Tình hình mắc bệnh gạo (Swine Cysticercosis) trên đàn lợn tại một số huyện của tỉnh Điện Biên
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae trên lợn được tiến hành tại 3 huyện Nậm Pồ,
Tủa Chùa và Mường Ảng của tỉnh Điện Biên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ lợn nhiễm ấu
trùng Cysticercus cellulosae ở huyện Nậm Pồ là 3,79%, ở huyện Tủa Chùa là 3,48%, ở huyện
Mường Ảng là 2,86%; số ấu trùng bình quân /lợn ở cơ là 1 - 10 ấu trùng, ở não là 1 - 7 ấu trùng, ở
thận và tim là 1 - 4 ấu trùng. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae tăng dần theo tuổi lợn, tỷ
lệ lợn nhiễm ấu trùng ở vụ Hè - Thu cao hơn vụ Đông - Xuân. Lợn địa phương nhiễm cao hơn so
với lợn lai. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn nuôi theo phương thức thả rông là
5,84%, theo phương thức bán chăn thả là 2,55%, theo phương thức nuôi nhốt là 0,67%. Tỷ lệ lợn
nhiễm ở vùng núi cao là 5,32%, ở vùng đồi núi thấp là 2,84%, ở vùng đồng bằng là 1,30%. Lợn nuôi
thả rông và bán chăn thả có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao gấp 2,29 - 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt.
Từ khóa: lợn, ấu trùng, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, lợn lai, tỉnh Điện Biên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình mắc bệnh gạo (Swine Cysticercosis) trên đàn lợn tại một số huyện của tỉnh Điện Biên
ISSN: 1859-2171 e-ISSN: 2615-9562 TNU Journal of Science and Technology 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 23 TÌNH HÌNH MẮC BỆNH GẠO (Swine Cysticercosis) TRÊN ĐÀN LỢN TẠI MỘT SỐ HUYỆN CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN Đỗ Thị Lan Phương*, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Ngân Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae trên lợn được tiến hành tại 3 huyện Nậm Pồ, Tủa Chùa và Mường Ảng của tỉnh Điện Biên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở huyện Nậm Pồ là 3,79%, ở huyện Tủa Chùa là 3,48%, ở huyện Mường Ảng là 2,86%; số ấu trùng bình quân /lợn ở cơ là 1 - 10 ấu trùng, ở não là 1 - 7 ấu trùng, ở thận và tim là 1 - 4 ấu trùng. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae tăng dần theo tuổi lợn, tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng ở vụ Hè - Thu cao hơn vụ Đông - Xuân. Lợn địa phương nhiễm cao hơn so với lợn lai. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn nuôi theo phương thức thả rông là 5,84%, theo phương thức bán chăn thả là 2,55%, theo phương thức nuôi nhốt là 0,67%. Tỷ lệ lợn nhiễm ở vùng núi cao là 5,32%, ở vùng đồi núi thấp là 2,84%, ở vùng đồng bằng là 1,30%. Lợn nuôi thả rông và bán chăn thả có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao gấp 2,29 - 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt. Từ khóa: lợn, ấu trùng, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, lợn lai, tỉnh Điện Biên Ngày nhận bài: 22/4/2019; Ngày hoàn thiện: 04/6/2019; Ngày đăng: 16/6/2019 SITUATION OF INFECTION Swine Cysticercosis ON SOME DISTRICTS OF DIEN BIEN PROVINCE Do Thi Lan Phuong * , Nguyen Thi Kim Lan, Nguyen Thi Ngan University of Agriculture and Forestry - TNU ABSTRACT Study on prevalence of Cysticercus cellulosae larvae in pigs was conducted in three districts of Dien Bien province. The studied results showed that the infection rate of pigs with Cysticercus cellulosae larvae in Nam Po, Tua Chua and Muong Ang districts was 3.79%, 3.48%, and 2.86%, respectively. The average number of larvae in a pig was from 1 to 10 (in the muscle), from 1 to 7 (in the brain), from 1 - 4 (in the kidney and in the heart). The infection rate of pig increased by age. The infection rate of pigs in the summer - autumn season was higher than in the winter - spring season. The infection rate of the local pig breeds was higher than that of the hybrid pig breeds. The infection rate of the free grazing pigs was 5.84%, of the half grazing was 2.55% and of the completely confined pigs was 0.67%. In high mountain area, the infection rate of pig was 5.32%, in the low hill area the infection rate of pig was 2.84%, and in plain areas this rate was 1,30%. The free grazing and semi - grazing pigs facing with the risk of Cysticercus cellulosae larvae infection was 2.12 to 2.77% times higher compated to the captive bree. Keywords: pig, larvae, infection rate, infectious intensity, crossbred pigs, Dien Bien province Received: 22/4/2019; Revised: 04/6/2019; Published: 16/6/2019 * Corresponding author. Email: dothilanphuong@tuaf.edu.vn Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 24 1. Đặt vấn đề Cysticercus cellulosae (Cys. cellulosae) là ấu trùng của sán dây Taenia solium. Ấu trùng này ký sinh ở cơ vân, cơ tim, não... của lợn, người và gây ra bệnh ‘gạo”. Khi lợn hoặc người nuốt phải đốt hoặc trứng sán dây Taenia solium, ấu trùng nở ra ở ruột non, qua niêm mạc ruột non vào máu, theo máu đến cơ, não, mắt, tim... và phát triển thành ấu trùng Cys. cellulosae (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996 [1]; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2006 [2]; Phan Lục, 2006 [3], Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [4]). Lợn bị nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae thường ăn kém, gầy yếu, sút cân, đi lại khó khăn và có triệu chứng thần kinh nếu có ấu trùng ký sinh trong não (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [4]). Theo thông tư 09 ngày 01 tháng 6 năm 2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2016 [5]), lợn có từ 6 ấu trùng Cysticercus cellulosae trở lên trong 40 cm2 lát cắt thịt thì toàn bộ thịt phải hủy bỏ, từ đó gây thiệt hại về kinh tế. Tuy nhiên, nguy hiểm hơn là bệnh không chỉ thấy ở lợn mà người cũng mắc bệnh ấu trùng sán dây lợn. Ấu trùng ký sinh ở nhiều vị trí khác khau trong cơ thể người như: Não, mắt, cơ, tim... Nguy hiểm nhất là neurocysticercosis - một căn bệnh gây tỷ lệ tử vong cao ở người do ấu trùng sán dây ký sinh ở não gây ra. Người bị bệnh thường đau đầu dữ dội, suy nhược thần kinh nhanh chóng, chóng mặt, buồn nôn và nôn mửa, thị lực giảm, trí nhớ giảm sút, co giật, rối loạn cảm giác, tê liệt, hôn mê và chết (Phan Lục, 2006 [3]; Lê Bách Quang và cs., 2008 [6]; Phạm Văn Thân, 2009 [7]; Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]). Trong những năm gần đây, tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae trên lợn và người ở nhiều địa phương có chiều hướng gia tăng, trong đó có tỉnh Điện Biên. Tập quán nuôi lợn thả rông, thói quen ăn thịt sống, thịt tái và tập quán sinh hoạt của người dân vùng núi đã tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Những vấn đề trên cho thấy, việc tìm hiểu về tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn để có cơ sở khoa học cho những nghiên cứu về biện pháp phòng chống bệnh hiệu quả, từ đó góp phần phòng chống bệnh sán dây và bệnh gạo cho người là hết sức cần thiết (Gabriel S. 2017 [9]). 2. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.1. Vật liệu nghiên cứu Lợn các lứa tuổi nuôi ở nông hộ tại huyện Nậm Pồ, Tủa Chùa và Mường Ảng của tỉnh Điện Biên (mổ khám để xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae). Bệnh phẩm: Mẫu cơ, não, tim, thận và các cơ quan nội tạng khác của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. Dụng cụ, thiết bị và hóa chất: Bộ đồ mổ tiểu gia súc, kính lúp, kính hiển vi quang học, thùng bảo ôn để bảo quản bệnh phẩm, hộp bảo quản ấu trùng Cys. cellulosae. 2.2. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại một số huyện thuộc tỉnh Điện Biên (tỷ lệ nhiễm theo tuổi, theo mùa vụ, theo giống lợn, theo phương thức chăn nuôi lợn, theo địa hình), nghiên cứu nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo các phương thức chăn nuôi khác nhau. 2.3. Phương pháp nghiên cứu * Tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn được xác định theo phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả, dịch tễ học phân tích. Bố trí thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc. - Cỡ mẫu được tính trên phần mềm Win Episcope 2.0. - Mổ khám lợn tại ba huyện của tỉnh Điện Biên: Huyện Nậm Pồ 343 lợn, huyện Tủa Chùa 345 lợn, huyện Mường Ảng 350 lợn. - Để xác định tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn, tiến hành mổ khám lợn theo phương pháp mổ khám toàn diện của Skrjabin K. I., 1928 (dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [4]), kiểm tra cơ, não và tất cả các khí quan, thu thập ấu trùng Cys. cellulosae. - Phương pháp đánh giá tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae: Những lợn có Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 25 ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh trong cơ thể thì đánh giá là nhiễm bệnh, ngược lại là không nhiễm bệnh. Cường độ nhiễm ấu trùng được xác định theo Thông tư số 09/2016/TT - BNNPTNT ngày 01/06/2016 [5]) của Bộ NN&PTNT. * Xác định nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn nuôi thả rông, nuôi bán chăn thả và nuôi nhốt bằng cách tính chỉ số nguy cơ tương đối (Relative Risk - RR) và tỷ số giữa 2 xác suất (Odds ratio - OR) để so sánh các nguy cơ (Nguyễn Như Thanh và cs., 2011 [10]). 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở ba huyện của tỉnh Điện Biên Bảng 1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng ở các huyện Địa phương (huyện) Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Số lợn nhiễm/Cường độ nhiễm (min - max) ấu trùng Ở cơ Ở não Ở thận Ở tim Mường Ảng 350 10 2,86 10/(1 - 9) 9/(1 - 4) 9/(1 - 3) 9/(1 -2) Tủa Chùa 345 12 3,48 12/(1 - 10) 10/(1 - 5) 10/(1 - 3) 12/(1 - 4) Nậm Pồ 343 13 3,79 13/(1 - 10) 13/(1 - 7) 13/(1 - 4) 13/(1 - 3) Tính chung 1.038 35 3,37 35/(1 - 10) 32/(1 - 7) 32/(1 - 4) 34/(1 - 4) Ghi chú: H. Mường Ảng: Trong 10 lợn nhiễm có 10 con thấy ấu trùng ở cơ, 9 con thấy ấu trùng ở não, thận và tim. Tương tự như vậy với 2 huyện Tủa Chùa và Nậm Pồ. Kết quả bảng 1 cho thấy: - Về tỷ lệ nhiễm: Trong tổng số 1.038 lợn mổ khám có 35 lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae, tỷ lệ nhiễm chung là 3,37%; biến động từ 2,86% đến 3,79%. Trong đó: Lợn nuôi ở huyện Nậm Pồ có tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao nhất (3,79%), tiếp theo là lợn ở huyện Tủa Chùa (3,48%) và thấp nhất là lợn ở huyện Mường Ảng (2,86%). Những lợn nhiễm đều thấy có ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh ở cơ, ở não, ở thận và ở tim của lợn, không thấy ấu trùng ở các cơ quan nội tạng khác. Cường độ nhiễm chung ở lợn mổ khám từ 1 - 10 ấu trùng/40 cm2 lát cắt cơ, ở não là 1 - 7 ấu trùng, ở thận là 1 - 4 ấu trùng, đối với tim, cường độ nhiễm ấu trùng là 1 - 4. Theo kết quả nghiên cứu của Satyaprakash K. và cs (2018) [11], ấu trùng thường ký sinh ở cơ, lưỡi, cơ hoành và não. Kết quả của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả trên. 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tuổi lợn Bảng 2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tuổi lợn Tuổi lợn (tháng) Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) ≤ 2 24 0 0,0 > 2 - 6 276 4 1,45 > 6 – 12 410 9 2,19 > 12 328 22 6,70 Tính chung 1.038 35 3,37 Kết quả bảng 2 cho thấy: Lợn dưới 2 tháng tuổi chưa thấy nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. Lợn ở giai đoạn > 2 - 6 tháng tuổi nhiễm ấu trùng với tỷ lệ thấp, trung bình là 1,45%; lợn > 6 - 12 tháng tuổi nhiễm ấu trùng với tỷ lệ cao hơn (2,19%); lợn trên 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao nhất (6,70%). Theo kết quả nghiên cứu của Sarti E. và cs. (1994) [12], Pouedet M. S. R. và cs. (2002) [13] và Jayashi C. M. (2012) [14]: Lợn trưởng thành có nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao, những lợn nuôi lâu có nguy cơ nuốt phải trứng hoặc đốt sán dây Taenia solium nhiều hơn những lợn nhỏ. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên. Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 26 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo mùa vụ Bảng 3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo mùa vụ Mùa vụ Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Hè – Thu 459 22 4,79 Đông – Xuân 579 13 2,24 Đông – Xuân 1.038 35 3,37 Kết quả bảng 3 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở các địa phương khác nhau theo các mùa vụ trong năm. Tính chung, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở vụ Hè - Thu cao hơn so với vụ Đông - Xuân (Vụ Hè - Thu tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 4,79%, vụ Đông - Xuân là 2,24%). Sự khác nhau này rõ rệt (P < 0,05). Theo chúng tôi, lợn nhiễm ấu trùng ở vụ Hè - Thu cao hơn vụ Đông - Xuân là do vụ Hè - Thu thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, người bị mắc bệnh sán dây Taenia solium phóng uế ra môi trường (vì không có nhà vệ sinh) sẽ làm cho đốt và trứng sán dây phát tán, tồn tại ở ngoại cảnh nên lợn dễ nuốt vào đường tiêu hóa và dễ bị bệnh gạo do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra. 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo giống lợn Bảng 4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo giống lợn Giống lợn Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Lợn địa phương 557 25 4,49 Lợn lai 481 10 2,08 Tính chung 1.038 35 3,37 Kết quả bảng 4 cho thấy: Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn địa phương cao hơn so với lợn lai (4,49% so với 2,08%). Sự sai khác này là rõ rệt (P < 0,05). Theo khảo sát của chúng tôi, tại các địa phương nghiên cứu, giống lợn địa phương được nuôi nhiều hơn so với lợn lai, đồng thời tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn địa phương cũng cao hơn so với lợn lai. Nguyên nhân là do: Lợn địa phương là giống lợn bản địa, được nuôi lâu đời ở các địa phương của tỉnh Điện Biên, thường được nuôi theo phương thức thả rông, trong khi nhiều hộ gia đình nuôi lợn lai theo phương thức nuôi nhốt hoặc bán chăn thả, vì vậy lợn địa phương có nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao hơn so với lợn lai. 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi Bảng 5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cys. cellulosae theo phương thức chăn nuôi lợn Phương thức chăn nuôi Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Nhốt hoàn toàn 296 2 0,67 Bán chăn thả 314 8 2,55 Thả rông 428 25 5,84 Tính chung 1.038 35 3,37 Bảng 5 cho thấy: Tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao nhất ở lợn được nuôi theo phương thức thả rông (5,84%). Tiếp đến là lợn được nuôi theo phương thức bán chăn thả, tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 2,55%. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng thấp nhất ở lợn được nuôi theo phương thức nuôi nhốt hoàn toàn (0,67%). Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm theo phương thức chăn nuôi có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Theo chúng tôi, so với lợn được nuôi nhốt hoàn toàn thì lợn được nuôi theo phương thức thả rông và bán chăn thả có nguy cơ tiếp xúc nhiều hơn với đốt hoặc trứng sán dây do người mắc bệnh sán dây thải ra, dẫn đến tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao hơn rõ rệt ở những lợn này. Kết quả trên phù hợp với nhận xét của Nguyễn Văn Đề và cs. (1998) [15], Phạm Sỹ Lăng và Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 27 cs. (2006) [2], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009) [16]: Bệnh lưu hành ở những vùng mà người dân không có nhà vệ sinh nên thường thải phân tươi ra môi trường tự nhiên và nuôi lợn thả rông. Như vậy, tập quán nuôi lợn thả rông ở miền núi và trung du là nguyên nhân dẫn đến lợn dễ bị nhiễm bệnh do ấu trùng sán dây hơn so với các hình thức chăn nuôi khác. 3.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo địa hình Bảng 6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo địa hình Loại địa hình Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Vùng núi cao 413 22 5,32 Vùng đồi núi thấp 317 9 2,84 Vùng bằng phẳng 308 4 1,30 Tính chung 1.038 35 3,37 Bảng 6 cho thấy: Ở tỉnh Điện Biên: lợn do bà con dân tộc nuôi ở khu vực núi cao nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao nhất (5,32%), ở khu vực đồi núi thấp là 2,84%, tỷ lệ thấp nhất thấy ở lợn nuôi tại khu vực bằng phẳng (1,30%). Theo Nguyễn Văn Đề và cs (1998) [15], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006) [2], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009) [16], lợn ở miền núi mắc bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, đồng thời nhiều người thường ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nhận xét của các tác giả trên. 3.7. So sánh nguy cơ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tập quán chăn nuôi của người dân ở ba huyện của tỉnh Điện Biên So sánh nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo tập quán chăn nuôi của người dân tại tỉnh Điện Biên được trình bày ở bảng 7. Bảng 7. So sánh nguy cơ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tập quán chăn nuôi Tập quán chăn nuôi Có nhiễm ấu trùng Không nhiễm ấu trùng Tổng RR OR Lợn nuôi thả rông 25 403 428 2,29 2,37 Lợn nuôi bán chăn thả 8 306 314 Tổng 33 709 742 Lợn nuôi thả rông 25 403 428 8,64 9,12 Lợn nuôi nhốt hoàn toàn 2 294 296 Tổng 27 697 724 Lợn nuôi bán chăn thả 8 306 314 3,77 3,84 Lợn nuôi nhốt hoàn toàn 2 294 296 Tổng 10 600 610 Bảng 7 cho thấy: * Với cặp so sánh 1: chỉ số RR = 2,29 phản ánh, nuôi lợn thả rông là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn. Những lợn nuôi thả rông có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao 2,29 lần so với lợn được nuôi bán chăn thả. Chỉ số OR = 2,37 cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao gấp 2,37 lần so với những lợn không nhiễm ấu trùng khi được nuôi theo phương thức này. * Với cặp so sánh 2: chỉ số RR = 8,64 phản ánh, nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn nuôi thả rông cao gấp 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn. Chỉ số OR = 9,12 cũng cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao gấp 9,12 lần so với lợn không bị nhiễm khi nuôi theo phương thức này. * Với cặp so sánh 3: chỉ số RR = 3,77 cho thấy, phương thức nuôi lợn bán chăn thả cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cho lợn. Những lợn nuôi bán chăn thả có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao hơn so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn 3,77 lần. Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 28 Chỉ số OR = 3,84 phản ánh khả năng lợn nuôi bán chăn thả bị nhiễm ấu trùng cao gấp 3,84 lần so với những lợn không nhiễm, nhưng vẫn nuôi theo phương thức này. Như vậy, nuôi lợn theo phương thức thả rông và bán chăn thả là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn từ 2,29 - 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt, chỉ số OR cho thấy, lợn nuôi theo phương thức này có khả năng nhiễm bệnh cao hơn khả năng không nhiễm bệnh từ 2,37 - 9,12 lần. 4. Kết luận - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae trên lợn ở huyện Nậm Pồ là 3,79%, huyện Tủa Chùa là 3,48%, huyện Mường Ảng là 2,86%, số ấu trùng bình quân ở cơ là 1 - 10, ở não 1 - 7, ở thận và tim là 1 - 4. - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae tăng dần theo tuổi của lợn. - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở vụ Hè - Thu cao hơn vụ Đông-Xuân. - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae của lợn địa phương cao hơn so với lợn lai. - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn nuôi thả rông là 5,84%, ở lợn nuôi bán chăn thả là 2,55%, ở lợn nuôi nhốt là 0,67%. - Lợn ở vùng núi cao nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae là 5,32%, vùng đồi núi thấp là 2,84%, vùng đồng bằng là 1,30%. - Nuôi lợn theo phương thức thả rông và bán chăn thả là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn từ 2,29 - 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phạm Văn Khuê, Phan Lục, Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 81 - 83; 98 – 101, 1996. [2]. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Thọ, Các bệnh ký sinh trùng và bệnh nội sản khoa thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 74 – 78, 2006. [3]. Phan Lục, Giáo trình bệnh ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 79 – 81, 2006. [4]. Nguyễn Thị Kim Lan, Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y (Giáo trình dùng đào tạo bậc Đại học), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 115 – 120, 2012. [5]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Thông tư 09 ngày 1/6/2016 Quy định về kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú ý, 2016. [6]. Lê Bách Quang, Nguyễn Khắc Lực, Phạm Văn Minh, Lê Trần Anh, Lê Quốc Tuấn, Nguyễn Ngọc San, Ký sinh trùng và côn trùng y học (Giáo trình giảng dạy Đại học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008. [7]. Phạm Văn Thân, Ký sinh trùng đường ruột, Nxb Y học, 2009. [8]. Nguyễn Văn Đề, Ký sinh trùng trong lâm sàng, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 88 – 94, 2013. [9]. S. Gabriel, P. Dorny, K. E. Mwape, C. Trevisan, U. C. Braae, P. Magnussen, S. Thys, C. Bulaya, I. K. Phiri, C. S. Si kasunge, S. Afonso, M. V. Johansen, “Control of Taenia solium taeniasis/cysticercosis: The best way forward for sub-Saharan Africa”, Acta. Trop., 165, pp. 252 – 260, 2017. [10]. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa, Trương Quang, Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học thú y, Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 2011. [11]. K. Satyaprakash, W. A. Khan, S. P. Chaudhari, S. V. Shinde, N. V. Kurkure, S. W. Kolte, “Pathological and molecular identification of porcine cysticercosis in Maharashtra, India”, Acta Parasitol, 63 (4), pp. 784 -790, 2018. [12]. E. Sarti, P. M. Schantz, A. Plancarte, “Epidemiological investigation of Taenia solium taeniasis and cysticercosis in a rural village of Michoacan State, Mexico”, Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene; 88 (1), pp. 49 – 52, 1994. [13]. M. S. R. Pouedet, A. P. Zoli, L. Vondou, “Epidemiological survey of swine cysticercosis in two rural communities of West-Cameroon”, Veterinary Parasitology, 106 (1), pp. 45 – 54, 2002. [14]. C. M. Jayashi, G. Arroyo, M. W. Lightowlers, H. H. García, S. Rodríguez and A. E. Gonzalez, “Seroprevalence and risk factors for Taenia solium cysticercosis in rural pigs of Northern Peru”, Plos. Negl. Trop. Dis., 6 (7), pp. 1733, 2012. [15]. Nguyễn Văn Đề, Kiều Tùng Lâm, Lê Văn Châu, Lê Đình Công, Đặng Thanh Sơn, Hà Viết Viên, Nguyễn Thị Tân, “Nghiên cứu bệnh sán lá, sán dây”, Tạp chí phòng bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương, S. 2, tr. 29 – 32, 1998. [16]. Phạm Sỹ Lăng, Phạm Ngọc Đình, Nguyễn Bá Hiên, Phạm Quang Thái, Văn Đăng Kỳ, 8 bệnh chung quan trọng truyền lây giữa người và động vật, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 91 – 98, 2009. Đỗ Thị Lan Phương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 23 - 28 Email: jst@tnu.edu.vn 29
File đính kèm:
- tinh_hinh_mac_benh_gao_swine_cysticercosis_tren_dan_lon_tai.pdf