Tình hình sơ cứu ban đầu tai nạn thương tích tại thành phố Huế năm 2011-2012
Với mục tiêu tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khỏe ban đầu tai nạn thương tích tại thành phố Huế năm 2011-2012. Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 502 người dân hiện đang sống trên địa bàn thành phố Huế xảy ra tai nạn thương tích trong năm 2011- 2012 đến điều trị tại câc cơ sở y tế thành phố Huế. Kết quả, có 65,9% số nạn nhân được sơ cấp cứu ngay sau khi xảy ra tai nạn. Người sơ cấp cứu nạn nhân là người trong gia đình/ bạn bè/ thầy cô/ đồng nghiệp 60,4%, cán bộ y tế chỉ có 12,7%. Hai kỹ thuật sơ cấp cứu được sử dụng nhiều nhất là cầm máu tỷ lệ 46,2%; băng bó tỷ lệ 43,5%. Có 90,6% nạn nhân được vận chuyển đến cơ sở điều trị trong vòng một giờ. Kết quả điều trị có 93,8% số nạn nhân bình phục hoàn toàn, di chứng có thể phục hồi 4,2%, tàn tật vĩnh viễn 0,8%, tử vong 1,2%
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình sơ cứu ban đầu tai nạn thương tích tại thành phố Huế năm 2011-2012
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 67 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE TÌNH HÌNH SƠ CỨU BAN ĐẦU TAI NẠN THƯƠNG TÍCH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ NĂM 2011 - 2012 Trần Bùi1, Trần Văn Hưởng2, Nguyễn Văn Tập3 TÓM TẮT Với mục tiêu tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khỏe ban đầu tai nạn thương tích tại thành phố Huế năm 2011-2012. Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 502 người dân hiện đang sống trên địa bàn thành phố Huế xảy ra tai nạn thương tích trong năm 2011- 2012 đến điều trị tại câc cơ sở y tế thành phố Huế. Kết quả, có 65,9% số nạn nhân được sơ cấp cứu ngay sau khi xảy ra tai nạn. Người sơ cấp cứu nạn nhân là người trong gia đình/ bạn bè/ thầy cô/ đồng nghiệp 60,4%, cán bộ y tế chỉ có 12,7%. Hai kỹ thuật sơ cấp cứu được sử dụng nhiều nhất là cầm máu tỷ lệ 46,2%; băng bó tỷ lệ 43,5%. Có 90,6% nạn nhân được vận chuyển đến cơ sở điều trị trong vòng một giờ. Kết quả điều trị có 93,8% số nạn nhân bình phục hoàn toàn, di chứng có thể phục hồi 4,2%, tàn tật vĩnh viễn 0,8%, tử vong 1,2%. Từ khóa: Tai nạn thương tích. ABSTRACT FIRST AID OF ACCIDENTS, INJURIES IN HUE CITY, 2011-2012 With the objective of find out the situation of primary health care injury accident in 2011-2012 in the city of Hue. A cross-sectional study was conducted on 502 people currently live in the city of Hue, who have accident injuries in 2011 and 2012 and treated at the medical facility in Hue City. Results: 65.9% of aid victims immediately after the accident scenes. Family / friends / teachers / peers are aid to victims 60.4%, health workers accounted for only 12.7% rate. Two techniques are used aid as much as 46.2% bleeding rate; bandaged ratio 43.5%. 90.6% of the victims have been transported to treatment facilities within an hour, a result 93.8% treated with victims recover completely, sequelae can recover 4.2%, disabled permanently 0.8%, 1.2% mortality. Keywords: Injury accident. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tai nạn thương tích hiện là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng ở khắp mọi nơi trên thế giới với số tử vong ước tính ngày càng tăng và là một trong những nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Thành phố Huế là thành phố của tỉnh Thừa Thiên Huế, là di sản văn hóa của nhân loại, ở miền Trung của Việt Nam. Dân số trung bình khoảng 340.000 người. Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa khá nhanh, kinh tế xã hội phát triển nên phương tiên giao thông đi lại cũng gia tăng đặc biệt là là xe mô tô, bên cạnh đó Huế là một nơi thường xẩy ra lũ lụt có năm xẩy ra 5-6 cơn lũ. Điều đó càng làm cho nguy cơ xẩy ra tai nạn thương tích càng lớn. Mặc dù hiện nay về tai nạn thương tích có rất nhiều công trình nghiên cứu cả trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào về tai nạn thương tích tương đối đầy đủ để có một cái nhìn tổng quát về tai nạn thương tích đối với cộng đồng người dân thành phố Huế. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khỏe ban đầu tai nạn thương tích tại thành phố Huế năm 2011-2012 nhằm góp phần phòng chống tai nạn thương tích ngay tại cộng đồng, địa phương. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Đối tượng: Người dân hiện đang sống trên địa bàn thành phố Huế xảy ra tai nạn thương tích trong năm 2011- 2012 đến điều trị tại các cơ sở y tế thành phố Huế. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu: 502 trường hợp tai nạn thương tích của người dân thành phố Huế xẩy ra trong năm 2011-2012 (tháng 1. Bệnh viện thành phố Huế. Điện thoại: 0914962 648 - Email: [email protected] 2. Trường Đại học Thăng Long, Hà Nội 3. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 01/02/2017 Ngày phản biện: 10/02/2017 Ngày duyệt đăng: 15/02/2017 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn68 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 5/2011 đến tháng 4/2012). Chọn mẫu: Lấy mẫu toàn bộ. Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng phiếu “Khảo sát thương tích tại Việt Nam năm 2010” do Bộ Lao động Thương binh Xã hội, Bộ Y tế, WHO, UNICEF và trường Đại học y tế công cộng ban hành có sữa chữa cho phù hợp với phạm vi đề tài nghiên cứu. Xử lý số liệu: Sử dụng các test thống kê, phân tích bằng phần mềm Epidata, SPSS 11.5. Đạo đức nghiên cứu: Đảm bảo quyền lợi của đối tượng tham gia nghiên cứu và bảo mật thông tin cá nhân. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Số lượng nạn nhân được sơ cấp cứu tại chỗ ngay sau khi xẩy ra tai nạn Sơ cấp cứu tại chỗ Tần số Tỷ lệ (%) Có 331 65,9 Không 170 33,9 Không nhớ/không rõ 1 0,2 Số nạn nhân được sơ cấp cứu khá cao có tỷ lệ 65,9%. Bảng 2. Người sơ cấp cứu tại chỗ Người sơ cấp cứu Tần số Tỷ lệ (%) Tự sơ cứu 46 13,9 Cán bộ y tế 42 12,7 Người trong gia đình/bạn bè/thầy cô/ đồng nghiệp 200 60,4 Người đi đường 43 13,0 Tổng cộng 331 100,0 Trong số 331 người được sơ cấp cứu tại chỗ thì người sơ cấp cứu tại chỗ cho nạn nhân chủ yếu là người trong gia đình/ bạn bè/thầy cô/đồng nghiệp của nạn nhân 60,4%, tự sơ cứu 13,9%, người đi đường 13%, cán bộ y tế chỉ sơ cứu 12,7%. Bảng 3. Nội dung sơ cấp cứu được thực hiện Nội dung sơ cứu Tần số Tỷ lệ (%) Hô hấp nhân tạo 2 0,6 Được băng bó 144 43,5 Được cầm máu 153 46.2 Cố định xương khớp 9 2,7 Khác 20 6,1 Không nhớ/không rõ 3 0,9 Tổng cộng 331 100 Hai nội dung được sử dụng để sơ cứu nhiều nhất là cầm máu 46,2% và băng bó 43,5%. Bảng 4. Tình hình bệnh nhân đến cơ sở điều trị Cơ sở điều trị Tần số Tỷ lệ (%) Có đến cơ sở điều trị 490 97,6 Không đến cơ sở điều trị 12 2,4 Tổng cộng 502 100 Trong 502 nạn nhân thì số nạn nhân được đưa đến các cơ sở điều trị 97,6%. Bảng 5. Cơ sở đầu tiên được chuyển đến Cơ sở điều trị Tần số Tỷ lệ (%) Trạm y tế 61 12,5 Bệnh viện(huyện) thành phố 364 74,3 Bệnh viện trung ương 52 10,6 Bệnh viện tư nhân 7 1,4 Phòng khám tư nhân 4 0,8 Khác 2 0,4 Tổng cộng 490 100 Cơ sở đầu tiên nạn nhân được chuyển đến là bệnh viện thành phố Huế 74,3%, thứ hai là trạm y tế 12,5%, thứ ba là Bệnh viện Trung ương Huế 10,6%. Bảng 6. Phương tiện vận chuyển nạn nhân Phương tiện chuyển Tần số Tỷ lệ (%) Xe cứu thương 9 1,8 Xe ô tô 28 5,7 Xe máy 438 89,5 Xe đạp/ xích lô/ ba gác 6 1,2 Đi bộ/ khiêng/ cỏng 8 1,6 Khác 1 0,2 Tổng số 490 100 Các phương tiện chủ yếu để vận chuyển nạn nhân đến các cơ sở điều trị là xe máy 89,5%, xe ô tô 5,7% và xe cứu thương chỉ vận chuyển 1,8% nạn nhân bị tai nạn thương tích. Bảng 7. Thời gian từ khi xảy ra tai nạn đến khi được vận chuyển tới cơ sở khám chữa bệnh Thời gian đến cơ sở y tế Số lần Tỷ lệ (%) Dưới 30 phút 353 72,1 Từ 30 phút đến 60 phút 91 18,6 Từ 1 giờ đến 3 giờ 12 2,4 Từ 3 giờ đến 6 giờ 8 1,6 Từ 6 đến 24 giờ 12 2,4 Trên 24 giờ 14 2,9 Tổng cộng 490 100 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 69 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Nạn nhân có thời gian từ khi nạn nhân bị chấn thương cho đến khi được chuyển đến các cơ sở điều trị dưới 30 phút là 72,1%, từ 30- 60 phút là 18,6%, từ 1 giờ đến 3 giờ là 2,4%. Bảng 8. Tình hình và kết quả điều trị của nạn nhân Kết quả điều trị Số lần Tỷ lệ (%) Đang điều trị 367 76,3 Bình phục hoàn toàn 84 17,5 Di chứng phục hồi 20 4,2 Tàn tật 4 0,8 Tử vong sau điều trị 6 1,2 Tổng cộng 481 100 Có 481/502 nạn nhân có kết quả điều trị, trong đó có 76,3% đang còn điều trị khi được phỏng vấn, đã ra viện và bình phục hoàn toàn là 17,5%, có di chứng nhưng có thể phục hồi là 4,2%, bị tàn tật là 0,8% và có 6 trường hợp bị tử vong 1,2%. IV. BÀN LUẬN Tình hình sơ cấp cứu: Trong nghiên cứu của chúng tôi về tình hình sơ cấp cứu khi tai nạn xẩy ra khá cao, số trường hợp tai nạn thương tích được sơ cứu tại chỗ là 65,9%. Nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Nguyễn Dung điều tra tai nạn thương tích tại tỉnh Thừa Thiên – Huế năm 2005, có 65,7% các trường hợp tai nạn thương tích được sơ cứu ban đầu [3]. Còn Lê vũ Anh điều tra tình hình chấn thương ở trẻ dưới 18 tuổi tại 6 tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Cần Thơ và Đồng Tháp, được sơ cấp cứu 57,3% và có 41,5% không được sơ cứu [1]. Về người thực hiện sơ cấp cứu ban đầu ngay sau khi tai nạn thương tích xảy ra: Ở nghiên cứu của chúng tôi mặc dù tỷ lệ người bị tai nạn thương tích được sơ cấp cứu ban đầu khá cao nhưng người thực hiện sơ cấp cứu lại là nhũng người không phải cán bộ chuyên môn y tế mà nhiều nhất lại là người nhà, bạn bè, thầy cô, người đồng nghiệp của nạn nhân chiếm 60,4%, tiếp đến là nạn nhân tự sơ cứu chiếm 13,9%, thứ ba là người đi đường chiếm tỷ lệ 13%. Cuối cùng là nhân viên y tế sơ cứu 12,7%. Tương tự Như công trình của Lê Vũ Anh hơn 70% trường hợp chấn thương được người nhà nạn nhân sơ cứu, 14% được cán bộ y tế sơ cứu và 9,2% được người khác sơ cứu (người đi đường) [1]. Về nội dung sơ cấp cứu: Trong nghiên cứu của chúng tôi, nội dung sơ cấp cứu ban đầu cho bệnh nhân khá đơn điệu chủ yếu hai thủ thuật thường dùng là cầm máu 46,2% và băng bó 43,5%. Tương tự như nghiên cứu tại Hà Nội, Hưng Yên, Thừa Thiên –Huế, tp Hồ Chí Minh và Đồng Nai năm 2011, thì có 68,3% nạn nhân được sơ cấp cứu với hình thức băng bó, 62,8% được sơ cấp cứu bằng hình thức cầm máu [5]. Nói chung sơ cấp cứu tai cộng đồng hai hình thức băng bó và cầm máu là chủ yếu. Chúng tôi nhận thấy rằng sở dĩ hai kỹ thuật cầm máu và băng bó có tỷ lệ cao điều này phù hợp với người sơ cấp cứu ban đầu phần lớn không phải là nhân viên y tế nên chủ yếu của họ khi thấy tai nạn xảy ra nhất là khi thấy máu chảy thì thường băng hoặc buộc chặt vết thương lại để cầm máu là chủ yếu. Tuy nhiên, điều này cũng nói lên rằng người dân cũng đã có ý thức về sơ cấp cứu ban đầu đối với tai nạn thương tích và dù sao cũng góp phần làm hạn chế nặng thêm của thương tích nhất là đối với các trường hợp vết thương gây mất máu nhiều. Cơ sở điều trị: Trong nghiên cứu của chúng tôi nạn nhân bị tai nạn thương tích được đưa đến cơ sở điều trị khá cao. Số được đưa đến cơ sở điều trị 97,8%. Nghiên cứu của chúng tôi về nạn nhân được đưa đến các cơ sở điều trị có cao hơn tác giả Nguyễn Dung và Dương Quang Minh năm 2005, có 65,7% các trường hợp tai nạn thương tích được sơ cấp cứu ban đầu và điều trị tại các cơ sở y tế [3]. Hay của Lê Vũ Anh chỉ gần 70% trường hợp chấn thương được đưa đến khám và điều trị tại cơ sở y tế nhà nước [1]. Có lẽ do thời điểm nghiên cứu khác nhau vì các nghiên cứu của các tác giả trên diễn ra đã nhiều năm trước trong khi hiện nay tình hình kinh tế xã hội có nhiều tiến bộ hơn, kiến thức phổ thông về y học của người dân cũng khá hơn trước và người dân cũng quan tâm đến sức khỏe của bản thân và người nhà hơn. Bên cạnh đó, cơ sở y tế được phát triển và hoàn chỉnh nhiều hơn trước và đặc biệt là bệnh nhân phần lớn là có đóng bảo hiểm y tế nên dễ dàng cho nạn nhân đến cơ sở điều trị vì vậy tỷ lệ đến các cơ sở điều trị cao hơn. Phương tiện vận chuyển nạn nhân: Phương tiện chủ yếu để vận chuyển nạn nhân là xe máy 89,5%, thứ hai là ô tô 5,7%, thứ ba là xe cấp cứu 1,8%, thứ tư là đi bộ, khiêng/ cỏng 1,6% và thứ 5 là xe đạp/xích lô 1,2%. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu tại Hà Nội, Hưng Yên, Thừa Thiên-Huế, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai năm 2011” có 81,8% nạn nhân được vận chuyển bằng xe máy(ô tô cứu thương chỉ chiếm 3%) [5]. Trần Văn Nam và cộng sự ở Hải Phòng năm 2007, bệnh nhân được vận chuyển chủ yếu bằng xe máy 68,7% và taxi là 8,57%, chuyển bằng xe cấp V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn70 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC cứu chỉ có 2,6% [4]. Về vận chuyển nạn nhân bằng xe máy nghiên cứu của chúng tôi có cao hơn một chút nhưng vận chuyển bằng xe máy là phương tiện vận chuyển chủ yếu để đưa nạn nhân đến cơ sở điều trị, cũng giống như đề tài của tác giả Nguyễn Dung năm 2005 [3]. Phương tiện vận chuyển cấp cứu nạn nhân xe máy chiếm 71,25% cũng là phương tiện chủ yếu vận chuyển nạn nhân bị tai nạn thương tích. Điều này cho thấy rằng xe máy là một phương tiện đi lại và vận chuyển chủ yếu của người dân mặc dù Thừa Thiên –Huế đã có trung tâm cấp cứu 115. Cơ sở điều trị đầu tiên nạn nhân được chuyển đến: Tỷ lệ nạn nhân chủ yếu được chuyển đến các cơ sở y tế nhà nước trong đó được chuyển đến bệnh viện tuyến huyện (bệnh viện thành phố) có tỷ lệ cao. Tương tự nghiên cứu các mô hình tai nạn thương tích tại cộng đồng của NguyễnThị Hồng Tú người bị thương chủ yếu đến bệnh viện huyện (45,2%), tỷ lệ đến bệnh viện tỉnh và trạm y tế đề 11,3%, đến bệnh viện trung ương là 9,7% [6]. Theo nghiên cứu của tác giả Lê vũ Anh thì có gần đến 70% trường hợp chấn thương được đưa đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế nhà nước [1]. Ở nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ nạn nhân được chuyến đến bệnh viện thành phố là 74,3% có lẽ do điều kiện là ở Huế không có bệnh viện tỉnh trong khi bệnh nhân có bảo hiểm y tế thì được phân tuyến khám chữa bệnh ban đầu tại tuyến huyện và xã và phần lớn nạn nhân bị chấn thương cũng không nặng lắm nên nạn nhân được chuyển đến bệnh viện thành phố để điều trị. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng nạn nhân được chuyển đến bệnh viện trung ương mặc dù tỷ lệ chỉ có 10,6% nhưng hầu hết là những nạn nhân bị chấn thương nặng hoặc có nguy cơ đe dọa đến tính mạng và được phân loại phần lớn bởi người nhà hoặc người đi đường, cho thấy rằng người dân cũng đã biết đánh giá như thế nào là nạn nhân nặng, nhẹ, cần phải chăm sóc ở tuyến nào cho phù hợp có lẽ đây là kết quả của nhiều năm truyển thông giáo dục sức khỏe đặc biệt là giáo dục về phòng chống tai nạn thương tích cho cộng đồng của Thừa Thiên-Huế. Thời gian vận chuyển nạn nhân: Nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng đa số nạn nhân được vận chuyển trong vòng 30 phút 72,1%, từ 30 phút đến 60 phút tỷ lệ 18,6%. Theo tác giả Nguyễn Đức Chính nghiên cứu tại Bệnh viện Việt Đức năm 2006, cho thấy đa số các trường hợp được chuyển đến bệnh viện trước 1 giờ, chiếm 33% [2]. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi nhưng ở đây Bệnh viện Việt Đức là bệnh viện tuyến trung ương và rất nhiều bệnh nhân trước khi chuyển đến Bệnh viện Việt Đức đều đã qua chăm sóc tại một cơ sở y tế tuyến trước đã. Còn trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh viện thành phố là bệnh viện tuyến huyện thuộc tuyến cơ sở lại là nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu cho một lượng lớn bệnh nhân bảo hiểm y tế nên có tai nạn thương tích xẩy ra thì đều được người nhà đưa đến trực tiếp đến bệnh viện ngay lập tức. Điều này cũng nói lên rằng sự phát triển mạng lưới y tế cơ sở, việc tham gia bảo hiểm y tế cũng góp phần rất thuận lợi cho người dân khi có sự cố về sức khỏe xảy ra. Kết quả điều trị nạn nhân bị tai nạn thương tích: Tại thời điểm chúng tôi tiến hành phỏng vấn đang được điều trị là 76,3%, đã điều trị bình phục hoàn toàn là 17,5%, đã điều trị bình phục nhưng có di chứng có thể phục hồi 4,2%. Nhìn chung phần lớn bệnh nhân điều trị đều có kết quả tốt, số bệnh nhân đang còn điều trị chủ yếu là bệnh nhân nhẹ hoặc vừa và đa số là bị vết thương phần mềm rách da là chủ yếu và đang điều trị tại Bệnh viện thành phố Huế nên chúng tôi cũng có dịp quan sát kết quả về sau đều lành và xuất viện. Kết quả phù hợp với tác giả Trần Văn Nam và cộng sự nghiên cứu tại Hải Phòng năm 2007, kết quả phần lớn các tai nạn thương tích đều phục hồi tốt 97,78% khỏi và đỡ khi ra viện, 0,26 bệnh nhân bị tử vong và 0,09% di chứng tàn phế suốt đời [4]. Tương tự kết quả của tác giả Nguyễn Thị Hồng Tú giám sát tai nạn thương tích tại 7 bệnh viện trong cả nước cho tất cả các lứa tuổi năm 2006, kết quả điều trị khỏi và đở giảm là 95,61%, tử vong tại bệnh viện là 0,46%, quá nặng xin về là 2,65%, nặng hơn phải chuyển là 1,27%. Ở nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ tử vong có cao hơn (1,2%) nhưng ở đây (Bệnh viện Trung ương Huế) là tuyến điều trị cuối cùng và những bệnh nhân tử vong đều là quá nặng nhưng không còn chuyển đi đâu nữa. Trong khi ở các nghiên cứu khác tỷ lệ tử vong có thấp hơn, di chứng tàn tật vĩnh viển cũng thấp hơn nhưng khác nhau là do các bệnh viện điều trị đó chưa phải là tuyến cuối cùng điều trị cho nạn nhân nên còn có một số bệnh nhân quá nặng được chuyển lên tuyến trên nữa và hơn nữa còn có một số nạn nhân nặng quá không muốn để tử vong ở bệnh viện nên xin về nhà để có thể chết tại nhà. Vì vậy nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ tử vong tại bệnh viện cũng như tỷ lệ tàn tật suốt đời có cao hơn các nghiên cứu khác. V. KẾT LUẬN Có 65,9% số nạn nhân được sơ cấp cứu ngay sau khi xảy ra tai nạn. Hai kỹ thuật sơ cấp cứu được sử dụng nhiều nhất là cầm máu (46,2%); băng bó (43,5%). Có 90,6% nạn nhân được vận chuyển đến cơ sở điều trị trong vòng một giờ. Kết quả điều trị có 93,8% số nạn nhân bình phục hoàn toàn, di chứng có thể phục hồi 4,2%, tàn tật vĩnh viễn 0,8%, tử vong 1,2%. SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 71 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 1. Lê Vũ Anh, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Thị Hồng, Nguyễn Trang Nhung, Lã Ngọc Quang (2004), Tình hình chấn thương và các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dưới 18 tuổi tại 6 tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Cần Thơ, Đồng Tháp, Đề tài cấp bộ ngành, Trung tâm nghiên cứu chính sách và phòng chống chấn thương. 2. Nguyễn Đức Chính, Cao Độc Lập (2007), "Tình hình tai nạn thương tích trẻ em qua giám sát TNTT tại bệnh viện Việt Đức năm 2006". Tập san Ngoại khoa, Tổng hội Y dược học Việt Nam, 57, tr.18-23. 3. Nguyễn Dung, Dương quang Minh (2008), Điều tra hộ gia đình về tai nạn thương tích tại tỉnh Thừa Thiên -Huế năm 2005, Hội nghị khoa học kỹ thuật ngành Y tế Thừa Thiên - Huế lần thứ II, tr.5 -14. 4. Trần Văn Nam (2007), "Phân tích một số đặc điểm tai nạn thương tích ở trẻ em điều trị tai bệnh viện trẻ em Hải Phòng từ tháng 8/2005 đến tháng 2/2007". Tạp chí Y học Việt Nam, 336, tr. 65 - 71. 5. Phòng chống tai nạn thương tích (2011), Tình hình sơ cấp cứu tai nạn thương tích của tình nguyện viên tại Hà Nội, Hưng Yên, Thừa Thiên-Huế, tp Hồ Chí Minh và Đồng Nai năm 2011, aspx?CateID=5&ItemID=1080, truy cập ngày 1/5/2011. 6. Nguyễn Thị Hồng Tú, Phùng Trí Dũng (2006), "Nghiên cứu các mô hình tai nạn thương tích do lao động tại cộng đồng". Tạp chí Y học Thực hành Bộ Y Tế, 538. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
File đính kèm:
tinh_hinh_so_cuu_ban_dau_tai_nan_thuong_tich_tai_thanh_pho_h.pdf

