Tính khả thi của kĩ thuật siêu âm đánh dấu mô cơ tim và tỉ lệ thay đổi biến dạng cơ tim ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
Đặt vấn đề: Khảo sát biến dạng cơ tim (strain) là kỹ thuật có nhiều triển vọng ở bệnh nhân (BN) nhiễm
khuẩn huyết (NKH)/sốc nhiễm khuẩn (NK). Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào khảo sát tính khả thi của kỹ
thuật này ở Việt Nam.
Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, các yếu tố gây cản trở trong việc đánh giá độ biến dạng cơ tim bằng kĩ
thuật siêu âm đánh dấu mô cơ tim ở BNNKH/sốc NKH và tỉ lệ bệnh thay đổi biến dạng cơ tim ở nhóm BN này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả từ tháng 06/2019-12/2019. Thực
hiện khảo sát biến dạng cơ tim thất trái và thất phải ở BNNKH/sốc NKH.
Bạn đang xem tài liệu "Tính khả thi của kĩ thuật siêu âm đánh dấu mô cơ tim và tỉ lệ thay đổi biến dạng cơ tim ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính khả thi của kĩ thuật siêu âm đánh dấu mô cơ tim và tỉ lệ thay đổi biến dạng cơ tim ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 56 TÍNH KHẢ THI CỦA KĨ THUẬT SIÊU ÂM ĐÁNH DẤU MÔ CƠ TIM VÀ TỈ LỆ THAY ĐỔI BIẾN DẠNG CƠ TIM Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT Lê Minh Khôi1, Trần Thanh Toàn2, Đặng Hoàng Vũ3, Bùi Thị Hạnh Duyên3, Phan Vũ Anh Minh3 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Khảo sát biến dạng cơ tim (strain) là kỹ thuật có nhiều triển vọng ở bệnh nhân (BN) nhiễm khuẩn huyết (NKH)/sốc nhiễm khuẩn (NK). Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào khảo sát tính khả thi của kỹ thuật này ở Việt Nam. Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, các yếu tố gây cản trở trong việc đánh giá độ biến dạng cơ tim bằng kĩ thuật siêu âm đánh dấu mô cơ tim ở BNNKH/sốc NKH và tỉ lệ bệnh thay đổi biến dạng cơ tim ở nhóm BN này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả từ tháng 06/2019-12/2019. Thực hiện khảo sát biến dạng cơ tim thất trái và thất phải ở BNNKH/sốc NKH. Kết quả: Có 50 BN NKH/sốc NKH được đưa vào nghiên cứu. Số BN khảo sát được strain thất trái, thất phải và hai thất lần lượt là 20 (40%), 29 (58%) và 20 (40%). Có đến 21 BN (42%) strain không thực hiện được. Nguyên nhân chính của thất bại khảo sát strain là cửa sổ siêu âm không đảm bảo chất lượng và rối loạn nhịp tim. Tỷ lệ BN có strain thất trái, thất phải và hai thất lần lượt là 55%, 55,1% và 45%. Kết luận: Tỉ lệ thực hiện được biến dạng ở ít nhất một trong hai thất là 58%.Tỉ lệ giảm strain thất là khá cao ở BN NKH/sốc NK. Từ khóa: nhiễm trùng huyết, biến dạng cơ tim, siêu âm đánh dấu mô cơ tim ABSTRACT FEASIBILITY OF SPECKLE TRACKING ECHOCARDIOGRAPHYAND MYOCARDIAL STRAIN IMPAIRMENT IN SEPTIC PATIENTS Le Minh Khoi, Tran Thanh Toan, Dang Hoang Vu, Bui Thi Hanh Duyen, Phan Vu Anh Minh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 56 - 62 Background: Myocardial deformation (strain) assessed by the speckle tracking echocardiography (STE)is a promising technique in patients with sepsis and/or septic shock. However, there has been no study designed to evaluate the feasibility of this technique in Vietnam. Objectives: The study was designed to determine the feasibility of strain assessment by STE; to explore the factors that hinderthe STE application of septic patients and todetermine the rate of impaired strain in these patients. Methods: This was a cross-sectional observational study. Myocardial strain of left and right ventricles of patients with sepsis/septic shock were assessed using STE. Results: We recruited 50 patients with sepsis/septic shock. The number and percentage of patients in whom left ventricular, right ventricular, and biventricular strain was successfully performed were 20 (40%), 29 (58%), and 20 (40%), respectively. The myocardial strain could not be completed in 21 patients (42%). The main factor that hindered the evaluation of myocardial strain were poor acoustic window and cardiac arrhythmia. The rate of left ventricular, right ventricular, and biventricular strain impairment was 55%, 55.1%, and 45%, respectively. 1Bộ môn Hồi sức Cấp cứu - Chống độc, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới 3Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Lê Minh Khôi ĐT: 0919731386 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 57 Conclusion: The myocardial strain of at least one ventricular chamber assessed by STE was feasible in 58% ofpatients with sepsis/septic shock. The occurrence of impaired strain was relatively high in this group of patients. Keywords: sepsis, myocardial deformation, speckle tracking echocardiography ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là một trong những bệnh lý nguy hiểm và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Theo các số liệu thống kê ghi nhận được, hàng năm có trên 15 triệu bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết và ít nhất 6 triệu trường hợp tử vong có liên quan đến bệnh lý này ở các quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người thấp – trung bình. Do quy mô mắc bệnh lớn, tỉ lệ tử vong cao, vì thế vào năm 2017, Tổ chức Y tế Thế giới đã xem xét nhiễm khuẩn huyết là một trong những vấn đề ưu tiên về y tế toàn cầu, với mục đích cải thiện việc chẩn đoán và xử trí nhiễm khuẩn huyết. Rối loạn chức năng cơ tim là biến chứng có thể gặp phải ở bệnh nhân NKH(1) và được xem là một trong những tổn thương nặng nề, có thể thay đổi tiên lượng cũng như kết cục của điều trị, đây cũng được xem là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến tử vong ở các bệnh nhân NKH(2). Rối loạn chức năng cơ tim làm suy giảm khả năng nhận và bơm máu của tim ở nhiều mức độ, cuối cùng có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề: rối loạn chức năng thất phải làm giảm tưới máu phổi, không đảm bảo nhu cầu thông khí của cơ thể, đồng thời không cung cấp đủ tiền tải cho tim trái. Rối loạn chức năng thất trái dẫn đến giảm cung lượng tim, tụt huyết áp và suy đa cơ quan. Suy giảm chức năng cả hai thất sẽ gây ra những biến đổi bất lợi của cả phổi và tuần hoàn hệ thống. Do đó, việc phát hiện sớm rối loạn chức năng cơ tim sẽ giúp có hướng điều trị và tiên lượng thích hợp, đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân (BN) NKH. Siêu âm tim qua thành ngực đã được chứng minh là một công cụ hữu hiệu, thuận tiện và nhanh chóng giúp đánh giá chức năng cơ tim tại giường, từ đó giúp các bác sĩ lâm sàng đưa ra các chẩn đoán chính xác và có phương pháp xử lý kịp thời. Tuy nhiên, các thông số siêu âm tim thông thường như phân suất tống máu thất trái (EF%), phân suất thay đổi diện tích thất phải (FAC%) chỉ có khả năng phản ánh chức năng tim tại thời điểm siêu âm khi mà các biến đổi chức năng cơ tim đã biểu hiện rõ ràng. Hiện nay, có nhiều kĩ thuật siêu âm tim mới như siêu âm đánh dấu mô cơ tim (speckle tracking echocardiography-STE)(3) cho phép đánh giá cơ học và chức năng cơ tim ở giai đoạn sớm, khi mà những biến đổi về chức năng của cơ tim còn chưa biểu hiện, chưa ảnh hưởng đến hoạt động bơm máu của tim. STE thông qua thông số độ biến dạng cơ tim (strain) đã bước đầu chứng minh được tiềm năng trong việc đánh giá sớm những rối loạn chức năng cơ tim ở các bệnh nhân NKH, từ đó hoàn toàn có thể hy vọng vào vai trò của STE trong tương lai(4,5). Hơn nữa, hiện nay việc ứng dụng kĩ thuật STE đã phát triển và chuẩn hóa với các giá trị định lượng cụ thểgiúp cho việc siêu âm đánh giá strain cơ tim được chuẩn hơn và có phác đồ thống nhất rõ ràng(6). Tuy nhiên, trong thực tế lâm sàng ở đơn vị chăm sóc tích cực (HSTC), cũng như TTE thì việc đánh giá strain cơ tim bằng STE là thực sự không đơn giản do nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá strain cơ tim ở bệnh nhân NKH. Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này, với mục tiêu xác định tính khả thi của việc khảo sát strain cơ tim, các yếu tố cản trở việc thực hiện STE cũng như tần suất suy giảm Strain cơ tim ở các bệnh nhân NKH. Kết quả nghiên cứu bước đầu sẽ cho thấy được sự cần thiết, tính khả thi và những khó khăn có thể mắc phải khi thực hiện STE ở bệnh nhân NKH. Mục tiêu Nghiên cứu được thiết với ba mục tiêu: - Xác định tỉ lệ bệnh nhân bệnh nhân NKH có thể đánh giá strain cơ tim bằng STE. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 58 - Các yếu tố gây cản trở quá trình thực hiện STE ở bệnh nhân NKH. - Xác định tần suất suy giảm strain cơ tim ở bệnh nhân NKH. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các BN được chẩn đoán NKH đều được đưa vào nghiên cứu. Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Hồi sức tích cực (HSTC), bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ đầu tháng 09/2019 đến cuối tháng 11/2019. Chẩn đoán NKH theo tiêu chuẩn của hội nghị đồng thuận về nhiễm khuẩn huyết năm 2016 của SCCM/ESICM (SEPSIS-3). Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu toàn bộ. Phương pháp thực hiện Tất cả các BN có chẩn đoán NKH được ghi nhận các thông tin về tuổi, giới, ngày nhập viện, ngày nhập khoa hồi sức, ngày chẩn đoán NKH, chiều cao, cân nặng, tiền căn bệnh, nguyên nhân NKH, điểm APACHE II (Acute Physiology and Chronic Health Evaluation) và điểm SAPS II (Simplified Acute Physiology Score) tại thời điểm nhập khoa hồi sức, các thông số máy thở tại thời điểm siêu âm tim, các loại thuốc vận mạch đang sử dụng, khí máu động mạch các BN tại các thời điểm nhập hồi sức, lúc đựợc chẩn đoán NKH và lúc siêu âm tim. Các BN sẽ đựợc thực hiện STE bởi một bác sĩ có kinh nghiệm về siêu âm tim: tại bệnh viện Đại học Y Dựợc là bác sĩ thuộc Đơn vị Hình ảnh Tim mạch. Loại máy siêu âm tim được sử dụng trong nghiên cứu là máy SIEMENS ACUSON 2000 với đầu dò chuyên dụng cho siêu âm tim 4V1c (Siemens, Đức). Mỗi BN được thực hiện 1 lần siêu âm tim trong 48 giờ đầu sau khi được chẩn đoán NKH. Tất cả kết quả siêu âm tim sẽ được lưu dưới dạng các tập tin hình ảnh và đoạn phim trong bộ nhớ. Các kĩ thuật siêu âm tim được thực hiện và kết quả được ghi nhận theo phác đồ của Đơn vị Hình ảnh Tim mạch, bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, sử dụng các mặt cắt cơ bản, bao gồm: mặt cắt 4 buồng tập trung vào thất phải, mặt cắt 4 buồng – 3 buồng và 2 buồng từ mỏm tim. Các thông số đánh giá độ biến dạng cơ tim bao gồm các mặt cắt(6): - Mặt cắt 4 buồng từ mỏm tim (LV A4C): Ghi nhận thông số độ biến dạng cơ tim thất trái trên mặt cắt này. - Mặt cắt 3 buồng từ mỏm tim (LV A3C): Ghi nhận thông số độ biến dạng cơ tim thất trái trên mặt cắt này. - Mặt cắt 2 buồng từ mỏm tim (LV A2C): Ghi nhận thông số độ biến dạng cơ tim thất trái trên mặt cắt này. - LV GLS: độ biến dạng cơ tim tổng dọc của thất trái, được tổng hợp từ kết quả strain của 3 mặt cắt trên. Giá trị bình thường của LV GLS là >-18%. - Mặt cắt 4 buồng tập trung vào thất phải: Ghi nhận được thông số độ biến dạng cơ tim thất phải RV strain. Giá trị bình thường của RV strain là >-18%. Ngoài ra, BN còn được ghi nhận thêm thông tin về thời gian thở máy, thời gian nằm tại hồi sức, thời gian nằm viện, kết cục điều trị sống còn hay tử vong. Phương pháp phân tích số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Microsoft Excel360, xử lý số liệu bằng chương trình thống kê SPSS 22.0. Thống kê mô tả và thống kê phân tích. Phân tích đơn biến: Biến số định tính được trình bày dưới dạng số ca và tỷ lệ phần trăm. Biến số định lượng trình bày dạng trung bình và độ lệch chuẩn, kiểm định t-test với phân phối chuẩn. Nếu không có phân phối chuẩn, biến số được trình bày bằng trung vị và khoảng tứ phân vị (25 – 75) và dùng phép kiểm Wilcoson rank sum test. So sánh tỷ lệ phần trăm bằng phép Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 59 kiểm χ 2 . So sánh trung bình bằng phép kiểm t độc lập. Khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p <0,05. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM, số 53/GCN- HĐĐĐ, ngày 25/11/2020. KẾT QUẢ Đặc điểm lâm sàng Có 50 BN được đưa vào nghiên cứu, trong đó, 54% là nam giới. Tuổi trung bình là 65,7± 15,8, tuổi nhỏ nhất là 25, lớn nhất là 94. Các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân tham gia nghiên cứu đươc tóm lược lại trong Bảng 1. Đường vào của NKH bao gồm: Hô hấp (40%), đường tiêu hoá/đường mật (32%), tiết niệu (10%). Ngoài ra một tỉ lệ nhỏ là từ các nguồn khác (da) và một số bệnh nhân chưa rõ nguyên nhân. Bảng 1: Các đặc điểm lâm sàng Thông số N (%) hoặc Trung bình độ lệch chuẩn (giá trị nhỏ nhất – giá trị lớn nhất) Đặc điểm nhân trắc Tuổi 65,68 15,81 (25 – 94) Giới tính: Nam/Nữ 27 (54%) / 23 (46%) BMI 21,74 3,24 (13,67 – 29,00) Tiền sử Tăng huyết áp 19 (38%) Đái tháo đường 22 (44%) Ung thư 8 (16%) Thang điểm đánh giá độ nặng Điểm SOFA 7,84 3,12 (3 – 16) Điểm APACHE II 18,02 7,49 (4 – 40) Điểm SAPS II 54,08 19,74 (20 – 105) Đặc điểm đánh giá độ biến dạng cơ tim bằng STE ở bệnh nhân NKH Tỉ lệ bệnh nhân có thể khảo sát được các mặt cắt cần thiết để thực hiện siêu âm đánh dấu mô cơ tim Bảng 2: Tỉ lệ bệnh nhân có thể thưc hiện được STE Chỉ số Số BN Tỉ lệ (%) LV STE LV GLS 20 40 LV A4C 25 50 LV A3C 24 48 LV A2C 24 48 Chỉ số Số BN Tỉ lệ (%) RV STE RV Strain 29 58 LV + RV STE LV GLS + RV Strain 20 40 Không thực hiện được cả LV và RV STE Không 21 42 Tất cả 50 BN đều được lần lượt đánh giá STE cả thất trái và thất phải theo quy trình chuẩn. Kết quả được trình bày trong Bảng 2. Tần suất suy giảm strain ở bệnh nhân NKH Trong số 20 BN có thể ghi nhận được LV GLS, có 11 BN (chiếm 55%) có suy giảm LV GLS và số lượng BN bị giảm RV strain là 16/29 BN (chiếm 55,25%). Đặc biệt có 9/20 BN (45%) có tình trạng suy giảm độ biến dạng cơ tim cả 2 thất. Các nguyên nhân gây cản trở quá trình thực hiện STE ở bệnh nhân NKH Các nguyên nhân có thể gây cản trở cản trở quá trình thực hiện STE đều được ghi nhận và được kiệt kê trong Bảng 3. Có 21 bệnh nhân không thể khảo sát được RV strain. Trong đó có thể thấy có 2 nhóm nguyên nhân chủ yếu: Cửa sổ siêu âm tim kém, không đảm bảo đượcchất lượng hình ảnh 2D (71,3%) và do bệnh nhân bị rối loạn nhịp và/hoặc tần số tim quá nhanh (71,3%). Các rối loạn nhịp tim gây cản trở cho STE bao gồm: rung nhĩ, cuồng nhĩ, ngoại tâm thu tần số cao. Riêng yếu tố ECG bị nhiễu có thể do nhiều nguyên nhân: bệnh nhân có các bệnh gây run cơ/kích thích hoặc do biên độ hô hấp lớn trong quá trình siêu âm. Bảng 3: Các nguyên nhân gây cản trở việc đánh giá STE Nguyên nhân Thất bại đánh giá RV Strain (N=21) Thất bại đánh giá LV GLS (N=30) n % n % ECG nhiễu 3 14,3 4 13,3 Cửa sổ 2D kém (Do tư thế tim , do khó xoay trở BN) 15 71,4 26 86,7 Rối loạn hô hấp (Thở nhanh, thở không đều, thở máy) 3 14,3 4 13,3 Rối loạn nhịp tim Tần số tim nhanh 3 14,3 3 10 Loạn nhịp không điều 12 57,1 17 56,7 TỔNG 21 100 30 100 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 60 Khác với đánh giá RV STE, chỉ cần 1 mặt cắt 4 buồng tập trung vào thất phải; Trong đánh giá LV Strain đòi hỏi phải có được ba mặt cắt chuẩn từ mỏm tim để cho thấy được toàn bộ hình ảnh thất trái, do đó tỉ lệ thực hiện được LV STE thấp hơn, khi có đến 30/50 BN (60%) không thể khảo sát được LV GLS, trong đó các nguyên nhân thường gặp cũng khá tương đồng với khảo sát RV STE: Cửa sổ siêu âm tim kém, không đảm bảo được chất lượng hình ảnh 2D (86,7%) và do bệnh nhân bị rối loạn nhịp và/hoặc tần số tim quá nhanh (66,7%). Một điểm đặc biệt là có nhiều trường hợp bệnh nhân gặp phải cùng lúc 2 hoặc nhiều nguyên nhân gây cản trở quá trình thực hiện STE. BÀN LUẬN Từ năm 2015, Hội Siêu âm Tim Hoa Kỳ (American Society of Echocardiography-ASE) và Hội Hình ảnh học Tim mạch Châu Âu (European Association of CardioVascular Imaging-EACVI) đưa ra hướng dẫn mới nhất về thực hành siêu âm tim, trong đó xác định được các mặt cắt chuẩn, tiêu chuẩn đánh giá rối loạn chức năng cơ tim và đặc biệt là xác định tầm quan trọng của STE(6). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân có thể khảo sát được strain cơ thất trái hoặc thất phải khá thấp (40 – 58%), đặc biệt chỉ khoảng 40% bệnh nhân có thể đánh giá toàn diện được chức năng cả hai thất bằng STE. Tỉ lệ này từ nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả De Geer L(7) với 88% BN có thể khảo sát được LV GLS, sự khác biệt này có thể chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kĩ thuật cũng như đặc điểm bệnh lý của bệnh nhân. Do đó, trong tương lai, các nghiên cứu về STE ở bệnh nhân NKH có thể sẽ cần phải được thực hiện với số lượng BN lớn để có được số lượng dữ liệu mong muốn. Trên thực tế lâm sàng, kĩ thuật STE về cơ bản vẫn dựa trên siêu âm tim 2D thông thường nên cũng không thể thoát khỏi những khó khăn mà TTE gặp phải. Hơn thế nữa, vì STE đòi hỏi một số điều kiện khắt khe hơn, có thể kể đến như: chất lượng hình ảnh, số khung hình/giây, điện tâm đồ 1 chuyển đạo với tần số tim tối ưu và loại nhịp tim đều Do đó, những hạn chế và khó khăn khi thực hiện STE là rất lớn và việc khảo sát strain phụ thuộc rất nhiều vào kĩ năng của người thực hiện siêu âm cũng như đặc điểm bệnh lý, thể trạng và tư thế tim của bệnh nhân. Những khó khăn này đã được đề cập đến và đặc biệt lưu ý trong nhiều hướng dẫn về thực hiện STE cũng như tổng hợp từ nhiều nghiên cứu khác nhau(8), có thể kể đến một số khó khăn như: hạn chế về tư thế của người làm siêu âm, thể trạng của bệnh nhân quá gầy hoặc quá mập, khó xoay trở bệnh nhân do có nhiều dụng cụ hỗ trợ, tình trạng ứ khí do các bệnh lý hô hấp đi kèm hoặc thông khí với áp lực dương cuối kì thở ra (PEEP), đây đều là các trở ngại rất thường gặp khi chăm sóc bệnh nhân ở HSTC. Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 71,4 – 86,7% các trường hợp thất bại khảo sát STE là do nhóm nguyên nhân hạn chế chất lượng hình ảnh 2D. Từ đó đòi hỏi các bác sĩ HSTC phải được chuẩn bị, đào tạo siêu âm tim một cách chuyên nghiệp và kĩ càng để tăng khả năng thành công khi thực hiện STE. Một nguyên nhân gây trở ngại khác cũng được nhắc đến rất nhiều đó là rối loạn nhịp/tần số tim, rối loạn nhip tim là một trong những vấn đề cực kì quan trọng và được đặc biệt chú ý vì có liên quan đến tiên lượng và dự hậu, với tỉ lệ bệnh nhân NKH có rối loạn nhịp và/hoặc tần số tim lên đến 28%(9), trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có đến 66,7 – 71,4% bệnh nhân không thực hiện được STE do nguyên nhân này. Do đó, đòi hỏi quá trình điều trị tim mạch tốt, nhằm tối ưu hoá khả năng thành công khi thực hiện STE. Mặc dù hiện tại vẫn chưa có tiêu chuẩn về chẩn đoán, đánh giá độ biến dạng cơ tim ở các bệnh nhân NKH. Tuy nhiên, dựa trên các đặc điểm, khuyến cáo về giá trị Strain của người bình thường, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có khoảng 45 - 55% số bệnh nhân NKH có suy giảm Strain cơ tim (GLS>-18), đây thực sự là con số đáng được quan tâm. Tỉ lệ này khá tương đồng với kết quả 41% từ nghiên cứu của tác giả Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 61 De Geer L(7), dù tác giả này sử dụng mức suy giảm LV GLS thấp hơn (LV GLS >-15). Một số nghiên cứu cho thấy STE thực sự có giá trị trong việc đánh giá chức năng cơ tim trong nhiều loại bệnh lý khác nhau. Vai trò của STE là thực sự nổi trội nhờ khả năng đánh giá được rối loạn chức năng cơ tim ngay từ giai đoạn sớm với các biến đổi cực kỳ nhỏ mà lâm sàng và các thông số TTE thông thường chưa thể phản ánh được(10). Từ đó, ý nghĩa thực sự của STE là dự đoán được các bất thường chức năng cơ tim từ giai đoạn đầu(5), điều này thực sự quan trọng trong việc đánh giá bước đầu, hỗ trợ tiên lượng cho các bệnh lý nặng nề và diễn tiến nhanh như NKH. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, do các hạn chế về mặt kĩ thuật cũng như đặc trưng của bệnh lý NKH như đã trình bày bên trên, mà số lượng các công trình nghiên cứu và bài viết bàn luận về đánh giá STE ở bệnh nhân NKH còn khá khiêm tốn cả về mặt số lượng lẫn quy mô(10,11) với nhiều kết quả khác biệt. Một số tác giả và nghiên cứu đã cho thấy vai trò của STE ở bệnh nhân NKH(12). Nghiên cứu của tác giả Phạm Đăng Hải(13) trên các bệnh nhân NKH sốc cho thấy LV GLS có liên quan đến tử vong nội viện và là một trong các yếu tố tiên lượng tử vong ở nhóm bệnh nhân này. Tác giả Zaky A(14) trong nghiên cứu của mình đã cho thấy có mối liên quan giữa strain thất trái với sự suy giảm chức năng tâm thu và tâm trương ở bệnh nhân NKH. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả de Braga LC(15) cho thấy có sự khác biệt strain thất trái giữa nhóm bệnh nhân NKH tử vong và khỏi bệnh, đồng thời tác giả này còn nhận thấy có mối liên quan giữa Strain thất phải với tử vong nội viện. Ngược lại, một số nghiên cứu chưa ghi nhận được vai trò của STE như nghiên cứu của tác giả Orde SR(16). Mặc dù số lượng các nghiên cứu còn ít với kết quả chưa thống nhất nhưng hy vọng trong tương lai việc ứng dụng STE đối với các bệnh nhân NKH và HSTC sẽ được chú ý và đẩy nhanh, đặc biệt là khi chúng ta biết được tình hình, tính khả thi cũng như các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc ứng dụng STE. Từ đó sẽ có phương pháp thu thập số liệu, cỡ mẫu cần thiết phục vụ nghiên cứu, cũng như cách hạn chế các yếu tố gây trở ngại nhằm mang lại hiệu quả tối ưu trong đánh giá và điều trị bệnh nhân NKH. KẾT LUẬN Đây là nghiên cứu đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam nhằm khảo sát sơ lược tính khả thi của việc ứng dụng kĩ thuật STE trong đánh giá độ biến dạng cơ tim. Mặc dù với cỡ mẫu nhỏ, nhưng nghiên cứu của chúng tôi cũng đã cho thấy tỉ lệ bệnh nhân NKH có thể khảo sát được STE là khá thấp (40 – 58%). Trong đó có 45 – 55% bệnh nhân có suy giảm strain cơ tim. Các nguyên nhân thường gặp nhất gây hạn chế quá trình thực hiện STE là do không đảm bảo được chất lượng hình ảnh 2D (71,4 – 86,7%) và các rối loạn nhịp/tần số tim (66,7 – 71,4%). Từ đó, khuyến khích các bác sĩ lâm sàng nâng cao kĩ năng thực hiện STE, nâng cao khả năng thành công trong việc ứng dụng kĩ thuật này. Kết qủa sẽ có nhiều nghiên cứu quy mô hơn, khảo sát mối mối liên quan giữa strain cơ tim với mức độ nặng của NKH, cũng như chứng minh được giá trị của STE trong đánh giá và tiên lượng các bệnh nhân NKH. Đồng thời, cần có những nghiên cứu sử dụng các mặt cắt đơn giản dễ thực hiện ở bệnh nhân hồi sức (như mặt cắt dưới sườn) thay cho các mặt cắt ở mỏm tim vốn rất khó đạt được ở nhóm bệnh nhân này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ehrman RR, Sullivan AN, Favot MJ, et al (2018). Pathophysiology, echocardiographic evaluation, biomarker findings, and prognostic implications of septic cardiomyopathy: a review of the literature. Crit Care, 22(1):112. 2. Walley KR (2018). Sepsis-induced myocardial dysfunction. Current Opinion in Critical Care, 24(4):292-299. 3. Orde S, Huang SJ, Mclean AS, et al (2016). Speckle tracking echocardiography in the critically ill: enticing research with minimal clinical practicality or the answer to non-invasive cardiac assessment? Anaesth Intensive Care, 44(5):542-551. 4. D'Andrea A, Radmilovic J, Mele D, et al (2018). Speckle tracking analysis in intensive care unit: A toy or a tool?". Echocardiography, 35(4):506-519. 5. Cinotti R, Delater A, Fortuit C, et al (2015). Speckle-tracking analysis of left ventricular systolic function in the intensive care unit. Anaesthesiol Intensive Ther, 47(5):482-486. 6. Lang RM, Badano LP, Mor-Avi V, et al (2015). Recommendations for cardiac chamber quantification by echocardiography in adults: an update from the American Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 62 Society of Echocardiography and the European Association of Cardiovascular Imaging. J Am Soc Echocardiogr, 28(1):1-39.e14. 7. De Geer L, Engvall J, Oscarsson A (2015). Strain echocardiography in septic shock - a comparison with systolic and diastolic function parameters, cardiac biomarkers and outcome. Crit Care, 19(1):122. 8. Sanfilippo F, Corredor C, Fletcher N, et al (2018). Left ventricular systolic function evaluated by strain echocardiography and relationship with mortality in patients with severe sepsis or septic shock: a systematic review and meta-analysis. Crit Care, 22(1):183. 9. Shahreyar M, Fahhoum R, Akinseye O, et al (2018). Severe sepsis and cardiac arrhythmias. Annals of Translational Medicine, 6(1):6. 10. Shahul S, Gulati G, Hacker MR, et al (2015). Detection of myocardial dysfunction in septic shock: a speckle-tracking echocardiography study. Anesth Analg, 121(6):1547-1554. 11. Vallabhajosyula S, Rayes HA, Sakhuja A, et al (2019). Global longitudinal strain using speckle-tracking echocardiography as a mortality predictor in sepsis: A systematic review. J Intensive Care Med, 34(2):87-93. 12. Velagapudi VM, Pidikiti R, Tighe DA, et al (2019). Is left ventricular global longitudinal strain by two-dimensional speckle tracking echocardiography in sepsis cardiomyopathy ready for prime time use in the ICU? Healthcare, 7(1):5. 13. Pham Dang Hai, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Viet Quang Hien, et al (2020). Prognostic role of left ventricular systolic function measured by speckle tracking echocardiography in septic shock. BioMed Research International, doi: 10.1155/2020/7927353. 14. Zaky A, Gill EA, Lin CP, et al (2016). Characteristics of sepsis- induced cardiac dysfunction using speckle-tracking echocardiography: a feasibility study. Anaesth Intensive Care, 44(1):65-76. 15. de Braga LC, Nascimento BI, de Deus Queiroz ST, et al (2019). Value of speckle-tracking echocardiography changes in monitoring myocardial dysfunction during treatment of sepsis: potential prognostic implications. Int J Cardiovasc Imaging, 35(5):855-859. 16. Orde SR, Pulido JN, Masaki M, et al (2014). Outcome prediction in sepsis: speckle tracking echocardiography based assessment of myocardial function. Crit Care, 18(4):R149. Ngày nhận bài báo: 10/12/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
tinh_kha_thi_cua_ki_thuat_sieu_am_danh_dau_mo_co_tim_va_ti_l.pdf

