quy định 
về phá sản TCTD trong Luật Phá sản 2014 trên 
cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của hệ 
thống các TCTD ở nước ta hiện nay và quan 
điểm của Nhà nước đối với vấn đề phá sản 
TCTD. 
Trong số các nội dung được đề cập trên, bài 
viết xin tập trung đi sâu vào nội dung thứ (iii) để 
xem liệu Luật Phá sản 2014 nói chung và các 
quy định về phá sản TCTD nói riêng có khả 
năng khắc phục được nhược điểm của hai luật 
phá sản trước không, hay nói cách khác là liệu 
Luật Phá sản 2014 có thể góp phần giải quyết 
một cách “gọn gàng” hậu quả sau phá sản của 
các doanh nghiệp, hợp tác xã nói chung và 
TCTD nói riêng để làm lành mạnh hóa nền kinh 
tế hay không. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích 
Phá sản TCTD là vấn đề đã được đề cập từ 
khá lâu và là chủ đề được đưa ra thảo luận sôi 
nổi trong khoảng thời gian chuẩn bị sửa đổi Luật 
Phá sản 2004. Sở dĩ vấn đề này nhận được nhiều 
sự quan tâm của dư luận là do thực trạng nợ xấu 
và khả năng hoạt động yếu kém của hàng loạt 
TCTD trong thời gian qua, đặc biệt là các ngân 
hàng thương mại. Trên các phương tiện thông 
tin đại chúng đã có nhiều bài viết cập nhật quy 
định mới của Luật Phá sản 2014 về thủ tục phá 
sản TCTD khi Luật này còn trong giai đoạn lập 
dự thảo và khi Quốc hội chính thức thông qua. 
Nội dung các bài viết này cũng có đề cập đến 
tính khả thi của những quy định pháp luật phá 
sản trên thực tế, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ 
bài báo mang tính thời sự, chưa phân tích một 
cách cụ thể và khoa học. 
Về công trình nghiên cứu, đã có một số bài 
báo khoa học được công bố trên các tạp chí 
trong nước có nội dung liên quan đến vấn đề 
phá sản TCTD, bao gồm một số bài viết tiêu 
biểu sau: 
Bài viết “Định hướng xây dựng pháp luật 
phá sản các tổ chức tín dụng” của tác giả 
Nguyễn Văn Vân đăng trên Tạp chí Khoa học 
pháp lý số 8/2002 ra đời vào thời điểm Nhà 
nước chuẩn bị sửa đổi Luật Phá sản doanh 
nghiệp 1993. Bài viết nhấn mạnh sự chồng chéo 
trong các quy định của Luật Phá sản doanh 
nghiệp 1993, Luật Các tổ chức tín dụng 1997 và 
các văn bản dưới luật khác dẫn đến nhiều bất 
cập trong quá trình xây dựng và áp dụng thủ tục 
phá sản TCTD. Ưu điểm của bài viết là tác giả 
đã đóng góp hai xu hướng ban hành pháp luật 
phá sản TCTD và một số nội dung khác có liên 
quan thông qua việc nghiên cứu pháp luật phá 
sản của một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, do 
bài viết ra đời từ khá lâu nên một số phân tích 
của bài viết đã không còn phù hợp với quy định 
của pháp luật hiện hành và tình hình thực tế của 
xã hội. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 
Trang 63 
Bài viết “Giải quyết phá sản tổ chức tín 
dụng: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt 
Nam” của tác giả Cao Đăng Vinh đăng trên Tạp 
chí Dân chủ và Pháp luật số 12/2009 nhấn mạnh 
sự cần thiết phải có những quy định đặc thù đối 
với những TCTD lâm vào tình trạng phá sản 
xuất phát từ chính những yếu tố đặc thù trong 
quá trình hoạt động của loại hình kinh doanh 
này. Đồng thời, bài viết cũng trình bày sơ lược 
về các xu hướng ban hành pháp luật phá sản của 
một số quốc gia trên thế giới và nhấn mạnh quan 
điểm của những quốc gia theo xu hướng cho 
phép phá sản TCTD. Tuy nhiên, bài viết chưa 
phân tích điều kiện thực tế của Việt Nam và 
chưa chỉ ra những kinh nghiệm quốc tế nào có 
thể được áp dụng một cách hiệu quả vào thực 
tiễn hoạt động của các TCTD ở Việt Nam. 
Ngoài hai bài viết trên, vẫn còn một số bài 
viết khác được công bố ở Việt Nam có liên quan 
đến đối tượng nghiên cứu. Nhìn chung, quan 
điểm của hầu hết các tác giả là cần thiết xây 
dựng cơ chế đặc thù để giải quyết triệt để vấn đề 
phá sản TCTD. Không phủ nhận sự đóng góp 
của các bài viết trên nhưng chúng đều đã tương 
đối lạc hậu và không còn giá trị cập nhật bởi sự 
ra đời của Luật Phá sản 2014 - điều sẽ được 
khắc phục trong bài viết này. Đồng thời, trong 
phạm vi bài viết, người viết muốn tiếp cận vấn 
đề phá sản TCTD theo một góc nhìn khác, đó là 
đánh giá tính khả thi của những quy định này 
trên thực tế. 
Trên cơ sở đối tượng và mục đích nghiên 
cứu, bài viết được bố cục như sau: 
1. Giới thiệu 
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên 
cứu 
3. Kết quả và thảo luận 
4. Kết luận và kiến nghị 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Bài viết sử dụng các phương pháp sau: 
(i) Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái 
quát hóa: Phương pháp này được sử dụng để 
làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý liên 
quan đến vấn đề phá sản TCTD. 
(ii) Phương pháp thống kê, điều tra xã hội 
học: Phương pháp này được sử dụng nhằm làm 
rõ thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết các 
TCTD yếu kém trong thời gian qua, từ đó đưa ra 
các ý kiến nhận xét, đánh giá về vấn đề phá sản 
TCTD ở Việt Nam. 
(iii) Phương pháp so sánh, đối chiếu pháp 
luật: phương pháp này được sử dụng để làm rõ 
những điểm tương đồng và khác biệt giữa Luật 
Phá sản 2014 với Luật Phá sản 1993 và Luật 
Phá sản 2004, từ đó nhấn mạnh những điểm mới 
của Luật Phá sản 2014 về phá sản TCTD. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Kết quả nghiên cứu 
Thủ tục phá sản TCTD là một thủ tục tư 
pháp được tiến hành bởi Tòa án. Điều này hoàn 
toàn phù hợp với thông lệ chung của đa số các 
nước trên thế giới, ngoại trừ một số nước xem 
thủ tục phá sản là một thủ tục hành chính (Hoa 
Kỳ, Italy) hay là sự kết hợp giữa thủ tục hành 
chính và thủ tục tư pháp (Australia, Pháp, Hà 
Lan). Mặc dù vẫn còn nhiều quan điểm cho rằng 
Nhà nước nên ban hành một văn bản Luật riêng 
điều chỉnh vấn đề phá sản TCTD nhưng theo 
quan điểm của người viết thì việc lồng ghép nội 
dung này vào Luật Phá sản 2014 là hoàn toàn 
phù hợp bởi TCTD cũng là một loại hình doanh 
nghiệp và cần phải được thể hiện sự ngang bằng 
về vị thế với các loại hình doanh nghiệp, hợp tác 
xã khác. Tính đặc thù của TCTD trong quá trình 
giải quyết thủ tục phá sản đã được Nhà nước 
xem xét bằng cách tách nội dung này thành một 
chương riêng trong Luật Phá sản 2014. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 
Trang 64 
Theo quy định của Luật Phá sản 2014, thủ 
tục phá sản TCTD bao gồm các bước cơ bản 
sau: 
(1) Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 
Khác với thủ tục phá sản doanh nghiệp thông 
thường, việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá 
sản đối với TCTD chỉ được thực hiện sau khi 
Ngân hàng nhà nước đã có văn bản xác nhận 
không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng 
thanh toán hoặc đã qua giai đoạn kiểm soát đặc 
biệt nhưng TCTD vẫn không thể phục hồi. Quy 
định này hoàn toàn phù hợp với Luật các tổ 
chức tín dụng 2010 nhằm đảm bảo rằng khi một 
TCTD bị mở thủ tục phá sản thì chắc chắn rằng 
TCTD này đã thực sự mất khả năng thanh toán 
và không thể phục hồi, tránh gây tâm lý hoang 
mang và ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD 
nói riêng và cả hệ thống TCTD nói chung. Có 
thể nói giai đoạn kiểm soát đặc biệt chính là giai 
đoạn áp dụng các biện pháp phục hồi hoạt động 
kinh doanh cho TCTD và nó được thực hiện 
trước khi tiến hành thủ tục phá sản. Hầu như 
không có quốc gia nào trên thế giới cho phép 
TCTD áp dụng giai đoạn phục hồi hoạt động 
kinh doanh sau khi mở thủ tục phá sản bởi Nhà 
nước luôn mong muốn vực dậy TCTD càng sớm 
càng tốt, và một khi TCTD bị mở thủ tục phá 
sản thì việc thanh lý tài sản của TCTD đó là tất 
yếu. Đây cũng là lý do tại sao thủ tục phá sản 
TCTD được rút gọn đi các bước tổ chức hội 
nghị chủ nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh. 
Về đối tượng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục 
phá sản, tương tự như đối với ... g xảy ra. 
Trả lại tài sản nhận ủy thác, nhận giữ hộ 
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày 
nhận được quyết định tuyên bố TCTD phá sản, 
chủ sở hữu tài sản ủy thác cho TCTD, gửi 
TCTD giữ hộ, giao TCTD quản lý thông qua 
hợp đồng ủy thác, giữ hộ, quản lý tài sản phải 
xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và 
hồ sơ, giấy tờ liên quan với cơ quan thi hành án 
dân sự để nhận lại tài sản của mình. 
Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã chính thức 
luật hóa vấn đề phá sản TCTD và như vậy là 
những khiếm khuyết của Luật Phá sản 1993 và 
Luật Phá sản 2004 đã được khắc phục. Vấn đề 
tiếp theo cần xem xét đó là liệu những quy định 
mới này sẽ được áp dụng trên thực tế hay chỉ 
nằm trên lý thuyết? Câu trả lời phụ thuộc hoàn 
toàn vào quan điểm của Nhà nước. Nếu Nhà 
nước vẫn e ngại hậu quả từ việc phá sản TCTD 
và vẫn kiên trì áp dụng các biện pháp tái cấu 
trúc TCTD thay vì cho phá sản chúng thì tính 
khả thi của các quy định tại Chương VIII Luật 
Phá sản 2014 sẽ không bao giờ được đảm bảo. 
Ngược lại, nếu Nhà nước để cho TCTD hoạt 
động đúng theo quy luật của nền kinh tế thị 
trường thì những quy định trên có thể được xem 
là bước đột phá so với hai luật phá sản cũ bởi 
lần đầu tiên ở Việt Nam những quy phạm pháp 
luật phá sản TCTD được đi vào cuộc sống. 
3.2. Thảo luận 
Luật Phá sản 2014 đã chính thức có hiệu lực 
thi hành từ ngày 01/01/2015, thế nhưng dường 
như Nhà nước ta vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng để 
cho phá sản TCTD. Một trường hợp thực tế gần 
đây nhất là vụ việc Nhà nước mua lại toàn bộ cổ 
phần của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại 
Dương (OceanBank) với giá 0 đồng/ 1 cổ phần 
vào tháng 4/2015 và trước đó là Ngân hàng 
Thương mại Cổ phần Xây dựng (VNCB). 
Nguyên nhân của việc mua lại3 là do hoạt động 
kinh doanh của OceanBank bộc lộ nhiều yếu 
kém, đã qua giai đoạn kiểm soát đặc biệt của 
Ngân hàng Nhà nước nhưng vẫn không có các 
giải pháp khả thi để tăng vốn điều lệ đảm bảo 
mức vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước. 
Như vậy, có thể thấy rằng trong trường hợp trên 
3 Hiện tại, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về trường 
hợp của OceanBank. Có ý kiến cho rằng việc Nhà nước mua 
lại toàn bộ cổ phần của OceanBank với giá 0 đồng không 
phải là hình thức quốc hữu hóa mà thực chất Nhà nước 
đang giao dịch theo giá thị trường. Chính vì Oceanbank đã 
mất hết vốn nên giá trị cổ phần bằng 0 và do đó việc Nhà 
nước không mất tiền vẫn có thể sở hữu ngân hàng này là 
điều tất yếu. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của người 
viết, quốc hữu hóa cũng có thể được hiểu là việc Nhà nước 
nắm quyền kiểm soát các ngân hàng, có đền bù hoặc không, 
để tránh tình trạng ngân hàng phá sản dẫn đến những hậu 
quả nặng nề cho nền kinh tế. Sau khi quốc hữu hóa, Nhà 
nước sẽ đưa ra quyết định về việc sắp xếp ban lãnh đạo, 
chiến lược hoạt động của ngân hàng đó. Chính sách này đã 
được áp dụng ở một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ trong 
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Ấn Độ trong giai 
đoạn từ năm 1955 – 1980 và trong thời gian tới có khả năng 
Hy Lạp cũng sẽ áp dụng chính sách tương tự để giải quyết 
tình trạng khủng hoảng nợ quốc tế. Quay lại trường hợp của 
OceanBank, mặc dù không nhằm thực hiện chính sách tiền 
tệ theo đúng bản chất của từ “quốc hữu hóa”, nhưng thực 
chất OceanBank đã bị quốc hữu hóa về mặt kỹ thuật khi Nhà 
nước thu lại toàn bộ cổ phần của Oceanbank với giá 0 đồng, 
sau đó chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thành Ngân hàng 
trách nhiệm hữu hạn một thành viên và giao cho VietinBank 
quản lý để “cứu” OceanBank khỏi tình trạng phá sản. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 
Trang 67 
OceanBank đã lâm vào tình trạng mất khả năng 
thanh toán và không thể phục hồi sau giai đoạn 
kiểm soát đặc biệt. Căn cứ theo quy định của 
Luật Phá sản 2014, các chủ thể được đề cập tại 
Điều 5 Luật Phá sản 2014 và Ngân hàng Nhà 
nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá 
sản đối với OceanBank, Tòa án có thẩm quyền 
sẽ thụ lý, tuyên bố ngân hàng này phá sản và 
giải quyết các hệ quả pháp lý theo quy định của 
pháp luật phá sản được đề cập trên. Tuy nhiên, 
vì quyền lợi của người gửi tiền và tránh những 
tác động xấu có thể xảy đến cho nền tài chính 
quốc gia, Nhà nước đã không áp dụng quy định 
của Luật Phá sản mới mà lại tiếp tục giải quyết 
theo cách thức truyền thống. Như vậy, Luật Phá 
sản 2014 dường như chưa mang tính khả thi khi 
nó không được áp dụng để giải quyết những 
trường hợp xảy ra trong khoảng thời gian mà nó 
có hiệu lực thi hành. 
Theo quan điểm riêng của người viết, phá 
sản để đào thải những doanh nghiệp yếu kém là 
quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Mặc 
dù những hậu quả có thể xảy ra từ việc phá sản 
TCTD là rất lớn nhưng không nên vì vậy mà 
Nhà nước cho phép TCTD được hưởng ngoại lệ 
so các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực 
khác. Có thể nói giai đoạn kiểm soát đặc biệt 
trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 
đối với TCTD đã là một “ân huệ” rất lớn cho 
chủ thể này, bởi trong giai đoạn kiểm soát đặc 
biệt, Ngân hàng Nhà nước và các TCTD khác sẽ 
hỗ trợ tất cả các điều kiện cần thiết, đặc biệt là 
vốn, để TCTD mất khả năng thanh toán có thể 
khôi phục hoạt động kinh doanh. Do đó, nếu 
TCTD không thể vượt qua giai đoạn khó khăn 
thì đồng nghĩa với việc TCTD đó không đủ khả 
năng để tồn tại trên thị trường. Một vấn đề nữa 
cần đặt ra đó là việc thành lập tràn lan các 
TCTD trong thời gian qua và hệ quả sau đó là 
kinh doanh không hiệu quả và tái cấu trúc một 
cách ồ ạt. Điều này gây xáo trộn trong hệ thống 
TCTD và lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc 
của Nhà nước và doanh nghiệp. Theo người 
viết, việc mạnh tay cho phép phá sản TCTD sẽ 
góp phần định hướng cho nhà đầu tư khi quyết 
định bỏ vốn thành lập TCTD, hoặc là họ xây 
dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp và tạo 
được vị thế trên thương trường, hoặc là họ sẽ 
phá sản, mất toàn bộ vốn đầu tư và gánh chịu 
những hậu quả nặng nề từ việc phá sản. Không 
có lý do gì Nhà nước cấp giấy phép thành lập 
TCTD một cách ồ ạt rồi sau đó buộc các TCTD 
lớn, uy tín phải nhận sáp nhập những TCTD yếu 
kém, trừ khi chính bản thân TCTD lớn nhận 
thấy những lợi thế có thể khai thác từ TCTD yếu 
kém và tự nguyện nhận sáp nhập. Về phần 
khách hàng gửi tiền, mặc dù những thiệt hại mà 
họ phải gánh chịu từ việc phá sản TCTD là khá 
lớn nhưng nếu nhận thức được những thiệt hại 
này thì họ sẽ cân nhắc hơn trong việc lựa chọn 
TCTD nhận tiền gửi. Theo khảo sát, phần lớn 
người gửi tiền ở Việt Nam đều không ý thức 
được những rủi ro có thể xảy đến với số tiền gửi 
của mình, thậm chí họ còn cho rằng gửi tiền ở 
ngân hàng chính là giải pháp an toàn nhất. Khi 
được đề cập đến vấn đề phá sản TCTD và bảo 
hiểm tiền gửi, hầu hết khách hàng đều không tin 
rằng TCTD sẽ phá sản vì đã có Nhà nước “lo 
liệu”, đồng thời họ cũng không biết đến sự tồn 
tại của khoản bảo hiểm tiền gửi mà họ được 
nhận sau khi TCTD phá sản. Từ đó có thể thấy 
rằng khách hàng của TCTD chỉ lựa chọn TCTD 
nhận tiền gửi một cách cảm tính hoặc theo 
những ưu đãi mà TCTD đặt ra như lãi suất, 
khuyến mại bằng các hình thức tặng quà hoặc 
rút thăm trúng thưởng... Theo người viết, việc 
Nhà nước bao bọc cho các TCTD trong thời 
gian qua đã phần nào tạo tâm lý ỷ lại của người 
dân vào Nhà nước. Họ không bao giờ tìm hiểu 
thực trạng tài chính và khả năng thanh toán của 
TCTD trước khi quyết định gửi tiền, do đó thiệt 
hại xảy ra đối với khoản tiền gửi khi TCTD 
không còn khả năng thanh toán là tất yếu. Như 
vậy, việc Nhà nước thay đổi quan điểm đối với 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 
Trang 68 
vấn đề phá sản TCTD không hoàn toàn là tiêu 
cực mà nó vẫn mang lại những giá trị tích cực 
nhất định đối với cả TCTD và người gửi tiền. 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
4.1. Kết luận 
Qua phân tích từ bài viết, có thể thấy rằng 
trình tự, thủ tục giải quyết phá sản TCTD đã 
được quy định một cách tương đối hợp lý và phù 
hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trải qua 
hơn 1 năm có hiệu lực thi hành nhưng những 
quy định về vấn đề phá sản TCTD của Luật Phá 
sản 2014 vẫn chưa từng được áp dụng trên thực 
tế. Để đảm bảo tính khả thi của những quy định 
này, chúng ta cần có sự thay đổi về mặt tâm lý 
và chuẩn bị kỹ lưỡng những điều kiện cần thiết 
để hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của việc 
phá sản TCTD đối với nền kinh tế. 
4.2. Kiến nghị 
Theo người viết, Nhà nước cần mạnh tay cho 
phép phá sản đối với các TCTD yếu kém trên cơ 
sở đánh giá mức độ tác động của từng TCTD 
đối với hệ thống tài chính quốc gia. Điều này có 
nghĩa rằng Nhà nước chỉ nên “cân nhắc” trong 
trường hợp sự đổ vỡ quá lớn có thể gây ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, và kiên 
quyết áp dụng thủ tục phá sản đối với những 
trường hợp còn lại. Người viết đề xuất quan 
điểm trên xuất phát từ hai nguyên nhân: (i) Nhà 
nước ta là Nhà nước pháp quyền, đề cao tính 
nghiêm minh của pháp luật, do đó nếu những 
quy định về phá sản TCTD đã được thông qua 
bởi cơ quan quyền lực Nhà nước thì chắc chắn 
chúng phải được thi hành trên thực tế; (ii) Tái 
cấu trúc, mua lại TCTD yếu kém chỉ là giải 
pháp tạm thời bởi Nhà nước không thể dùng 
mệnh lệnh hành chính để can thiệp vào quá trình 
hợp nhất, sáp nhập TCTD hoặc buộc một TCTD 
nào đó phải tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của một 
TCTD yếu kém. Sẽ là một gánh nặng rất lớn đối 
với TCTD nếu việc tái cấu trúc không được thực 
hiện theo quy luật thị trường. Do đó, trong giai 
đoạn hiện nay khi chúng ta chưa chuẩn bị đầy 
đủ những điều kiện cần thiết để khắc phục hậu 
quả sau phá sản thì tái cấu trúc có thể là giải 
pháp tối ưu, nhưng trong tương lai giải pháp phá 
sản cũng nên được xem xét áp dụng để đảm bảo 
tính khả thi của luật. 
Nhằm hoàn thiện khung pháp lý liên quan 
đến vấn đề phá sản TCTD, người viết đề xuất 
một số ý kiến sau: 
Thứ nhất, Nhà nước cần tăng cường giám sát 
hoạt động của TCTD để ngăn chặn sự đổ vỡ 
ngay từ đầu. Có thể nói rằng việc Ngân hàng 
Nhà nước xác định dấu hiệu bất ổn của TCTD 
đúng thời điểm và có những biện pháp hữu hiệu 
để can thiệp kịp thời đóng vai trò rất quan trọng 
trong việc phục hồi khả năng kinh doanh của 
TCTD. Thêm vào đó, vai trò của tổ chức Bảo 
hiểm tiền gửi Việt Nam nên được đề cao. Cơ 
quan này có thể được xem như là đối tác hỗ trợ 
cho Ngân hàng nhà nước trong quá trình vực 
dậy TCTD bằng cách cho TCTD vay những 
khoản vay ngắn hạn hoặc đề xuất phương hướng 
kinh doanh mới phù hợp hơn. Điều này cũng 
hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc 
tế bởi quyền lợi của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi 
gắn với sự bền vững của hệ thống ngân hàng. 
Thứ hai, thứ tự ưu tiên thanh toán khi thanh 
lý tài sản của TCTD cần được xem xét lại. 
Dường như đã có sự “thiên vị” trong chính sách 
của Nhà nước đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi 
khi chủ thể này được xếp cùng thứ tự ưu tiên 
thanh toán với người gửi tiền. Theo quan điểm 
của người viết, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể 
được xem là một loại chủ nợ không bảo đảm của 
TCTD và do đó nên được xếp cùng thứ tự ưu 
tiên thanh toán với các chủ nợ không bảo đảm 
khác, ngoại trừ người gửi tiền. Sở dĩ người viết 
đưa ra kiến nghị này vì các nguyên nhân sau: (i) 
Khi tham gia bảo hiểm tiền gửi, TCTD đã nộp 
phí bảo hiểm tiền gửi, khoản phí này có thể 
được tổ chức bảo hiểm tiền gửi mang đi đầu tư 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 
Trang 69 
và thu lợi nhận, do đó khi TCTD phá sản thì tất 
yếu tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải có trách 
nhiệm bù đắp một phần thiệt hại cho người gửi 
tiền; (ii) Mặc dù không phải là đối tượng dễ bị 
tổn thương nhất khi TCTD phá sản nhưng quyền 
lợi của các chủ nợ không bảo đảm khác cũng 
cần phải được quan tâm và bảo vệ bởi những 
thiệt hại mà họ phải gánh chịu khi TCTD phá 
sản cũng không hề nhỏ, do đó sẽ không công 
bằng nếu loại chủ nợ này luôn bị xếp sau tất cả 
các loại chủ nợ khác. Từ những lý do trên, 
người viết cho rằng trong số các chủ nợ không 
bảo đảm, chỉ có người gửi tiền là nên được ưu 
tiên thanh toán trước, còn các chủ thể còn lại 
như tổ chức bảo hiểm tiền gửi, Nhà nước và các 
chủ nợ không bảo đảm khác nên được xếp cùng 
một thứ tự ưu tiên thanh toán. Điều này cũng 
phù hợp với quan điểm của Nhà nước về việc 
bảo vệ tối đa quyền lợi của người gửi tiền, bởi 
số tiền mà họ được nhận sẽ cao hơn nếu điều 
chỉnh thứ tự ưu tiên thanh toán theo hướng trên. 
Hạn chế thiệt hại của người gửi tiền có thể được 
xem là một trong những giải pháp làm giảm tâm 
lý e ngại của Nhà nước, từ đó nâng cao tính khả 
thi của pháp luật phá sản. 
Tính khả thi của pháp luật phá sản nói chung 
và phá sản TCTD nói riêng là một trong những 
vấn đề được quan tâm bởi trong nhiều năm qua 
pháp luật phá sản của nước ta không thể đi vào 
cuộc sống. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc 
thực thi Luật Phá sản trên thực tế, cộng đồng 
cần có cái nhìn thoáng hơn về phá sản bởi đây là 
quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Hy 
vọng rằng trong thời gian tới, những quy định 
của Luật Phá sản 2014 liên quan đến phá sản 
TCTD sẽ đi vào cuộc sống, góp phần lành mạnh 
hóa nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính, 
tiền tệ nói riêng. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 
Trang 70 
The feasibility of applying bankruptcy law 
to credit institutions 
 Cao Thi Thuy Nhu 
Thu Dau Mot University - Email: nhuctt@tdmu.edu.vn 
ABSTRACT 
Bankruptcy of credit institutions is one of 
highlights of the Bankruptcy Law 2014, which 
officially took effect in January 1, 2015. This is 
an issue of special interest to the citizens and 
enterprises because this is the first time the 
Bankruptcy Law 2014 sets aside a whole 
chapter to define the settlement procedure of 
bankruptcy for credit institutions and there also 
has not been a single bankruptcy of a credit 
institution in Vietnam, despite the fact that it 
was mentioned in the Bankruptcy Law 2004. The 
key questions raised regarding the bankruptcy 
of credit institutions are whether the provisions 
in the Bankruptcy Law 2014 are a forward step 
and whether they are feasible in practice. To 
answer the above question, this article will 
analyse some new provisions of the Bankruptcy 
Law 2014 as well as the feasibility of applying 
these provisions in practice. 
Từ khóa: Feasibility, bankruptcy, credit institutions. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Cao Đăng Vinh, Giải quyết phá sản tổ 
chức tín dụng – Kinh nghiệm quốc tế và 
bài học cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và 
Pháp luật 12, tr.16-27 (2009). 
[2]. Luật Các tổ chức tín dụng 2010 
[3]. Luật Phá sản 1993 
[4]. Luật Phá sản 2004 
[5]. Luật Phá sản 2014 
[6]. Nguyễn Văn Vân, Định hướng xây dựng 
pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng, Tạp 
chí Khoa học pháp lý 8 (2002). 
[7]. Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 
Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai 
đoạn 2011-2015. 
[8]. Thông tư 07/2013/TT-NHNN ngày 
14/3/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối 
với tổ chức tín dụng. 

File đính kèm:

  • pdftinh_kha_thi_cua_viec_ap_dung_phap_luat_pha_san_doi_voi_to_c.pdf