Tính đa hình nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai và thai chết lưu

Tính đa hình nhiễm sắc thể dễ bị bỏ sót khi phân tích do các dạng đa hình phong phú hoặc dễ bị nhầm lẫn

với các đột biến nhiễm sắc thể. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: xác định tỷ lệ và mô tả các dạng đa

hình của nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai, thai chết lưu. Công thức nhiễm sắc thể của

1157 cặp vợ chồng bị ST, TCL một lần hoặc nhiều lần được xác định bằng kỹ thuật nhuộm băng G và phân tích

đa hình theo tiêu chuẩn ISCN – 2016. Kết quả cho thấy có 249/2314 mẫu có tính đa hình bao gồm các dạng:

qh+, inv, ps+, pstk+, qh-, cenh+, extra band, fra. Trong đó dạng biến đổi qh+ (67,2%) và inv(9) (17,2%) chiếm

tỷ lệ cao hơn các dạng đa hình khác. Tỷ lệ đa hình của nhóm ST, TCL một lần so với nhóm ST, TCL hai hoặc

ba lần, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p< 0,05.="" tỷ="" lệ="" đa="" hình="" nst="" tăng="" lên="" theo="" số="" lần="" st,="" tcl.="" điều="" này="">

ý rằng ở các cặp vợ chồng có tiền sử ST, TCL nên được phân tích NST và chú ý đến tính đa hình của NST.

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Tính đa hình nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai và thai chết lưu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính đa hình nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai và thai chết lưu

Tính đa hình nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai và thai chết lưu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202042
TÍNH ĐA HÌNH NHIỄM SẮC THỂ Ở CÁC CẶP VỢ CHỒNG 
CÓ TIỀN SỬ SẢY THAI VÀ THAI CHẾT LƯU
Đoàn Thị Kim Phượng1,2, , Phạm Thế Vương³, Vũ Thị Hà1,2, Hoàng Thị Ngọc Lan1,2
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
³Bệnh viện Phụ sản Hà Nội 
Tính đa hình nhiễm sắc thể dễ bị bỏ sót khi phân tích do các dạng đa hình phong phú hoặc dễ bị nhầm lẫn 
với các đột biến nhiễm sắc thể. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: xác định tỷ lệ và mô tả các dạng đa 
hình của nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai, thai chết lưu. Công thức nhiễm sắc thể của 
1157 cặp vợ chồng bị ST, TCL một lần hoặc nhiều lần được xác định bằng kỹ thuật nhuộm băng G và phân tích 
đa hình theo tiêu chuẩn ISCN – 2016. Kết quả cho thấy có 249/2314 mẫu có tính đa hình bao gồm các dạng: 
qh+, inv, ps+, pstk+, qh-, cenh+, extra band, fra... Trong đó dạng biến đổi qh+ (67,2%) và inv(9) (17,2%) chiếm 
tỷ lệ cao hơn các dạng đa hình khác. Tỷ lệ đa hình của nhóm ST, TCL một lần so với nhóm ST, TCL hai hoặc 
ba lần, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p< 0,05. Tỷ lệ đa hình NST tăng lên theo số lần ST, TCL. Điều này gợi 
ý rằng ở các cặp vợ chồng có tiền sử ST, TCL nên được phân tích NST và chú ý đến tính đa hình của NST. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Sảy thai, thai chết lưu, đa hình nhiễm sắc thể.
Sảy thai (ST), thai chết lưu (TCL) có thể do 
nhiều nguyên nhân, trong đó, đột biến nhiễm 
sắc thể (NST) đóng vai trò chủ yếu gây ra thai 
sảy, thai chết lưu trong ba tháng đầu thai kì. 
Xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ 
chồng này đang được ứng dụng nhằm tìm ra 
nguyên nhân gây sảy thai, thai chết lưu để đưa 
ra lời khuyên di truyền góp phần nâng cao chất 
lượng sinh sản ở cộng đồng và xã hội.
Ngoài các đột biến về số lượng và cấu trúc 
NST gây ST,TCL, hiện nay các nghiên cứu về 
tính đa hình nhiễm sắc ở người cho thấytính 
đa hình NST có thể gây ra những ảnh hưởng 
lâm sàng nhất định như vô sinh hay sảy thai 
tự nhiên.Tính đa hình NST bao gồm các kích 
thước khác nhau của các khối dị nhiễm sắc, 
vùng vệ tinh, vùng có trình tự lặp lại, thường 
gặp ở NST số 1, 9, 16, Y. Đây được xem là 
dạng biến thể bình thường trong bộ NST người 
và có thể di truyền được.¹ Tuy nhiên ngày càng 
có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằngtỷ lệ đa hình 
nhiễm sắc thể ở nhóm ST, TCL cao hơn so 
với nhóm những người không có tiền sử bất 
thường sinh sản này.2,3
Một số nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng 
các biến đổi dị nhiễm sắc ở nhánh dài các NST 
1, 9, 16 có liên quan tới vô sinh.4,5 Tuy nhiên, 
tính đa hình NST dễ bị bỏ sót khi phân tích do 
các dạng đa hình phong phú hoặc dễ bị nhầm 
lẫn với các đột biến NST. Với mong muốn đóng 
góp thêm vào dữ liệu các dạng đa hình NST 
và làm sáng tỏ vai trò của tính đa hình NST 
trong sảy thai, thai chết lưu, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu “Phân tích tính đa hình nhiễm sắc 
Tác giả liên hệ: Đoàn Kim Phượng,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 43
thể ở các cặp vợ chồng có tiền sửsảy thaivà 
thai chết lưu” với mục tiêu: Xác định các dạng 
đa hình của NST ở các cặp vợ chồng có tiền sử 
sảy thai, thai chết lưu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các cặp vợ chồng 
(2314 người) có tiền sử ST, TCL của những lần 
mang thai tự nhiên, sảy thai và/ hoặc thai chết 
lưu chưa rõ nguyên nhân, đến làm xét nghiệm 
nhiễm sắc thể đồ tại Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: là các cặp vợ chồng 
đã rõ nguyên nhân sảy thai, thai chết lưu, mắc 
bệnh tự miễn, dị dạng cơ quan sinh dục, nhiễm 
trùng, nội tiết, đông máu.
Các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai, thai 
chết lưu được điền phiếu thông tin, lấy 2 mL 
máu ngoại vi để nuôi cấy xét nghiệm NST, phân 
tích 20 cụm kỳ giữa cho mỗi mẫu để phát hiện 
tính đa hình nhiễm sắc thể. Các tiêu chuẩn 
phân tích và kết luận dựa theo tiêu chuẩn ISCN 
- 2016 (An International System for Human 
Cytogentic Nomenclature).
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm 
can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2015 
đến hết tháng 7 năm 2020
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện và tuyển chọn được 1157 cặp 
vợ chồng đủ tiêu chuẩn và đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
3. Xử lý số liệu
Các số liệu được mã hóa nhập vào máy vi 
tính, xử lý và kiểm tra độ chính xác bằng các 
phương pháp thống kê Y học. Số liệu được xử 
lý theo chương trình SPSS 16.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các quy định về đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh của Trường Đại 
học Y Hà Nội.Các thí nghiệm trong nghiên 
cứu tuân thủ theo đúng các quy trình, quy tắc 
phòng thí nghiệm.
III. KẾT QUẢ
1. Kết quả phân tích tính đa hình nhiễm sắc 
thể 
Trong tổng số 2.314 đối tượng nghiên cứu 
có 249 mẫu đa hình, trong đó có 6 trường hợp 
đa hình ở hai nhiễm sắc thể (một người có hai 
đa hình ở hai NST khác nhau) và 243 trường 
hợp đa hình ở một nhiễm sắc thể. Tỷ lệ đa hình 
chung trong nghiên cứu là 10,8%. Tỷ lệ đa hình 
NST ở nam là 130/1157 người, chiếm 11,24%, 
nhiều hơn nữ là 10,29% (119/1157 người). Sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 
0,461.
2. Các loại nhiễm sắc thể có tính đa hình và 
phân bố của chúng theo giới
Bảng 1. Tỷ lệ đa hình của các nhiễm sắc thể khác nhau
Nhiễm sắc thể
Số trường hợp có tính đa hình nhiễm sắc thể
Nam Nữ Tổng Tỷ lệ
1 49 60 109 42,7%
9 51 39 90 35,3%
16 4 9 13 5,1%
Y 13 0 13 5,1%
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202044
Nhiễm sắc thể
Số trường hợp có tính đa hình nhiễm sắc thể
Nam Nữ Tổng Tỷ lệ
13 3 2 5 2,0%
14 3 1 4 1,6%
15 5 2 7 2,7%
21 3 4 7 2,7%
22 3 3 6 2,4%
6 1 0 1 0,4%
Tổng 135 120 255 100%
Tỷ lệ đa hình ở NST số 1 là nhiều nhất, tiếp đến là nhiễm sắc thể số 9, 16, Y. Các nhiễm sắc thể 
tâm đầu (như cặp NST số 13, 14, 15, 21, 22) gặp với tỷ lệ ít hơn. Chỉ có một trường hợp đa hình ở 
nhiễm sắc thể số 6. Không thấy đa hình ở NST số 2, 3, 10. Phân bố NST có tính đa hình theo giới 
cũng có sự khác biệt. Ở nam giới gặp nhiều hơn đa hình ở NST số 9 và 15. Trong khi ở nữ giới gặp 
đa hình ở NST số 1 và 16 nhiều hơn. Chỉ nam giới mới có đa hình ở NST Y.
3. Các dạng biến đổi của tính đa hình nhiễm sắc thể
Bảng 2. Tỷ lệ các dạng biến đổi của tính đa hình nhiễm sắc thể
Dạng biến đổi
Số trường hợp có tính đa hình nhiễm sắc thể
Nam Nữ Tổng Tỷ lệ
qh+ 91 81 172 67,4%
inv 19 25 44 17,2%
ps+ 9 5 14 5,5%
pstk+ 7 6 13 5,1%
qh- 5 2 7 2,7%
extra band 1 1 2 0,8%
cenh + 2 0 2 0,8%
fra 1 0 1 0,4%
Tổng 135 120 255 100%
Dạng biến đổi qh+ là hay gặp nhất chiếm tỷ lệ 67,2%. Dạng inv gặp nhiều thứ 2 mà chủ yếu là 
inv (9) chiếm 17,2%. Dạng ps+ và pstk+ gặp với tỷ lệ như nhau 5,5%. Loại đa hình ít gặp nhất là fra 
(16) chiếm 0,4%.
Hình ảnh các dạng đa hình NST số 1, 9, 16 và Y dễ nhầm lẫn với đột biến nhân đoạn nhiễm sắc 
thể. Ở NST nhóm D và nhóm G, hình ảnh các đa hình ps+ và pstk+ có kích thước lớn dễ gây nhận 
định nhầm lẫn với bất thường cấu trúc NST (Hình 1).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 45
Hình 1. Các dạng đa hình nhiễm sắc thể quan sát thấy trong nghiên cứu
4. Tỷ lệ tính đa hình nhiễm sắc thể theo số lần sảy thai, thai chết lưu
Bảng 3. Tỷ lệ đa hình theo số lần sảy thai, thai chết lưu
Các nhóm bất thường 
sinh sản
Số trường hợp có 
tính đa hình NST (n)
Tỷ lệ (%)
ST, TCL 1 lần 44/598 7,4
ST, TCL 2 lần 138/1168 11,8
ST, TCL ≥ 3 lần 67/548 12,23
Tỷ lệ đa hình của nhóm ST, TCL 1 lần so với 
nhóm ST, TCL 2 lần khác biệt có ý nghĩa thống 
kê p < 0,05. Tỷ lệ đa hình của nhóm ST, TCL 1 
lần so với nhóm ST, TCL ≥ 3 lần khác biệt có ý 
nghĩa thống kê p < 0,05.
IV. BÀN LUẬN
 Nghiên cứu trên 1157 cặp vợ chồng có tiền 
sử sảy thai và thai chết lưu có 249 trường hợp 
có tính đa hình nhiễm sắc thể, chiếm 10,8%. 
Một số nghiên cứu của các tác giả khác về 
tính đa hình NST trên các đối tượng có tiền sử 
sảy thaithai chết lưu thì tỷ lệ dao động quanh 
khoảng 9 - 10 %. Tỷ lệ gặp đa hình ở nhóm có 
bất thường sinh sản cao hơn gấp khoảng ba 
lần so với nhóm chứng. Tính đa hình nhiễm sắc 
thể có thể di truyền cho thế hệ sau qua phân 
chia tế bào, nên ở các nhiễm sắc thể thường 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202046
tỷ lệ đa hình NST sẽ là ngang nhau ở hai giới 
nam và nữ.⁵ 
Trong các dạng đa hình nhiễm sắc thể, 
dạng qh+ chiếm tỷ lệ cao nhất 67,2%. Nghiên 
cứu của Hemlata Purandare (2011)³ và của Y. 
Hong (2011)² cùng cộng sự cũng tương tự kết 
quả của chúng tôi có tỷ lệ qh+ cao nhất, tương 
ứng là 40,35% và 71,32%. Vùng dị nhiễm sắc 
như vùng q12 ở nhiễm sắc thể số 1, 9, Y; vùng 
q11.² ở nhiễm sắc thể 16 có kích thước tương 
đối lớn, nên các thay đổi ở vùng này như dài 
ngắn ở nhiều mức độ khác nhau sẽ tạo ra sự 
chênh lệch về độ dài vùng dị nhiễm sắc giữa 
hai nhiễm sắc thể tương đồng, có thể làm tăng 
nguy cơ tiếp hợp không hoàn toàn của các NST 
tương đồng tạo ra giao tử bất thường. Các 
vùng dị nhiễm sắc có kích thước lớn như thế 
cũng dễ gây nhầm lẫn chẩn đoán với đột biến 
nhân đoạn hay đột biến cấu trúc.
Đảo đoạn NST số 9 được coi là biến thể 
bình thường của NST và không liên quan đến 
bất thường ở kiểu hình, nhưng trong nhiều 
công trình công bố trước thì có nhiều quan 
điểm trái ngược nhau về vấn đề đảo đoạn 
inv(9) (p12q13) có liên quan đến khả năng sinh 
sản và vô sinh. Đảo đoạn quanh tâm NST số 9 
được coi là nguyên nhân quan trọng dẫn đến 
sự không phân chia nhiễm sắc thể, và có tác 
động đến quá trình sinh tinh trùng ở các mức 
độ khác nhau từ vô tinh đến tạo ra các biến đổi 
nặng nề về hình dạng, độ di động của tinh trùng 
và tạo giao tử bất thường trong giảm phân. 
Ngay ở dạng inv(9) cũng chia làm nhiều dạng 
như inv(9)(p12q13), inv(9)(p11q12), inv(9)
(p11q13), inv(9)(p12q12). Ở mỗi dạng tác động 
đến bất thường thai sản lại khác nhau. Dạng 
inv(9)(p11q12) và inv(9)(p11q13) một số tác giả 
cho rằng tác động đến vô sinh nam nhiều hơn 
do vùng p11 có chứa một số gen mã hóa cho 
protein liên quan đến quá trình sinh tinh. Neha 
và cộng sự nghiên cứu trên 400 đối tượng sảy 
thai, thai chết lưu phát hiện 5 trường hợp inv(9), 
trong khi đó nhóm chứng không phát hiện 
trường hợp nào.⁶
Đối với các NST nhóm D và G, tỷ lệ đa hình 
ở NST 15, 21, 22 là gặp với tỷ lệ cao hơn NST 
13, 14. Kết quả này tương tự với kết quả của 
Hemlata Purandare và cộng sự (2011) gặp chủ 
yếu ở NST 15 và 223. Trong các dạng ps+ và 
pskt+, chúng tối thấy dạng ps+ ở nhiễm sắc thể 
15 có kích thước vệ tinh rất lớn, thậm chí kích 
thước bằng với NST số 21. Vì vậy trong phân 
tích karyotype chẩn đoán trước sinh, cần thận 
trọng và đánh giá chính xác, nên kết hợp các 
xét nghiệm phân tử nhưMicroarray, QF- PCR 
và NST của bố mẹ trong trường hợp nghi ngờ 
15ps+, tránh nhầm lẫnvới chuyển đoạn hòa 
nhập tâm của nhiễm sắc thể 15 và 21.
Trong các loại NST, NST số 1 có tỷ lệ đa 
hình cao nhất 42,7%, tương tự như công bố 
của tác giả Hemlata Purandare (2012) cùng 
cộng sự. Theo sau biến đổi của NST số 1 là 
biến đổi của NST số 9, chiếm 36,1% trong 
tổng số các trường hợp có tính đa hình NST. 
Extra band ở nhiễm sắc thể số 9 là biến thể rất 
hiếm gặp, tỷ lệ 0,24% trong quần thể,⁶ được 
Dundar M. và cộng sự báo cáo 2 trường hợp 
extra band NST số 9 có sảy thailiên tiếp.⁷ Trong 
nghiên cứu này chúng tôi cũng quan sát thấy 2 
trường hợp extra band ở nhiễm sắc thể số 9 ở 
phụ nữ có sảy thaiở những tuần thai rất sớm. 
Những trường hợp này nên kết hợp thêm xét 
nghiệm nhiễm sắc thể từ rau thai sảy thaichết 
lưu để tìm mối liên quan của biển thể này với 
ST, TCL. Tỷ lệ đa hình của NST Y chiếm 5,2% 
trong tổng số các trường hợp có tính đa hình 
NST với các dạng Yqh+, Yqh- và inv(Y). Trong 
một số nghiên cứu khác như của H. Akbas 
cũng phát hiện 4 trường hợp Yqh+ trong số 442 
đối tượng ST, TCL.⁸ Nghiên cứu của Yamini 
và cộng sự năm 2012 trên 400 đối tượng ST, 
TCL cũng phát hiện một trường hợp inv(Y).⁹ Vị 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 47
trí đứt ở nhánh dài trong đảo đoạn nhiễm sắc 
thể Y gần các nhóm gen CDY, DAZ thuộc vùng 
AZFc tại vị trí Yq11.223- đây là các gen liên 
quan đến sản xuất tinh trùng ở nam giới nên 
đảo inv(Y)(p11.2q11.2) có liên quan nhiều đến 
vô sinh nam giới. Tính đa hình của NST Y biến 
thiên lớn nên dạng đa hình Yqh- dễ nhầm lẫn 
với dạng đột biến mất đoạn trên nhánh dài NST 
Y del(Yq) gây vô tinh hoặc thiểu tinh. Vì vậy, các 
trường hợp đa hình Yqh- cần làm thêm các xét 
nghiệm loại trừ del(Yq) như xét nghiệm đột biến 
vùng gen AZF.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ đa 
hình NST có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm ST, 
TCL 1 lần và ≥ 2 lần (p = 0,002). Trong một 
nghiên cứu khác của Asgari và cộng sự trên 
140 cặp vợ chồng có tiền sử ST, TCL từ hai lần 
trở lên. Nhóm ST, TCL hai lần có tỷ lệ đa hình 
là 6,15%, trong khi đó nhóm ST, TCL ≥ 3 lần thì 
tỷ lệ này là 9,3%.10 Điều này gợi ý tính đa hình 
NST có tác động đến ST, TCL.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đa hình NST ở 
các cặp vợ chồng có tiền sử ST, TCL là 10,8% 
và không có sự khác biệt theo giới. Đa hình hay 
gặp nhất là qh+, inv và hay xảy ra ở NST số 1 
và 9. Tỷ lệ đa hình NST tăng lên theo số lần 
ST, TCL, gợi ý sự tăng nguy cơ ST, TCL có liên 
quan tới tính đa hình nhiễm sắc thể. Vì vậy, lời 
khuyên di truyền sinh sản là cần thiết trong các 
trường hợp có đa hình nhiễm sắc thể.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Bộ 
môn Y Sinh học - Di truyền, Trường Đại học Y 
Hà Nội, Trung tâm Tư vấn Di truyền, Bệnh viện 
Đại học Y Hà nội và sự giúp đỡ của các Anh/Chị 
Kỹ thuật viên đã hỗ trợ thực hiện nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kosyakova N, Grigorian A, Liehr T, et 
al. Heteromorphic variants of chromosome 9. 
Mol Cytogenet. 2013; 6: 14. doi:10.1186/1755-
8166-6-14
2. Hong Y, Zhou Y-W, Tao J, Wang S-X, Zhao 
X-M. Do polymorphic variants of chromosomes 
affect the outcome of in vitro fertilization and 
embryo transfer treatment? Hum Reprod Oxf 
Engl. 2011; 26(4): 933 - 940. doi:10.1093/
humrep/deq333
3. Purandare H, Fernandes N, Deshmukh 
S, Chavan S. Heterochromatic Variations 
and Pregnancy Losses in Humans. Int J Hum 
Genet. 2011;11:167-175. doi:10.1080/0972375
7.2011.11886139
4. Gonçalves R, Santos W, Sarno 
M, Cerqueira B, Goncalves M, Costa O. 
Chromosomal abnormalities in couples with 
recurrent first trimester abortions. Rev Bras 
Ginecol E Obstetrícia Rev Fed Bras Soc Ginecol 
E Obstetrícia. 2014;36:113-117. doi:10.1590/
S0100-72032014000300004
5. Goud TM, Al Harassi SM, Al Salmani KK, 
Al Busaidy SM, Rajab A. Cytogenetic studies 
in couples with recurrent miscarriage in the 
Sultanate of Oman. Reprod Biomed Online. 
2009; 18(3): 424 - 429. doi:10.1016/S1472-
6483(10)60104-6
6. Cho EH, Kang YS, Lee EH. Extra 
G-Positive Band at Chromosome 9Q13 As 
a Recurrent Heteromorphism in a Korean 
Population. Fetal Pediatr Pathol. 2011; 30(4): 
257 - 259. doi:10.3109/15513815.2011.555811
7. Dundar M, Caglayan A, Saatci C, Batukan 
C, Basbug M, Ozkul Y. Can the classical 
euchromatic variants of 9q12/qh+ cause 
recurrent abortions? Genet Couns Geneva 
Switz. 2008; 19: 281 - 286.
8. Akbaş H, Isi H, Oral D, et al. Chromosome 
heteromorphisms are more frequent in couples 
with recurrent abortions. Genet Mol Res GMR. 
2012; 11: 3847 - 3851. doi:10.4238/2012.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202048
November.12.1
9. Pokale Y. Does a Heterochromatic Variant 
Affects the Human Reproductive Outcome?; 
2015.
10. Asgari A, Ghahremani S, Saeedi 
S, Kamrani E. The study of chromosomal 
abnormalities and heteromorphism in couples 
with 2 or 3 recurrent abortions in Shahid 
Beheshti Hospital of Hamedan. Iran J Reprod 
Med. 2013; 11(3): 201 - 208
Summary
CHROMOSOME HETEROMORPHISMS IN COUPLES WITH 
HISTORY OF MISCARRIAGES
The chromosomal heteromorphisms are easily overlooked during analysis because 
heteromorphisms variants or confusion with chromosomal mutations. This study is to determine the 
prevalence and types of chromosomal heteromorphisms in couples with history of miscarriage.The 
karyotype of 1157 couples with one or more miscarriages was detected using G-banding and analysis 
of chromosomal heteromorphism according to ISCN - 2016 standards. The heteromorphism in 
chromosome were detected in 249 cases out of 2314 individuals (10.8%) including qh+, inv, ps+, pstk+, 
qh-,cenh+, extra band, fra. The qh+ heteromorphism (67,2%) and inv(9) (17,2%) heteromorphismwere 
higher than others. There was significant difference between one time of miscarriage group compared 
with two or more times of miscarriage group (p < 0.05). The ratio of chromosomal heteromorphism 
increases with number of miscarriages. These findings suggest that chromosomal analysis 
in couples with history of miscarriages should be recommended by all practioners at all levels 
and genetic counsellors should pay attention to chromosome heteromorphism of these couples. 
Key words: Stillbirth, miscariages, chromosome heteromorphism.

File đính kèm:

  • pdftinh_da_hinh_nhiem_sac_the_o_cac_cap_vo_chong_co_tien_su_say.pdf