Tín ngưỡng thờ bà Hỏa ở Nam Bộ

1. Bà Hỏa là ai?

Trong các vị thần của văn hóa Ấn Độ, thần Lửa được coi trọng nhất. Trong ý

niệm của nhân loại, lửa có hình thức biểu hiện phong phú, có mặt trong nhiều nghi

lễ với những chức năng khác nhau. Biểu tượng lửa tẩy uế và tái sinh được sử dụng

rộng rãi cả ở phương Đông lẫn phương Tây.

Trong Kinh Dịch của Trung Quốc, lửa ứng với phương Nam, màu đỏ, mùa

hè và trái tim. Đồng thời, “Lửa tượng trưng cho nhiệt huyết, cho tinh thần, nó

cũng là Khí và quẻ Ly.”. Họ cho rằng “Những nhà luyện đan làm ra sự bất tử

bằng lửa lò của mình, thậm chí bằng lửa của lò luyện nội tâm.” và “Những

người theo Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người

phải chịu đựng.”.(1)

pdf 8 trang phuongnguyen 3140
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng thờ bà Hỏa ở Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tín ngưỡng thờ bà Hỏa ở Nam Bộ

Tín ngưỡng thờ bà Hỏa ở Nam Bộ
35Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ HỎA Ở NAM BỘ
 Nguyễn Thanh Lợi*
1. Bà Hỏa là ai?
Trong các vị thần của văn hóa Ấn Độ, thần Lửa được coi trọng nhất. Trong ý 
niệm của nhân loại, lửa có hình thức biểu hiện phong phú, có mặt trong nhiều nghi 
lễ với những chức năng khác nhau. Biểu tượng lửa tẩy uế và tái sinh được sử dụng 
rộng rãi cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Trong Kinh Dịch của Trung Quốc, lửa ứng với phương Nam, màu đỏ, mùa 
hè và trái tim. Đồng thời, “Lửa tượng trưng cho nhiệt huyết, cho tinh thần, nó 
cũng là Khí và quẻ Ly...”. Họ cho rằng “Những nhà luyện đan làm ra sự bất tử 
bằng lửa lò của mình, thậm chí bằng lửa của lò luyện nội tâm...” và “Những 
người theo Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người 
phải chịu đựng...”.(1)
Truyền thuyết phương Tây cho rằng: “Chúa Kitô và các thánh, tái sinh cơ thể 
bằng cách đi qua lửa lò của xưởng rèn”.(2)
Trong tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ cổ của Ấn Độ, “trong sạch” và “lửa” chỉ 
là một từ. Các mặt của biểu tượng lửa được thâu tóm trong giáo thuyết của đạo 
Hindu. Nó cho thấy lửa có một tầm quan trọng lớn lao, đề cập đến mọi hình thức 
biểu hiện và chức năng của lửa: tồn tại ở cả ba cõi, giữ vai trò hấp thụ và hủy diệt.
Trong kinh Vệ Đà (Rig Veda) có hơn 200 bài ca ngợi thần Lửa, thần có mặt 
khắp ba cõi, mỗi nơi có hình dạng và nhiệm vụ khác nhau: hạ giới làm trung gian 
giữa con người và thần linh, thiêu đốt các lễ vật hiến tế; ở không trung thì giúp thần 
Indra (thần Mưa làm ra sấm sét); ở trên trời thì giúp thần Mặt trời (Surya) tỏa ra sức 
nóng. Thần Agni được gọi là đấng thâm nhập khắp nơi, biết mọi việc, soi sáng tất 
cả, đốt cháy tất cả. Agni vừa hiền dịu, vừa mạnh mẽ hung dữ. Trong đám cưới, các 
đôi vợ chồng phải đi bảy vòng xung quanh đám lửa vừa đọc bảy lời thề chung thủy.
 Trong nghi lễ hỏa táng, người Ấn Độ coi lửa như một phương tiện vận 
chuyển, hay là sứ giả, từ thế giới người sống sang thế giới người chết. Trong đám 
tang thì thiêu hủy “ảo ảnh tạm thời” là cái xác khiến con người được siêu thoát. 
Agni cũng là vị thần theo dõi đạo đức của con người, tiêu diệt tội ác. Hai lễ hội 
Diwalee, Holi thường đốt lửa để trừ tà.
* Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh.
36 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Tuy nhiên, lửa cũng có mặt tiêu cực: khói của nó hun đốt hoặc làm người ta 
tối tăm, chết ngạt; lửa đốt cháy, tàn phá; lửa của những dục vọng, của sự trừng 
phạt, của chiến tranh
Tuy cùng có tính tẩy uế và tái sinh như nước nhưng lửa khác nước ở chỗ: lửa 
tượng trưng cho sự thấu hiểu, bằng ánh sáng và chân lý, đạt đến trạng thái thông 
tuệ siêu việt nhất, còn nước tượng trưng cho sự thanh tẩy dục vọng, hướng tới dạng 
thức trong sạch nhất, đó là lòng nhân từ.(3)
Hỏa thần trong văn hóa Trung Hoa là Chúc Dung, chuyên cai quản về lửa. 
“Chúc Dung ở phương Nam đầu người mình thú, cưỡi trên hai con rồng” (Sơn hải 
kinh - Hải ngoại Nam kinh). Hay “lửa gọi là Chúc Dung”. “Ngô Hồi là em của 
Chúc Dung, cũng chính là thần lửa vậy” (Quách Phác).(4)
Thần Lửa có nguồn gốc từ tôn giáo Bà La Môn (Ấn Độ), đã du nhập vào 
tín ngưỡng Trung Hoa. Thời Hán Vũ Đế, thần Lửa gắn liền với Tết Nguyên Tiêu, 
có chức năng trừ tà ma, được đồng nhất với Huê Quang Đại Đế (Tam Nhãn Linh 
Quan, Linh Quan Mã Nguyên Soái, Mã Vương Da), có 3 con mắt biểu lộ sự lợi 
hại, tính nóng như lửa, hay giết chết nhiều người. Trên tay trái vị thần này có chữ 
“Linh”, tay phải là chữ “Diệu”, gọi là “Linh Diệu Hỏa”. Để tránh hỏa hoạn, vào 
tháng 8 âm lịch, người ta đốt một tờ giấy ghi “Tống tiễn hỏa hoạn”. Bài vị thờ Huê 
Quang Đại Đế trên đề “sắc phong”, ở giữa có hàng chữ “Huê Quang Đại Đế”,(5) 
bên trái là Thiên lý nhãn tướng quân (nhìn xa muôn dặm), bên phải là Thuận phong 
nhĩ(6) (nghe xa vạn dặm).(7)
Tín ngưỡng thờ phụng Ngũ Hành là tín ngưỡng vật linh tiêu biểu ở Á Đông, 
có nguồn gốc từ Trung Hoa, xuất phát từ việc tiếp thu học thuyết Âm Dương trong 
Kinh Dịch và Ngũ Hành trong Kinh Thư, phản ánh nhận thức sơ khai của người 
Trung Hoa cổ đại. Người Việt cũng thờ thần Ngũ Hành khá sớm, biểu hiện qua 
việc thờ thần Đá, thần Cây Năm chất liệu cấu tạo nên vạn vật (Ngũ Hành) là 
Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ được phát triển theo hướng vận động Ngũ Hành tương 
sinh và Ngũ Hành tương khắc. Ở nước ta, tùy thuộc theo vùng địa lý, địa bàn cư 
trú, hoàn cảnh sống mà dân gian thờ Ngũ Hành chung hoặc thờ riêng: vùng hay 
xảy ra hỏa hoạn thì thờ hành Hỏa,(8) vùng sông nước thờ hành Thủy, cư dân trồng 
lúa thờ hành Thổ Sắc phong thường hay ghi “Hỏa Đức (hoặc Kim, Mộc, Thủy, 
Thổ) thánh nương, trứ phong Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần.”(9)
Thời Nguyễn, các vua đã ban nhiều sắc phong cho vị “Hỏa Đức” này với các 
danh hiệu, được xếp vào Trung đẳng thần, chỉ riêng ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên: Hỏa 
Đức tôn thần (Minh Mạng); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Hỏa Đức Trung đẳng 
thần (Thiệu Trị); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Lệ minh Hỏa Đức Trung đẳng thần 
(Tự Đức); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Lệ minh Linh thúy Hỏa Đức Trung đẳng 
37Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
thần (Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân); Ôn hậu Quang ứng Chương cảm Lệ minh 
Linh thúy Dực bảo Trung hưng Hỏa Đức Trung đẳng thần (Duy Tân, Khải Định).(10)
Thời đầu Nguyễn, ở Nam Bộ chưa có sắc phong cho Ngũ Hành nương nương. 
Mãi đến thời Pháp thuộc, ngày 8 tháng 7 nhuận năm Duy Tân thứ 5 (1911), miếu 
Ngũ Hành ở ấp Tân An (hộ Hòa Mỹ, nay thuộc quận 1, TP Hồ Chí Minh) mới được 
sắc phong Thượng đẳng thần.(11)
2. Tín ngưỡng thờ Bà Hỏa ở Nam Bộ
Trước khi khảo sát tín ngưỡng thờ Bà Hỏa ở Nam Bộ, ta cần lướt qua mô tả 
của L.Cadière về tục thờ Bà Hỏa ở vùng Bắc Miền Trung.
Bà Hỏa ở làng Tân Trà (An Đôn, huyện Hải Lăng, Quảng Trị) được thờ bên 
gốc cây sung khổng lồ: “Bà xuất hiện dưới dạng một tia chớp thể như một đốm đuốc 
rực lửa bay đến đậu trên cây hoặc ở gốc cây, chốc lát sau là biến mất. Dân làng lên 
xuống dòng sông đều cúng tế ở nơi này: hương đèn, giấy vàng bạc, gà vái lạy, lâm 
râm khấn nguyện, chủ yếu là xin buôn lời bán đắt, đừng bị sốt rét rừng hành hạ”.(12)
Nơi thờ Bà Hỏa ở làng Bích Khê (Bích La, huyện Triệu Phong, Quảng Trị) 
nằm bên vệ đường cái từ Quảng Trị về Cửa Việt, trong một bụi cây được gọi là 
“đền” hay “miễu”, không có mái che, do thần không cho xây am miễu. Bệ thờ là 
một cái ngai bằng vôi gạch, có lưng tựa và tay dựa, màu sắc sặc sỡ. Hai tay dựa 
là hai con cù, một loại rồng nước. Trước ngai là tấm bình phong có chạm trổ. Bà 
thường tọa ở đó và xuất hiện dưới dạng một bó đuốc sáng ngời vào ban đêm.(13)
Am Bà Hỏa ở làng Phước Thị (An Xá, huyện Do Linh, Quảng Trị) nằm dưới 
một cây da to tướng.(14) Hay am Bà Hỏa ở chợ An Cựu (làng An Cựu, huyện Hương 
Thủy, Thừa Thiên) được thờ dưới cây bồ đề.(15)
Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có ghi chép về tục thờ Bà 
Hỏa ở đất Nam Bộ: “Ở phía trái chợ Điều Khiển, thờ nữ thần Hỏa Tinh (Bà Hỏa). 
Vì nước Nam thuộc quẻ Ly, mà Ly thuộc hỏa, quẻ Ly ở giữa trống không là âm, 
đã âm mà ở giữa là nữ, nên thần thuộc về nữ giới. Miếu này rất trang nghiêm và 
hằng linh ứng, người ở đây cứ đến đầu xuân, trước hết phải đem lễ đến tế, để mong 
tránh điều chẳng lành, thì cả năm được yên nếu chậm trễ hay xem thường, thì liền 
có hỏa tai”.(16)
Sách cũng cho biết tập tục này đã có ở Nam Bộ ít nhất từ đầu thế kỷ 20 và 
miếu thờ Bà Hỏa thường tọa lạc ở gần chợ, liên quan đến tín ngưỡng của những 
người mua bán.
Các miếu thờ Bà Hỏa ở Nam Bộ khá hiếm hoi, trong những năm qua chúng 
tôi đã khảo sát được 4 miếu thờ Bà Hỏa ở các tỉnh: Bình Dương, Tiền Giang, Cà 
Mau, Kiên Giang.
38 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Ở Nam Bộ, Hỏa Tinh Thượng Động 
còn gọi là Bà Hỏa. Cạnh miếu Ngũ 
Hành (gần chùa Pháp Hội, số 97/2, 
đường Phạm Phú Thứ, phường 3, quận 
6, TP Hồ Chí Minh), có ngôi miếu nhỏ 
thờ Hỏa Tinh Thần Nữ. Nơi này trước 
đây đã có một vụ hỏa hoạn rất khủng 
khiếp xảy ra.(17)
Tại ấp 2 (xã Hiệp An, TP Thủ Dầu 
Một, tỉnh Bình Dương) có miễu Hỏa 
Tinh Thần Nữ, bài vị ghi “Hỏa Tinh 
Thần Nữ” và một tượng bà mặc áo đỏ. 
Phía trước có miếu thờ Sơn Quân và miếu Thổ Thần. Ngoài ra còn có nhà bếp, nhà 
vệ sinh trong khuôn viên của miếu. Miếu xây năm 1931, đến năm 2002 được dân 
chúng địa phương góp tiền xây lại. Người dân địa phương cũng cho biết, ở đây hay 
xảy ra hỏa hoạn, nên dân chúng lập miễu thờ.
Miếu Hỏa Đức Tinh Quân (xã Vĩnh Kim, 
huyện Châu Thành, Tiền Giang) thờ Hỏa 
Đức Tinh Quân (Bà Hỏa), Bà Chúa Xứ, 
Thiên Hậu Thánh Mẫu, Tiền hiền, Quan 
Thế Âm, Bà Thủy, Thành Hoàng bổn 
cảnh. Năm 1962, ngôi miếu này của 
cộng đồng người Hoa bị sụp, nên một số 
ít người Hoa còn sinh sống trong vùng 
đã thỉnh 7 cốt tượng vào thờ gồm: Thiên 
Hậu cùng 2 người hầu và 4 tiên nữ, nên 
miếu còn được gọi là “Thất Tinh Thánh 
Mẫu”. Miếu có 2 lệ cúng hàng năm vào 
16/4 và 16/10 âm lịch, có sự tham gia 
của ni sư một ngôi chùa ở địa phương, lễ sinh của thánh thất Vĩnh Kim, và các đình 
miễu khác trong vùng. Đặc biệt có nghi thức múa bóng rỗi. Xã Vĩnh Kim xưa nổi 
tiếng với nghề rèn nông cụ, sản phẩm bán khắp các tỉnh Tây Nam Bộ.(18)
Miếu Hỏa Đức Tự tọa lạc ở số 8 đường Nguyễn Đình Chiểu, khóm 1, phường 
4, thành phố Sóc Trăng; dân địa phương thường gọi là miếu Bà Hỏa.(19) Phía trước 
miếu có 2 ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà và Thổ Thần. Bên trong chánh điện, gian bên 
trái thờ tượng Ông Hổ, gian kế tiếp thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; gian bên phải thờ 
tượng rồng, Phật Bà Quan Âm, Phật Di Lặc. Gian chính thờ Hỏa Đức Thánh Mẫu, 
Tiên đồng, Ngọc nữ, hai bên tả hữu thờ Quan Thánh, Thiên Hậu.
Miễu Hỏa Tinh Thần Nữ (Thủ Dầu Một). 
Ảnh: Nguyễn Thanh Lợi
Miếu Hỏa Đức Tinh Quân (xã Vĩnh Kim, 
huyện Châu Thành, Tiền Giang)
39Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Ngày vía Hỏa Đức Thánh Mẫu là 24/3 âm lịch, ngày vía bà Thiên Hậu là 
ngày 23/3 âm lịch, nên hai bà này là “chị em ruột với nhau”. Đây là thời gian cao 
điểm mùa khô ở Nam Bộ, hỏa hoạn dễ xảy ra. Cả người Hoa và người Việt đều 
tham gia cúng ở miếu.(20)
Theo tác giả bài viết trên, thì Hỏa Đức Thánh Mẫu là sự “nâng cấp” từ nữ 
thần (Hỏa Đức Nương Nương) lên mẫu (Hỏa Đức Thánh Mẫu), và đây là một 
trường hợp riêng lẻ.(21)
Phía sau chùa Sùng Hưng (thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, Kiên 
Giang) có ngôi miếu thờ Bà Hỏa. Trên bàn thờ là một tượng Bà Hỏa mặc trang 
phục đỏ, có 2 người hầu cầm quạt đứng hai bên, trước đó có 1 tượng nữ mặc áo 
màu vàng, một bức tranh Ông Hổ. Tấm liễn phía trên chánh điện ghi dòng chữ 
“Hỏa Thần Thánh Mẫu Miếu”, nhưng bức trướng bên dưới lại ghi “Hỏa Đức 
Nương Nương”. Trong miếu còn có các bàn thờ Ngũ Công Vương Phật, Quan 
Công, Cậu Tài, Cậu Quý. Bức vách bên ngoài miếu là bàn thờ Sơn Thần.
Thiên Hậu Cung ở thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, Cà Mau) có 
miếu Hỏa Đức thờ “Hỏa Đức Nương Nương”.(22) Bàn thờ chỉ có duy nhất tượng bà 
màu đỏ, người đeo nhiều chuỗi hạt. Trong miếu có bộ áo màu đỏ của bà, bình hồ 
lô cũng màu đỏ.
3. Vài nhận xét
Tục thờ lửa có trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam nó chịu ảnh 
hưởng từ tín ngưỡng thờ Ngũ Hành, có nguồn gốc từ Trung Hoa. Người Việt đã 
dân gian hóa tín ngưỡng thờ Ngũ Hành, tách nó ra thành những yếu tố riêng biệt 
như Thủy, Hỏa, Mộc trong những điều kiện văn hóa riêng biệt để thực hành tín 
ngưỡng này. 
Bàn thờ Hỏa Đức Nương Nương (chùa Sùng 
Hưng, Phú Quốc). Ảnh: Nguyễn Thanh Lợi
Miếu Hỏa Đức Nương Nương (Thiên Hậu 
Cung, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, 
Cà Mau). Ảnh Nguyễn Thanh Lợi.
40 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Ở Nam Bộ, tín ngưỡng thờ Bà Hỏa khá hiếm hoi trong cộng đồng người Việt, 
chủ yếu ở người Hoa như trường hợp thờ Huê Quang Đại Đế, vị thần của lò gốm, 
coi sóc củi lửa, thờ nhiều ở Biên Hòa, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Tân Uyên (của 
người Hoa), và tín ngưỡng của tổ nghề rèn như ở miếu Hỏa Đức Tinh Quân ở Vĩnh 
Kim (của người Việt).
Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Bà Hỏa cũng có sự tiếp biến văn hóa từ thần lửa 
Agni của Bà La Môn giáo, để biến thành Huê Quang Đại Đế. Hoặc có giao lưu 
văn hóa tín ngưỡng Việt-Hoa (miếu Hỏa Đức Tinh Quân ở Vĩnh Kim), Việt-Hoa-
Khmer (Hỏa Đức Tự ở Sóc Trăng).
 N T L 
CHÚ THÍCH
(1) Jean Chevalier và Alain Gheerbrat (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh 
Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ 
dịch, Nxb Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du, tr.5.
(2) Jean Chevalier và Alain Gheerbrat (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, sđd, tr. 545, 
162.
(3) 
do-thu-ha-buoc-dau-tim-hieu-bieu-tuong-lua-trong-van-hoa-an-do.html.
(4) Lao Tử, Thịnh Lệ (chủ biên) (2001), Từ điển bách khoa Nho - Phật - Lão, Nxb Văn học, Hà 
Nội, tr.514.
(5) Xem thêm Nguyễn Bình Phương Thảo, Nguyễn Thanh Lợi (2016), Tín ngưỡng dân gian Phú 
Quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.100-102.
(6) Giống 2 thuộc tướng của Bà Thiên Hậu trong tín ngưỡng của người Hoa.
(7) Võ Thanh Bằng (2005), Tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở Nam Bộ, Luận án Tiến sĩ Sử 
học, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, TP Hồ Chí Minh, tr.52-53.
(8) Bà Hỏa được tách riêng ra khỏi hệ thống Ngũ Hành để thờ riêng, như miếu Bà Hỏa của 
làng biển Phú Lộc (Thừa Thiên Huế) và làng biển Nam Ô (Đà Nẵng) (Nguyễn Xuân Hương 
(2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam Đà Nẵng, Nxb Từ điển bách khoa & Viện 
Văn hóa, Hà Nội, tr.117).
(9) Huỳnh Đình Kết (1998), Tục thờ thần ở Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.28-29.
(10) Cụ thể là: Hỏa Đức tôn thần (Minh Mạng thứ 21, 18/11/1840, làng Uất Mậu, huyện Quảng 
Điền); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Hỏa Đức Trung đẳng thần (Thiệu Trị thứ 5, 23/1/1846 
làng An Thành, huyện Quảng Điền); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Lệ minh Hỏa Đức 
Trung đẳng thần (Tự Đức thứ 3, 11/9/1850, làng An Truyền, huyện Phú Vang; Tự Đức 
thứ 3, 11/9/1850, làng Uất Mậu, huyện Quảng Điền; Tự Đức thứ 3, 11/9/1850, làng An 
Thành, huyện Quảng Điền); Ôn hậu Quang ứng Chiêu cảm Lệ minh Linh thúy Hỏa Đức 
Trung đẳng thần (Tự Đức thứ 33, 25/12/1880, làng An Truyền, huyện Phú Vang, phủ Thừa 
Thiên; Tự Đức thứ 33, 25/12/1880, làng Đốc Sơ, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên; Tự 
Đức thứ 33, 25/12/1880, làng An Thành, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên; Đồng Khánh 
thứ 2, 19/8/1887, làng An Truyền, huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên; Đồng Khánh thứ 2, 
41Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
19/8/1887, làng Đốc Sơ, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên; Đồng Khánh thứ 2, 19/8/1887, 
làng Uất Mậu, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên; Đồng Khánh thứ 2, 19/8/1887, làng An 
Thành, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên; Duy Tân thứ 3, 24/9/1909, làng Đốc Sơ, huyện 
Hương Trà, phủ Thừa Thiên; Ôn hậu Quang ứng Chương cảm Lệ minh Linh thúy Dực bảo 
Trung hưng Hỏa Đức Trung đẳng thần (Duy Tân thứ 3, 24/9/1909, làng Uất Mậu, huyện 
Quảng Điền, phủ Thừa Thiên; Duy Tân thứ 3, 24/9/1909, làng An Thành, huyện Quảng 
Điền, phủ Thừa Thiên; Khải Định thứ 9, 25/8/1924, làng An Truyền, tổng Quảng Xuyên, 
huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên). Theo Phan Thanh Hải, Lê Thị Toán (chủ biên) (2014), 
Sắc phong triều Nguyễn trên địa bản Thừa Thiên Huế, Tập 1, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố 
đô Huế - Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.49, 122, 140, 163, 166, 197, 202, 207, 209, 234, 252, 253, 
334, 337, 340, 409.
(11) Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại 
học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.71.
(12) Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập II, Đỗ 
Trinh Huệ dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.24-25.
(13) Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập II, sđd, tr.26.
(14) Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập II, sđd, tr.27.
(15) Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập II, sđd, tr.27.
(16) Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng 
Nai, tr.222.
(17) Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh, sđd, tr.80.
(18) Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (chủ biên) (2014), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở 
Nam Bộ bản sắc và giá trị, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.570-575.
(19) Nguyễn Hữu Hiếu trong sách Tục thờ thần qua am miếu Nam Bộ (Nxb Đại học Quốc gia Hà 
Nội, tr.2015, tr.193) đã nhầm lẫn khi cho rằng ngôi miếu này chính là miếu được Trịnh Hoài 
Đức đề cập đến trong Gia Định thành thông chí. Thực ra miếu thờ nữ thần Hỏa Tinh ở gần chợ 
Điều Khiển (nay vị trí ở gần chợ Thái Bình, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP Hồ Chí Minh).
(20) Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (chủ biên) (2014), sđd, tr.628-629, 631, 632.
(21) Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (chủ biên) (2014), sđd, tr.629 - 631.
(22) Bà Hỏa còn được thờ trong Tam Vị cổ miếu (khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, 
Cà Mau) (Trịnh Xuân Tuyết (2015), Tín ngưỡng Thiên Hậu ở Cà Mau, Luận văn ngành Văn 
hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh, tr.66).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. J.G. Frazer (2000), Các huyền thoại về nguồn gốc của lửa, Ngô Bằng Lâm dịch, Nxb Văn 
hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
2. Jean Chevalier và Alain Gheerbrat (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh 
Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ 
dịch, Nxb Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du.
3. Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại 
học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
4. Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập II, Đỗ 
Trinh Huệ dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.
42 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
5. Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (chủ biên) (2014), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở 
Nam Bộ bản sắc và giá trị, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
TÓM TẮT
Ảnh hưởng từ tín ngưỡng thờ Ngũ Hành của Trung Hoa, người Việt đã dân gian hóa tín 
ngưỡng thờ Ngũ Hành, tách nó ra thành những yếu tố riêng biệt như Thủy, Hỏa, Mộc trong 
những điều kiện văn hóa riêng biệt để thực hành tín ngưỡng này. 
Ở Nam Bộ, tín ngưỡng thờ Bà Hỏa khá hiếm hoi trong cộng đồng người Việt, chủ yếu ở 
người Hoa như trường hợp thờ Huê Quang Đại Đế, vị thần của lò gốm. Tín ngưỡng thờ Bà Hỏa 
cũng có sự tiếp biến văn hóa từ thần lửa Agni của Bà La Môn giáo, để biến thành Huê Quang 
Đại Đế. Hoặc có giao lưu văn hóa tín ngưỡng Việt-Hoa (miếu Hỏa Đức Tinh Quân ở Vĩnh Kim), 
Việt-Hoa-Khmer (Hỏa Đức Tự ở Sóc Trăng).
ABSTRACT
THE BELIEF OF WORSHIPPING GODDESS OF FIRE IN THE SOUTH
Influenced by the beliefs of the five basic elements of China, the Vietnamese popularized 
this religion, separating it into distinct elements such as Water, Fire, Wood... in separate cultural 
conditions to practice this faith.
In the South, the worship of Goddess of Fire is quite rare in the Vietnamese community, 
mainly the Chinese worship the Great God of Light (Huệ Quang Đại Đế), the god of pottery kiln. 
Faith in the worship of the goddess also has the cultural adaptation of the Agni (god of fire) of 
Brahmanism, which turned into the Great God of Light. There was a cultural exchange of beliefs: 
Vietnamese-Chinese (Hỏa Đức Tinh Quân Temple in Vinh Kim), Vietnamese-Chinese-Khmer 
(Hỏa Đức Temple in Sóc Trăng).

File đính kèm:

  • pdftin_nguong_tho_ba_hoa_o_nam_bo.pdf