Tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng

Mục tiêu: Đánh giá tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ năm 2019. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu trên 400 hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ trong thời gian 1/2019 đến tháng 12/2019. Kết quả: Nhóm thuốc hạ sốt chiếm tỷ lệ cao nhất 95,7%, nhóm chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm vận mạch 0,8%. Bệnh nhân độ 1: Paracetamol và Phenobrabital chiếm 100%, còn thấp nhất là Ibuprofen. Bệnh nhân độ 2a: Tỷ lệ Paracetamol được chỉ định sử dụng nhiều nhất chiếm 96,5%, thuốc vận mạch gồm Adrenalin, Dobutamin chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,3%. Bệnh nhân độ 2b: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được sử dụng nhiều nhất chiếm 80,0% và kháng sinh Cefuroxim được chỉ định với tỷ lệ thấp nhất chiếm 10,0%. Bệnh nhân độ 3: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được chỉ định nhiều nhất chiếm 83,3%, còn Adrenalin, Diazepam được chỉ định thấp nhất 8,3%. Kết quả điều trị đỡ, giảm chiếm tỷ lệ cao nhất (51,2%), khỏi (47,3%). Có 2 trường hợp có kết quả điều trị nặng hơn (0,5%). Kết luận: Nhóm thuốc hạ sốt được sử dụng nhiều nhất ở tất cả các mức độ bệnh, các thuốc được sử dụng ít nhất như thuốc vận mạch, thuốc kháng sinh. Kết quả điều trị có hiệu quả cao

pdf 6 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng

Tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn70
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tình hình sử dụng thuốc điều trị 
bệnh tay chân miệng tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố 
Cần Thơ năm 2019. Đối tượng và phương pháp: Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang hồi cứu trên 400 hồ sơ bệnh án của 
các bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng Cần 
Thơ trong thời gian 1/2019 đến tháng 12/2019. Kết quả: 
Nhóm thuốc hạ sốt chiếm tỷ lệ cao nhất 95,7%, nhóm 
chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm vận mạch 0,8%. Bệnh nhân 
độ 1: Paracetamol và Phenobrabital chiếm 100%, còn thấp 
nhất là Ibuprofen. Bệnh nhân độ 2a: Tỷ lệ Paracetamol 
được chỉ định sử dụng nhiều nhất chiếm 96,5%, thuốc vận 
mạch gồm Adrenalin, Dobutamin chiếm tỷ lệ thấp nhất 
0,3%. Bệnh nhân độ 2b: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được sử 
dụng nhiều nhất chiếm 80,0% và kháng sinh Cefuroxim 
được chỉ định với tỷ lệ thấp nhất chiếm 10,0%. Bệnh nhân 
độ 3: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được chỉ định nhiều nhất 
chiếm 83,3%, còn Adrenalin, Diazepam được chỉ định 
thấp nhất 8,3%. Kết quả điều trị đỡ, giảm chiếm tỷ lệ cao 
nhất (51,2%), khỏi (47,3%). Có 2 trường hợp có kết quả 
điều trị nặng hơn (0,5%). Kết luận: Nhóm thuốc hạ sốt 
được sử dụng nhiều nhất ở tất cả các mức độ bệnh, các 
thuốc được sử dụng ít nhất như thuốc vận mạch, thuốc 
kháng sinh. Kết quả điều trị có hiệu quả cao.
Từ khóa: Bệnh tay chân miệng, tình hình sử dụng thuốc.
SUMMARY: SITUATION OF USING DRUGS 
FOR TREATMENT OF HAND-FOOT-MOUTH 
DISEASE
Objective: To evaluate the use of drugs for treatment 
of hand, foot and mouth disease at the Children’s Hospital 
of Can Tho city in 2019. Subjects and methods: 
Retrospective cross-sectional descriptive study on 400 
medical records of the inpatient treatment at Can Tho 
Children’s Hospital for the period from January 2019 to 
December 2019. Results: The group of antipyretic drugs 
accounted for the highest rate of 95.7%, the group with 
the lowest rate was the group of vasomotor 0.8%. Grade 
1 patients: Paracetamol and Phenobrabital accounted for 
100%, while the lowest was Ibuprofen. Grade 2a patients: 
The proportion of Paracetamol indicated to use the most was 
96.5%, vasomotor drugs including Adrenalin and Dobutamin 
accounted for the lowest rate of 0.3%. Grade 2b patients: The 
rate of most used Paracetamol drugs accounted for 80.0% 
and Cefuroxim antibiotic was indicated with the lowest 
rate of 10.0%. Grade 3 patients: The highest proportion of 
prescribed Paracetamol drugs accounted for 83.3%, while 
Adrenalin and Diazepam were indicated with the lowest 
rate of 8.3%. Results of reduced treatment accounted for the 
highest rate (51.2%), recovery (47.3%). There were 2 cases 
with worse treatment results (0.5%). Conclusion: The group 
of antipyretics used the most at all levels of the disease, the 
least used drugs such as vasopressors and antibiotics. Highly 
effective treatment results.
Keywords: Hand, foot and mouth disease, the 
situation of drug use. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tay chân miệng là một trong những bệnh 
truyền nhiễm cấp, bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 
thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi và đặc biệt trẻ dưới 3 tuổi 
có tính cảm nhiễm cao đối với bệnh. Dấu hiệu đặc trưng 
của bệnh là sốt, tổn thương niêm mạc miệng và da dưới 
dạng phỏng nước thường thấy ở lòng bàn tay, bàn chân, 
đầu gối, mông. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới, 
từ những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều vụ dịch TCM đã 
được thông báo bùng phát thường xuyên tại một số nước 
châu Á Thái Bình Dương, trong đó Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Ma Cao (Trung Quốc) là những nước có tỷ lệ bệnh tăng 
cao qua các năm [1]. Tại Việt Nam, theo báo cáo của 
Bộ Y tế, trường hợp mắc bệnh TCM đầu tiên được phát 
hiện vào năm 2003 và bệnh có xu hướng tăng dần theo 
thời gian [2]. Tác nhân gây bệnh TCM thuộc nhóm virus 
đường ruột (enterovirus), trong đó thường gặp nhất là 
Ngày nhận bài: 20/08/2020 Ngày phản biện: 27/08/2020 Ngày duyệt đăng: 11/09/2020
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH TAY CHÂN MIỆNG
Trần Thị Kiều Trinh1, Đỗ Văn Mãi1, Bùi Đặng Lan Hương2, Trần Quốc Thắng3
1. Trường Đại học Tây Đô
2. Bệnh viện Từ Dũ 
3. Viện Sức khỏe Cộng đồng
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 71
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Coxackievirus A16 (CV A16) và Enterovirus 71 (EV71). 
Vấn đề điều trị bệnh chân tay miệng hiện nay chưa có 
phương pháp điều trị đặc hiệu, chủ yếu vẫn là điều trị triệu 
chứng, biến chứng, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về 
việc sử dụng thuốc trong điều trị bệnh này. Do đó, chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu: “Đánh giá 
tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh tay chân miệng tại 
Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ năm 2019”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 400 hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân điều trị 
nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ trong thời gian 
1/2019 đến tháng 12/2019.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Các bệnh nhi được chẩn đoán xác định bệnh Tay 
Chân Miệng;
Có đầy đủ hồ sơ bệnh án;
Gia đình đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có hồ sơ bệnh án không đầy đủ thông tin 
khảo sát;
Gia đình từ chối không tham gia vào nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hồi cứu.
Chỉ tiêu nghiên cứu
Khảo sát đặc điểm sử dụng thuốc điều trị bệnh tay 
chân miệng tại Bệnh viện Nhi Đồng thành phố Cần Thơ 
năm 2019 gồm các biến số như sau:
Nhóm thuốc: Hạ sốt, NSAID, chống co giật, hô hấp, 
tiêu hóa, kháng histamin, an thần, vận mạch, kháng sinh, 
Globulin miễn dịch, bù điện giải.
Tên thuốc
Liều lượng: Đơn vị tính mg/kg/ngày.
Đường dùng: Uống, tiêm, đặt hậu môn.
Nhịp đưa thuốc: Số lần/ngày.
Kết quả điều trị: Khỏi; đỡ, giảm; không đổi; nặng hơn.
3. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thu thập được 
nhập và xử lý trên phần mềm thống kê y sinh học SPSS 22.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Các nhóm thuốc được sử dụng trong điều trị tay chân miệng 
Nhóm thuốc
Số lượng (N) Tỷ lệ (%) 
Có Không Có Không
Hạ sốt 383 17 95,7 4,3
NSAIDS 135 265 33,7 66,3
Chống co giật 275 125 68,7 31,3
Hô hấp 114 286 28,5 71,5
Tiêu hóa 268 132 67,0 33,0
Kháng histamin 208 192 52 48
An thần 21 379 5,3 94,7
Vận mạch 3 397 0,8 99,2
Kháng sinh 202 198 50,5 49,5
Nhóm thuốc
Số lượng (N) Tỷ lệ (%) 
Có Không Có Không
Globulin miễn dịch 21 379 5,3 94,7
Bù điện giải 22 378 5,5 94,5
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn72
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Bảng 2. Tỷ lệ thuốc điều trị bệnh TCM được sử dụng ở bệnh mức độ 1 
Nhóm thuốc Tên thuốc
Số lượng (N=3) Tỷ lệ (%)
Có Không Có Không
Hạ sốt Paracetamol 3 0 100,0 0
NSAIDS Ibuprofen 1 2 33,3 66,7
Chống co giật Phenobarbital 3 0 100,0 0
Kháng histamin Clorpheniramin 3 0 100,0 0
Bảng 3. Tỷ lệ thuốc điều trị bệnh TCM được sử dụng ở bệnh mức độ 2a
Nhóm thuốc Tên thuốc
Số lượng (N=375) Tỷ lệ (%)
Có Không Có Không
Hạ sốt Paracetamol 362 13 96,5 3,5
NSAIDS Ibuprofen 122 253 32,5 67,5
Chống co giật Phenobarbital 257 118 68,5 31,5
Kháng histamin Clorpheniramin 197 178 2,5 47,5
Bù điện giải Natri clorua 0,9% hoặc Ringer l actat 5 370 1,3 98,7
An thần
Midazolam 14 361 3,7 96,3
Diazepam 3 372 0,8 99,2
Vận mạch
Adrenalin 1 374 0,3 99,7
Dobutamin 1 374 0,3 99,7
Kháng sinh
Cefuroxim 29 346 7,7 92,3
Cefotaxim 64 311 17,1 82,9
Ceftriaxon 5 370 1,3 98,7
Globulin miễn dịch Immunoglobulin G 18 357 4,8 95,2
Nhận xét: Nhóm thuốc được sử dụng nhiều nhất trong nhóm điều trị TCM là nhóm hạ sốt 95,7%, nhóm chiếm tỷ 
lệ thấp nhất là nhóm vận mạch 0,8%.
Nhận xét: Tỷ lệ thuốc Paracetamol và Phenobarbital chiếm 100%, còn thấp nhất là thuốc Ibuprofen chiếm 33,3%.
Nhận xét: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được chỉ định sử dụng nhiều nhất chiếm 96,5%, thuốc vận mạch gồm Adrenalin, 
Dobutamin chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,3%.
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 73
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 4. Tỷ lệ thuốc điều trị bệnh TCM được sử dụng ở bệnh mức độ 2b
Nhóm thuốc Tên thuốc
Số lượng (N=10) Tỷ lệ (%)
Có Không Có Không
Hạ sốt Paracetamol 8 2 80,0 20,0
NSAIDS Ibuprofen 7 3 70,0 30,0
Chống co giật Phenobarbital 7 3 70,0 30,0
Kháng histamin Clorpheniramin 3 7 30,0 70,0
Kháng sinh
Cefuroxim 1 9 10,0 90,0
Cefotaxim 2 8 20,0 80,0
Bảng 5. Tỷ lệ thuốc điều trị bệnh TCM được sử dụng ở bệnh mức độ 3
Nhóm thuốc Tên thuốc
Số lượng (N=12) Tỷ lệ (%)
Có Không Có Không
Hạ sốt Paracetamol 10 2 83,3 16,7
NSAIDS Ibuprofen 5 7 41,7 58,3
Chống co giật Phenobarbital 8 4 66,7 33,3
Kháng histamin Clorpheniramin 5 7 41,7 58,3
Bù điện giải Natri clorua 0,9% hoặc Ringer lactat 2 10 16,7 83,3
An thần Diazepam 1 11 8,3 91,7
Vận mạch Adrenalin 1 11 8,3 91,7
Kháng sinh
Cefotaxim 3 9 25 75
Ceftriaxon 1 11 8,3 91,7
Globulin miễn dịch Immunoglobulin G 3 9 25,0 75,0
Bảng 6. Kết quả điều trị
Kết quả điều trị Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
Khỏi 189 47,3
Đỡ, giảm 205 51,2
Không đổi 4 1,0
Nặng hơn 2 0,5
Tổng số 400 100,0
Nhận xét: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được sử dụng nhiều nhất chiếm 80,0% và kháng sinh Cefuroxim được chỉ định 
với tỷ lệ thấp nhất chiếm 10,0%.
Nhận xét: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được chỉ định nhiều nhất chiếm 83,3%, còn Adrenalin, Diazepam được chỉ 
định thấp nhất 8,3%.
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn74
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Nhận xét: Kết quả điều trị đỡ, giảm chiếm tỷ lệ cao 
nhất (51,2%). Có 2 trường hợp có kết quả điều trị nặng 
hơn (0,5%).
IV. BÀN LUẬN
* Tỷ lệ sử dụng các nhóm thuốc điều trị bệnh tay 
chân miệng
Điều trị bệnh TCM là điều trị triệu chứng và chưa có 
thuốc kháng vi rút đặc hiệu. Từ kết quả cho thấy, hầu hết 
là điều trị các triệu chứng của bệnh tay chân miệng trong 
đó nhóm thuốc được sử dung nhiều nhất là nhóm hạ sốt 
95,7%, nhóm thấp nhất là nhóm vận mạch chiếm 0,8% và 
5,3% trường hợp được điều trị với Immunoglobulin. 
Tại Bệnh viện, để giảm sốt cho trẻ đã dùng thuốc 
hạ sốt liều lượng tùy thuộc vào tình trạng của trẻ và cân 
nặng. Kết quả này tương tự vơi nghiên cứu của Trương 
Thị Triết Ngự và cs năm 2009, các bệnh nhân có số 
ngày sốt trên 3 ngày và nhiệt độ 39o C và nghiên cũng 
cho thấy điều này rất dễ có biến chứng thần kinh. Vì 
vậy cần phải cảnh giác với những đứa trẻ sốt nhất là sốt 
cao trên 39 oC [3]. Kết quả cũng tương tự với kết quả 
nghiên cứu của Ngô Thị Hoa và cs, nghiên cứu đặc điểm 
dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị bệnh TCM do 
Enterovirus 71 tại trung tâm Nhi Khoa Bệnh viện Trung 
ương Huế, nhóm hạ sốt chiếm cao nhất 82,7%. Tiếp đến 
là nhóm tiêu hóa chiếm 67,0%. Nhóm thuốc được chỉ 
định thấp nhất là Globulin miễn dịch. Cũng giống các 
nghiên cứu khác bệnh nhân, độ 2b, độ 3, độ 4 mới được 
sử dụng Immunoglobulin. Những ca có huyết áp cao so 
với tuổi, thời gian có huyết áp cao ngắn (vài giờ đến 1 
ngày), huyết áp cao không nhiều, đã được chuẩn đoán và 
theo dõi như độ 2a. Có một số bệnh nhân độ 2a sẽ không 
được dùng hoặc độ 4 do lúc nhập viện với tình trạng 
sốc nặng. Tương tự nghiên cứu của Ngô Thị Hoa và cs 
năm 2012. Bên cạnh các biện pháp điều trị triệu chứng, 
28,8% trường hợp được điều trị với Immunoglobulin, 
nhóm hạ sốt chiếm cao nhất 82,7% [4].
* Tỷ lệ sử dụng các thuốc điều trị bệnh tay chân 
miệng theo từng mức độ
Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị 
hỗ trợ (không dùng kháng sinh khi không có bội nhiễm) 
và bệnh được chẩn đoán và điều trị theo 4 mức độ. Để 
đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng thuốc trong điều 
trị bệnh nhân Tay Chân Miệng, căn cứ vào phác đồ điều 
trị Tay chân miệng của Bộ Y tế Việt Nam theo Quyết định 
số 1003/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc “Hướng 
dẫn chẩn đoán và điều trị bênh TCM” [1].
Paracetamol, Clopheniramin được sử dụng chiếm 
tỷ lệ cao nhất 100% và thuốc chiếm tỷ lệ thấp nhất là 
buIprofen chiếm 33,3%. Cho thấy thuốc được dùng trong 
phác đồ là phù hợp với hướng dẫn của BYT. Tuy nhiên 
trong nghiên cứu bệnh nhân ở độ 1 (0,8%) còn được dùng 
Phenobarbital với tỷ lệ 100%. Như vậy, có phần không 
đúng với các khuyến cáo. Tuy nhiên trong nghiên cứu, có 
bệnh nhân có giật mình, và có thể do bệnh nhân có thêm 
bệnh mắc kèm là viêm phổi, viêm phế quản nên khi điều 
trị các bệnh Tay chân miệng kèm theo bệnh mắc kèm.
Ngoài ra, Trong nghiên cứu các bệnh nhân ở độ 2a 
(93,75%), Paracetamol được chỉ định nhiều nhất chiếm 
96,5%, sau đó là Phenobarbital chiếm 66,4% do ở mức 
độ này ngoài sốt ra bệnh nhân còn có biểu hiện giật mình 
điều này phù hợp với hướng dẫn và chẩn đoán của BYT. 
Tuy nhiên trong nhóm kết quả nghiên còn nhận thấy thuốc 
an thần được sử dụng chiếm 37%, thuốc vận mạch chiếm 
0,6% và kháng sinh chiếm 49,7; cho thấy kết quả này là 
không phù hợp với Hướng dẫn chuẩn đoán của bệnh tay 
chân miệng về đánh giá mức độ của bệnh. Nhưng điều 
này có thể do bệnh nhân có thêm bệnh mắc kèm là viêm 
phổi, nhiễm trùng hô hấp với mạch nhanh > 150 lần/phút 
và tình trạng bệnh ngày càng chuyển nặng.
Với bệnh nhân độ 2b (2,5%) và độ 3 (3,0%) có 
tỷ lệ sử dụng thuốc phù hợp với Hướng dẫn chẩn đoán 
và điều trị bênh TCM của Bộ Y tế. Ở bệnh nhân độ 2b, 
Paracetamol chiếm tỷ lệ cao nhất 80% và chiếm tỷ lệ thấp 
nhất là kháng sinh Cefuroxim 10%. Còn bệnh nhân độ 3, 
Paracetamol cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 83,3% và có 5 ca 
chỉ định khi sốt cao ác tính không cắt được sốt bằng các 
thuốc hạ sốt thông thường (Paracetamol và Ibuprofen). 
Bệnh nhân được điều trị Adrenalin, Ceftriaxon, Diazepam 
chiếm tỷ lệ thấp nhất (8,3%). Điều này cũng có thể do đây 
là giai đoạn của tình trạng bệnh nặng. Khi thân não bị tổn 
thương, bệnh nhân có thể biểu hiện rối loạn thần kinh thực 
vật như vã mồ hôi, rối loạn nhịp thở. Ở giai đoạn này, mặc 
dù chỉ có biểu hiện nhịp tim nhanh. Những bệnh nhân này 
cần được theo dõi liên tục tình trạng huyết động (nhịp tim, 
huyết áp động mạch, khí máu động mạch, điện tâm đồ). 
Đánh giá tình trạng huyết động và mất nước giúp chỉ dẫn 
bù dịch cũng như dùng thuốc vận mạch để hỗ trợ chức 
năng tim. Bên cạnh rối loạn thần kinh thực vật, bệnh nhân 
có biểu hiện tụt huyết áp, sốc, phù phổi, xuất huyết phổi 
và suy tim. Giai đoạn này cần chẩn đoán phân biệt với 
sốc nhiễm khuẩn và các bệnh mắc kèm do đó cần làm xét 
nghiệm cấy máu. Bệnh nhân ở giai đoạn này cần thở máy 
và dùng nhiều thuốc vận mạch. Bên cạnh đó bệnh nhân 
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 75
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2012). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh TCM. Quyết định số 1003/QĐ-BYT.
2. Phan Công Hùng (2013). Đặc điểm dịch tễ học của dịch tay chân miệng tại khu vực phía Nam năm 2010-2012. 
Y học Dự phòng, 10(146): 172-180.
3. Trương Thị Chiết Ngự, Đoàn Thị Ngọc Diệp, Trương Hữu Khanh (2009). Đặc điểm bệnh tay chân miệng tại 
Bệnh viện Nhi đồng I năm 2007. Y học TP. Hồ Chí Minh, 13(1): 219-223.
4. Ngô Thị Hoa, Phạm Thị Minh Khoam (2012). Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị 
bệnh tay chân miệng do Enterovirus 71 tại Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện Trung ương Huế. Tạp chí Nhi khoa, 8(2).
5. Hoàng Ngọc Anh Tuấn (2012). Tình hình bệnh tay chân miệng điều trị tại Khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
ĐắkLắk 2011. Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(2).
6. Fu Y.C., Chi C., Chiu Y. et al (2004). Cardiac complications of enterovirus rhombencephalitis. Archives of 
Disease in Childhood, 89(4): 368-373.
7. Lin TY, Hsia SH, Huang YC et al (2003). Proinflammatory cytokine reaction in enterovirus 71 infection of the 
central nervous system. Clin.Infect. Dis, 36(3): 269-274.
8. Podin. Y., Gias. E. L., Ong. F. et al (2006). Sentinel surveillance for human enterovirus 71 in Sarawak, Malaysia: 
lessons from the first 7 years. BMC Public Health, 6: 180.
còn được điều trị Immunoglobulin 2 (25,0) lần/ngày. Dấu 
hiệu giật mình nhiều trước khi điều trị Immunoglobulin 
nhưng sau khi dùng Immunoglobulin giật mình giảm rõ 
rệt vấn đề nghiên cứu hiệu quả của Immunoglobulin trên 
lâm sàng còn rất hiếm, chưa có một thử nghiệm lâm sàng 
nào, các tác giả chỉ dựa vào kinh nghiệm là chính và cơ 
chế là trung hòa virus của immunoglobulin, ảnh hưởng 
lên sản xuất cytokine ở lympho T và monocyte mà vai 
trò của cytokine trong cơ chế bệnh sinh tay chân miệng 
có biến chứng đã được ghi nhận [6], [7]. Nhìn chung việc 
điều trị IG cho kết quả tốt, nếu chỉ định kịp thời, bệnh nhi 
khỏi bệnh mà không để lại di chứng. Tránh truyền quá 
nhiều dịch vì làm tăng nguy cơ phù phổi hoặc xuất huyết 
phổi. Những trường hợp bệnh nhân đã bị suy tuần hoàn hô 
hấp thì không hiệu quả, bệnh nhi vẫn tử vong hoặc để lại 
di chứng nặng. Bộ Y tế khuyến cáo không sử dụng IG cho 
bệnh nhi TCM độ IV [1].
* Kết quả điều trị
Hiệu quả điều trị bệnh tay chân miệng ở bệnh nhân 
chiếm tỷ lệ cao nhất là đỡ, giảm chiếm 51,2%. Kết quả 
điều trị nặng hơn thấp nhất chiếm tỷ lệ 0,5%. Đa số các 
bệnh nhân đều cho thấy sự cải thiện triệu chứng lâm sàng 
đáng kể. Hầu hết các triệu chứng đều đỡ, giảm. Hơn nữa, 
đánh giá cuối cùng của bác sĩ điều trị khi bệnh nhân ra 
viện cũng đa phần là là đỡ, giảm chiếm 51,2%. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của 
Hoàng Ngọc Anh Tuấn năm 2012, nghiên cứu tình hình 
bệnh tay chân miệng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện, kết 
quả điều trị, tỷ lệ bệnh nhân đỡ khỏi chiếm 97,4% [5].
KẾT LUẬN
- Nhóm thuốc hạ sốt chiếm tỷ lệ cao nhất 95,7%, 
nhóm chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm vận mạch 0,8%.
- Bệnh nhân độ 1: Paracetamol và Phenobrabital 
chiếm 100%, còn thấp nhất là Ibuprofen.
- Bệnh nhân độ 2a: Tỷ lệ Paracetamol được chỉ định 
sử dụng nhiều nhất chiếm 96,5%, thuốc vận mạch gồm 
Adrenalin, Dobutamin chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,3%.
- Bệnh nhân độ 2b: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được sử 
dụng nhiều nhất chiếm 80,0% và kháng sinh Cefuroxim 
được chỉ định với tỷ lệ thấp nhất chiếm 10,0%.
- Bệnh nhân độ 3: Tỷ lệ thuốc Paracetamol được chỉ 
định nhiều nhất chiếm 83,3%, còn Adrenalin, Diazepam 
được chỉ định thấp nhất 8,3%.
- Kết quả điều trị đỡ, giảm chiếm tỷ lệ cao nhất (51,2%). 
Có 2 trường hợp có kết quả điều trị nặng hơn (0,5%).

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_su_dung_thuoc_dieu_tri_benh_tay_chan_mieng.pdf