Tìm hiểu nguồn gốc hát ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca”

Bằng việc phối hợp các điểm nhìn từ ngôn ngữ - lịch sử - văn hóa để xem xét mối quan hệ giữa “Việt

ca” và hát Ví của người dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, chúng tôi nhận thấy một số điểm

tương đồng về cách thực hành, lối đặt lời hát, cách biểu hiện cảm xúc của người hát giữa hai di sản

này. Qua đó có thể thấy “Việt ca” và hát Ví có cùng nguồn gốc. Điều này góp phần khẳng định được

lịch sử lâu dài của hát Ví – có thể nói – từ khi người Nghệ biết ngân nga để tạo thành câu hát, biết đặt

lời thơ để thể hiện cảm xúc thì đã có Ví rồi.

pdf 8 trang phuongnguyen 20
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu nguồn gốc hát ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu nguồn gốc hát ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca”

Tìm hiểu nguồn gốc hát ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca”
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) 
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:  
43 
TÌM HIỂU NGUỒN GỐC HÁT VÍ CỦA XỨ NGHỆ 
XÉT TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI “VIỆT CA” 
Tracing the origin of singing Ví in Nghệ region in relation to “Việt ca” 
TS. Trần Thị Lam Thủy 
Trường Đại học Sài Gòn 
TÓM TẮT 
Bằng việc phối hợp các điểm nhìn từ ngôn ngữ - lịch sử - văn hóa để xem xét mối quan hệ giữa “Việt 
ca” và hát Ví của người dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, chúng tôi nhận thấy một số điểm 
tương đồng về cách thực hành, lối đặt lời hát, cách biểu hiện cảm xúc của người hát giữa hai di sản 
này. Qua đó có thể thấy “Việt ca” và hát Ví có cùng nguồn gốc. Điều này góp phần khẳng định được 
lịch sử lâu dài của hát Ví – có thể nói – từ khi người Nghệ biết ngân nga để tạo thành câu hát, biết đặt 
lời thơ để thể hiện cảm xúc thì đã có Ví rồi. 
Từ khóa: hát Ví, mối quan hệ giữa “Việt ca” và hát Ví, nguồn gốc “Việt ca” 
ABSTRACT 
By combining different perspectives of language - history - culture to examine the relationship between 
“Việt ca” and singing Ví of people in Nghệ An and Hà Tĩnh provinces today, we found some 
similarities in the way of practicing, of composing lyrics and of expressing singers’ emotions... between 
these two legacies. We believe that “Việt ca” and singing Ví have the same origin, which contributes to 
affirming the long history of singing Ví since Nghệ An people knew how to hum to form a song, how to 
compose poems to express emotions. 
Keywords: singing Ví, relation between “Việt ca” and singing Ví, origin of “Việt ca” 
1. Đặt vấn đề 
Cho đến bây giờ, chưa ai có thể trả lời 
chính xác được là hát Ví có từ bao giờ? Ai 
là người đầu tiên đã cất lên câu hát? Có lẽ 
những câu hỏi như vậy đã đi vào vùng mờ 
của lịch sử mà mãi mãi không thể tìm được 
câu trả lời. Các tài liệu ghi chép còn đến 
ngày nay liên quan đến Ví, Giặm chỉ phản 
ánh được từ thế kỉ XVIII với những cuộc 
hát và những tác phẩm liên quan đến hát Ví 
của các nhà trí thức như Đại thi hào 
Nguyễn Du, Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh, 
Tiến sĩ Nguyễn Huy Tự.v.v. Nhưng đó là 
những cuộc hát đối đáp. Và thời điểm ấy 
đã là thời cực thịnh của các phường hát Ví. 
Văn hóa là một quá trình tích tụ và lan 
tỏa – chính vì vậy – để hình thành được 
những cuộc hát có đầy đủ thủ tục nghiêm 
ngặt, đạt đến trình độ cao, có thể thu hút 
được giới trí thức trong xã hội như ví 
phường vải thuở ấy, thì trước đó, các thể 
hát này phải hình thành và hoàn thiện từ rất 
lâu rồi. Tìm về xa hơn nữa trong lịch sử 
văn hóa của người Việt, hình thức ca hát 
Email: ttlthuy@sgu.edu.vn 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
44 
dân gian đã có từ thời Hùng Vương. Theo 
Lịch sử Việt Nam, tập 1, từ đời Tần (năm 
265 – 120 TCN), trong cuốn Giao Châu 
Ký, tác giả Lưu Hán đã ghi rằng, ở nông 
thôn Giao Châu thời bấy giờ, “trẻ mục 
đồng cưỡi trâu, thổi sáo và hát các bài 
đồng dao của người Việt” (tr. 104); còn tác 
giả Lưu Hướng trong Thuyết uyển (năm 16 
- TCN) đã ghi lại một bài ca của người 
Việt hát trong lúc chèo đò và gọi đó là Việt 
ca (Lê Huy Chú, 1991). Như vậy, cùng 
xuất phát từ hình thức ca hát dân gian, Việt 
ca và hát Ví rất có thể có những điểm 
chung, góp phần giúp chúng ta tìm thấy 
dấu vết nguồn gốc của hát Ví. 
2. Về nguồn gốc của Việt ca 
Chuyện kể rằng, Ngạc Vương Tử Tích 
(thế kỉ VI - TCN), là một Vương tử và là 
Lệnh quân vùng Ngạc Ấp (nước Sở). Một 
lần, Vương gia cùng đoàn tùy tùng đi du 
ngoạn Phán Hồ để thăm thú lãnh địa của 
mình trên một con thuyền to, do một người 
Việt cầm chèo. Hồ rộng, phong cảnh trời 
nước hữu tình, tràn ngập sắc xuân. Cảnh 
thiên nhiên nên thơ cộng với niềm hãnh 
diện được gặp mặt Ngạc Vương, người lái 
đò bất chợt cảm xúc dâng trào, vừa nhịp 
tay chèo vừa cất cao giọng hát. Giai điệu 
khúc ca du dương, thánh thót khiến Ngạc 
Vương vô cùng xúc động. Ngài liền cho 
gọi người chèo thuyền đến trước mặt, 
không chút do dự “xắn ống tay áo, ôm 
chầm lấy người Việt chèo thuyền”, còn 
“lấy một chiếc áo gấm quấn quanh eo” 
nhằm bày tỏ lòng biết ơn người hát. Ngay 
sau đó, ngài liền hạ lệnh cho tùy tùng ghi 
lại bài hát và lưu lại trong dân với tên gọi 
là Việt ca (có tài liệu chép là Việt nhân ca). 
Một tác phẩm hay như thế, có thể xúc động 
bậc quân vương như thế, hẳn phải được 
mọi người gìn giữ và truyền lại cho hậu thế 
(theo Nguyễn Ngọc Thơ, 2008). 
Về nguồn gốc của Việt ca, đến nay đã 
có rất nhiều ý kiến tranh luận khá phức tạp. 
Điểm lại, có thể thấy các bàn luận chủ yếu 
xoay xung quanh hai hướng chính: hướng 
thứ nhất, cho rằng đây là dân ca phương 
Nam, độc lập hoàn toàn với với văn hóa 
Hoa Hạ; hướng thứ hai, khẳng định đây là 
bài dân ca hát theo phương ngữ Hán. 
Theo tổng hợp của Nguyễn Ngọc Thơ 
(2008), khuynh hướng thứ nhất được các 
nhà nghiên cứu tham gia khảo cứu về Việt 
ca ủng hộ hơn cả. Một trong số những 
người tiên phong bàn về Việt ca là Quách 
Mạt Nhược (郭沫若) (1892 – 1978). Ông 
cho rằng đây là bài hát của người Việt 
phương Nam được dịch lại bằng tiếng Sở 
và lưu lại trong dân gian. Ông cũng nhấn 
mạnh rằng, tiếng Việt cổ dùng trong bài hát 
này hoàn toàn khác biệt với tiếng Sở và 
tiếng Hán cổ. Kế đến là một số tác giả 
người Nhật, trong đó, tiêu biểu là Izui 
Hisanosuke (泉井久之助, 1905-1983) 
cũng khẳng định đây là bài dân ca có xuất 
xứ từ Đông Nam Á cổ. Kế đến nữa là tác 
giả Trung Quốc Vi Khánh Ẩn (韦庆隐) 
[1981], qua các nghiên cứu đã khẳng định 
Việt ca là ca dao Việt thuộc nhánh ngôn 
ngữ Choang - Đồng phương Nam và xếp 
vào nhóm ngôn ngữ Austro-Tai. Đến cuối 
thập niên 1980, trên cơ sở khảo sát của 
Quách Mạt Nhược và Vi Khánh Ẩn, nhiều 
tác giả người các dân tộc thiểu số Choang, 
Đồng bắt đầu tiến hành so sánh ngữ âm, 
ngữ nghĩa giữa bài Việt ca do Lưu Hướng 
thời Tây Hán ghi lại với ngôn ngữ dân tộc 
mình và các dị bản của Việt ca tồn tại trong 
văn hóa dân gian. Họ đi tới kết luận: bài 
hát Việt ca có nguồn gốc phương Nam và 
là ca dao của cư dân Bách Việt cổ. Tiêu 
biểu là công trình nghiên cứu của tác giả 
Lâm Hà (林河) [1985: 103-111], Trương 
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
45 
Dân (张民) [www.okwang.cn] dịch đối 
chiếu với ngôn ngữ dân tộc Đồng; Bạch 
Diệu Thiên (白耀天) [www.okwang.cn], 
Đàm Bình (谭平) [1990: 82-86] cùng một 
số học giả người dân tộc thiểu số khác dịch 
đối chiếu với ngôn ngữ dân tộc Choang. 
Cũng tại thời điểm này, còn có các tranh 
luận của các tác giả Kutsuki Jiro 
(朽本次郎) - nhà nghiên cứu người Nhật, 
Đặng Mẫn Văn (邓敏文) - tác giả Trung 
Quốc, tác giả Trịnh Trương Thượng 
Phương (郑张尚芳) của Thái Lan; tác giả 
Anne Birrell của Đại học Cambridge. Cụ 
thể hơn, các tác giả sau này không chỉ xác 
định đây là bài dân ca của phương Nam mà 
còn có nhiều người đi tới kết luận bài Việt 
ca là bài hát của tổ tiên các dân tộc Choang, 
Đồng, Thủy, Mao Nam thuộc nhóm 
Bách Việt cổ (Nguyễn Ngọc Thơ, 2008). 
Ở khuynh hướng thứ hai chỉ có tác giả 
Trần Luân (陈抡) [1987: 67-91], phủ nhận 
ý kiến của Quách Mạt Nhược và các tác giả 
trước ông bằng cách dùng phương pháp so 
sánh lịch sử đi tìm quy luật và lịch sử diễn 
biến ngữ âm tiếng Hán, đối chiếu với bài 
Việt ca do Lưu Hướng ghi và kết luận rằng 
tiếng Việt cổ chỉ là một phương ngữ của 
gia đình tiếng Hán. Tuy nhiên, sau khi 
công trình của Trần Luân được công bố đã 
có hàng loạt công trình nghiên cứu phủ 
định hoàn toàn kết quả này (Nguyễn Ngọc 
Thơ, 2008). 
Qua tổng hợp các ý kiến đã bàn luận 
về nguồn gốc của Việt ca, chúng tôi nhận 
thấy có một điểm chung đặc biệt, đó là các 
tác giả đều dựa vào lịch sử ngôn ngữ để 
truy nguyên nguồn gốc của Việt ca. Đây là 
một trong những phương pháp khả thi và 
giàu tính thuyết phục. Bởi lẽ ngôn ngữ là 
phương tiện để lưu giữ lịch sử, văn hóa. 
Trong một chừng mực nhất định nào đó, 
ngôn ngữ làm nên văn hóa dân tộc. Bởi 
vậy, có thể nói việc khẳng định Việt ca là 
dân ca của dân tộc Bách Việt cổ là một kết 
luận có cơ sở khoa học và độ chính xác 
cao. 
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, 
Việt ca là một bài dân ca - là một loại hình 
văn hóa dân gian đặc trưng. Bên cạnh yếu 
tố ngôn ngữ, nó còn có giai điệu, cách biểu 
hiện, cách thực hành của loại hình văn hóa 
này. Đây là điểm mà các tác giả từ trước 
tới nay chưa chú ý đến. Thực tế, đây cũng 
là con đường hết sức “chông gai” bởi tất cả 
đã chìm vào đêm dài của lịch sử. Những gì 
còn lưu lại được của Việt ca đến hôm nay 
chỉ còn trên ngôn ngữ. 
Với mong muốn đến gần hơn nữa 
nguồn gốc của Việt ca, chúng tôi cố gắng 
tìm một hướng lí giải mới cho nguồn gốc 
của bài hát này từ phương diện văn hóa với 
tư cách là một thể loại dân ca. Bởi thực tế, 
dân ca là một bộ phận của văn hóa dân 
gian. Trong quá trình phát triển, văn hóa tự 
hình thành một dòng chảy mà trong đó tạo 
nên những đặc điểm đặc trưng, bản sắc và 
định hình những giá trị riêng biệt. Trên 
hành trình đó, dù có sự tiếp nhận những 
đặc điểm mới thì văn hóa vẫn sẽ luôn lưu 
giữ được những đặc điểm riêng tiêu biểu. 
Dù cho lịch sử có đổi dòng thì văn hóa vẫn 
sẽ luôn có những dấu vết nguyên thủy, cổ 
xưa nhất của nó – miễn sao đó là những 
dấu vết có giá trị và làm nên bản sắc riêng. 
Bởi vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, một sản 
phẩm có giá trị văn hóa cao sẽ luôn được 
gìn giữ và trao truyền. Ngược lại, nếu 
không có giá trị, tất yếu nó sẽ phải bị diệt 
vong. Chính vì vậy, nếu tìm kiếm trong 
dân ca hôm nay, chúng ta có thể sẽ tìm 
được những dấu vết nguồn gốc của Việt ca 
xưa kia, khi nó đích thực là một sản phẩm 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
46 
văn hóa có giá trị đối với cộng đồng sáng 
tạo ra nó. 
Với Việt ca, chúng ta có thể khẳng 
định rằng đây là một tác phẩm có giá trị 
bởi mấy lí do sau: 
Thứ nhất, ngay tại thời điểm ra đời, nó 
đã là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đến 
mức có thể làm xúc động một bậc quân 
vương – người mà chắc chắn đã được 
thưởng thức mọi tinh hoa nghệ thuật của 
thời đó. Để vị Ngạc Vương có những hành 
động “ôm chầm lấy”, “quàng chiếc áo gấm 
quanh eo’’ cho người chèo đò để tỏ lòng 
cảm tạ quả là xưa nay hiếm. Đồng thời, với 
giá trị nhất thời đó, nó được ghi chép lại, đi 
vào sử sách của Trung Hoa và tồn tại cho 
mãi đến ngày nay. 
Thứ hai, trong suốt quá trình tồn tại từ 
đó đến nay, Việt ca không bị lãng quên mà 
ngược lại vẫn được sử dụng và tạo nên 
những “đợt sóng” kiếm tìm nguồn gốc – 
như chúng tôi đã trình bày ở trên – chứng 
tỏ – đây là một trường hợp đặc biệt trong 
văn hóa của các dân tộc phương Đông. 
Thứ ba, cho đến nay, người Trung 
Quốc vẫn gìn giữ và sử dụng nó. Bằng 
chứng là năm 2006, nó đã được dùng làm 
ca khúc chính trong bộ phim Dạ Yến (The 
Banquet) 
(https://www.youtube.com/watch?v=SXtA
N21aMps) của đạo diễn Phùng Tiểu Cương 
(sản xuất tại Trung Quốc). Mặc dù tiết tấu 
bài hát, giọng hát, cách phục trang của ca 
sĩ đã hoàn toàn xây dựng theo kiểu Hán 
hóa song ca từ bản tiếng Hán của Lưu 
Hướng vẫn được giữ nguyên. 
Như vậy, Việt ca vẫn được người 
Trung Hoa lưu giữ và sử dụng. Chính nó, 
chứ không một tác phẩm nào khác đã buộc 
người Trung Hoa phải thừa nhận giá trị của 
văn hóa phương Nam. Dù với hình thức 
nào thì người Trung Quốc đã lưu giữ và sử 
dụng Việt ca như là một tác phẩm độc đáo 
trong nền văn hóa của họ. 
Với những cơ sở đó, việc tìm kiếm 
những đặc điểm lịch sử dựa trên những yếu 
tố hiện đại đang tồn tại là điều hoàn toàn 
có thể thực hiện được. 
Trở lại với ca từ của Việt ca, để có cơ 
sở phân tích, chúng tôi xin dẫn ra đây một 
số bản dịch của các nhà nghiên cứu từ 
trước đến nay. 
Lời Hán văn: 
“ 今夕何夕兮搴舟中流 
今日何日兮得與王子同舟 
蒙羞被好兮不訾詬恥 
心兒頑而不絕兮得知王子 
山有木兮木有枝 
心悅君兮君不知” 
Phiên âm: 
“Kim tịch hà tịch hề khiên chu trung 
lưu 
Kim nhật hà nhật hề đắc dữ Vương tử 
đồng chu 
Mông tu bị hiếu hề bất tử cấu sỉ 
Tâm nhi ngoan nhi bất tuyệt hề đắc tri 
Vương tử 
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi 
Tâm duyệt quân hề quân bất tri.” 
Lời Việt (tạm dịch): 
“Chẳng biết hôm nay lễ lạt gì, 
Việt nhân tôi lướt sóng chu du cùng 
Vương Tử 
Phận thấp hèn, tôi nào đâu mơ ước 
Tiếp Vương gia, tâm can tôi vui sướng 
vô ngần 
Núi có rừng và cây kia có nhánh 
Vương Tử người có thấu nỗi lòng tôi!” 
(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008) 
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
47 
Bản dịch của tác giả Izui Hisanosuke có 
nội dung hết sức ngợi ca vị Vương Tử: 
“Cầu thọ cho ngài, ngài Vương Tử; 
Chúc phúc ngài, vị Vương gia vĩ đại! 
Bề tôi hân hạnh gặp ngài; 
Vị Vương tử chính nghĩa, vị Vương tử 
tôn kính. 
Tôi thật hạnh phúc; 
Nguyện một lòng phục tùng ngài. 
Hãy làm cho bá tánh sung túc thịnh vượng; 
Từ trước đến nay tôi vẫn một lòng tôn 
kính ngài.” 
(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008) 
Bản dịch của tác giả Vi Khánh Ẩn: 
“Đêm nay là đêm gì? 
 Người ngồi giữa thuyền là ai? 
À, là Vương phủ đại nhân đến ấy mà 
Vương Tử triệu kiến tôi đến ca hát để 
thưởng thức, làm tôi vô cùng cảm kích 
Đến ngày nào Vương Tử lại cùng tôi 
du ngoạn? 
Tâm can tôi cảm thụ ơn người.” 
 (Nguyễn Ngọc Thơ, 2008) 
Bản dịch của Lâm Hà: 
“Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ? 
Thuyền xuân đón khách, khách là ai? 
Hóa ra thuyền khách là người - Vương 
Tử! 
Triệu kiến người trên chiếc thuyền xuân, 
Việt nhân tôi – lòng cảm tạ vô ngần, 
Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ? 
Vương Tử cùng lướt sóng ngao du 
Tâm can tôi hớn hở vô cùng.” 
Còn đây là nội dung bài Việt ca dịch theo 
tiếng Choang của Bạch Diệu Thiên: 
“Nào biết đêm nay lễ lạt gì 
Giữa dòng sông rộng, tôi chèo thuyền 
cho Vương tử. 
Ôi vui thay, khóe mắt sáng ngời, 
E thẹn chứ, nhưng nào giấu được niềm 
vui. 
Bấy lâu nay tôi luôn quý mến ngài, 
Ngọn núi kia đầy rừng cây che phủ, 
Vương Tử người có hiểu tấm lòng tôi?” 
(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008) 
Còn bản dịch của tác giả Anne Birrell (Đại 
học Cambridge) tạm dịch lại tiếng Việt như 
sau: 
“Hôm nay là ngày gì? 
Tôi buông nhịp chèo thuyền ra giữa dòng 
Hôm nay là ngày gì? 
Thuyền tôi chào đón vị Vương gia 
Ngại lắm chứ, nhưng tôi vẫn được 
ngài ưu ái 
Này, đừng nghĩ rằng phận hèn tôi sẽ bị 
khinh khi! 
Trái tim vui tôi sẽ chẳng bao giờ phai 
nhạt 
Vì được biết người – ngài Vương tử 
Núi có cây còn cây có nhánh 
Con tim tôi vui sướng về người, 
Dù rằng Vương tử người chẳng hay 
biết bao giờ.” 
(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008) 
Ở đây chúng tôi có ít nhất 6 bản dịch. 
Tuy mỗi tác giả có một cách dịch khác 
nhau, nội dung cũng có nhiều điểm khác 
song có thể thấy mấy điểm chung như sau: 
Thứ nhất, về nội dung, các bản dịch 
đều phản ánh sự việc người chèo thuyền 
được diện kiến Ngạc Vương Tử Tích. 
Thứ hai, các bản dịch đều cho thấy 
niềm xúc động của người chèo thuyền khi 
cất lên lời ca. 
Thứ ba, về thời gian, các bản dịch 
cũng đều cho thấy lời ca được cất lên gần 
như trùng với thời điểm sáng tác: Kim tịch 
hà tịch / Kim nhật hà nhật; Đêm nay / 
Hôm nay.v.v. 
Căn cứ vào sự việc được ghi lại và lời 
ca, chúng ta có thể nói rằng, đây là những 
lời ca được ứng tác ngay trong buổi diện 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
48 
kiến Ngạc Vương của người chèo đò. Nó 
hoàn toàn không phải là một bài bản đã có 
từ trước, càng không có sự chuẩn bị. Nó là 
tiếng ca của nỗi lòng, của xúc cảm chân 
thành mà bật lên thành nhạc, thành thơ và 
được cất lên tiếng ca ngay chính thời điểm 
nó ra đời. Cũng thời điểm ấy, người lái đò 
vừa lao động (nhịp tay chèo) vừa cất lên 
câu hát. Dám làm điều đó trước mặt Ngạc 
Vương, người Việt kia hẳn phải có một bản 
lĩnh lớn, hay chí ít, việc hát và tạo câu hát 
theo cách như thế đã trở thành một thói 
quen, một khả năng gần như tự nhiên của 
anh ta. Điều này cho chúng ta một niềm tin 
rằng, đây không phải là người Việt duy 
nhất, mà tại thời điểm này, cộng đồng 
người Việt đã có hình thức sinh hoạt kiểu 
này. Nó trở thành bình thường, thân quen, 
tự nhiên đối với họ. Vì vậy mà trong những 
tình huống đặc biệt, họ vẫn có thể thực 
hiện nó một cách hoàn hảo nhất. 
3. Về mối quan hệ giữa Việt ca và 
hát Ví xứ Nghệ 
Như chúng tôi đã khẳng định, lịch sử – 
văn hóa là một dòng chảy mà trong đó, dù 
đổi dòng, dù biến đổi, những đặc điểm hiện 
đại vẫn lưu giữ những đặc trưng nổi trội 
của truyền thống. Vì vậy, chúng ta có thể 
tìm nguồn gốc của nó ngay từ những dấu 
vết còn lưu lại ở thời điểm hiện tại. 
Chấp nhận theo khuynh hướng của 
những người cho rằng Việt ca là dân ca của 
các dân tộc thuộc Bách Việt xưa. Chúng tôi 
tìm những đặc điểm của nó – mà có thể – 
còn lưu lại đến hôm nay qua hình thức sinh 
hoạt dân ca của một số vùng miền trong 
khu vực Bắc Việt ngày nay. 
Trước hết, với hoàn cảnh hát trong lúc 
chèo đò. Đây là một đặc điểm tương đối 
phổ biến. Cư dân của Bình - Trị - Thiên, 
Nghệ - Tĩnh, Thanh Hóa đều có hát 
trong lúc chèo đò. 
Một trong những hình thức hát trong 
lúc chèo đò được các nhà nghiên cứu cho là 
ra đời sớm nhất là hò. Suốt dải đất miền 
Trung, nơi đâu cũng có hò trên sông. Nếp 
sinh hoạt của người Việt miền Trung chủ 
yếu sử dụng hò để tập hợp sức mạnh tập 
thể, hát cùng với tập thể hoặc đối đáp giữa 
nam và nữ. Trong điệu hò, có người cất lên 
câu hát (xướng) rồi có những người hát 
đệm vào (xô). Chẳng hạn làn điệu hò khoan 
(đối đáp giữa nam và nữ) Quảng Bình: 
“(Nữ): (Xướng) Hò khoan (hơ) hời khoan 
(hơ) mời bạn xô (hơ) hô khoan 
(Xô) ơ là hô! 
(Xướng) Thiếp gặp chàng dạ mừng hớn hở 
Chàng gặp thiếp như mà hoa nở trên 
(hơ) bồn, 
(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò 
khoan 
(Xướng) Nghiêng tai mà hỏi với trai khôn, 
Thầy mẹ ở nhà đã sửa (hơ) chậu 
(Xô) Ơ là hô! 
(Xướng) Ơ (hơ) sửa chậu xây bồn mô 
(hơ) chưa? 
(Xô) Ơ là hô 
(Nam): (Xướng) Anh nỏ thiếu chi nơi màn 
loan mà chiếu kế, 
Nỏ thiếu chi nơi mà cao bệ dài (hơ) 
giường. 
(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò khoan 
(Xướng) Em đừng chê anh nghèo mà 
tráo đấu lường thưng, 
Em chớ nghe thầy với ơ (hơ) mẹ. 
(Xô) Ơ là hô! 
(Xướng) Ơ hơ với mẹ khiến em đừng 
có thương ơ (hơ) anh! 
(Xô) Ơ là hô.” 
 (Hò Quảng Bình) 
Hay hò để tập trung sức mạnh của Nghệ - Tĩnh: 
“Xướng: Con chuột bộc vừng này 
Xô: dô ta này 
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
49 
Xướng: Con thương cha này 
Xô: dô ta này 
Xướng: Vợ thương chồng này 
Xô: dô ta này” 
 (Hò Nghệ Tĩnh) 
Trong trường hợp hát lẻ, điệu hò bao 
giờ cũng được mở đầu bằng lời dạo: Hò ơ 
hò và kết thúc: là dô hò là hò dô hò hay 
ơ là hô/ơ là hò.v.v. Những dấu hiệu ngôn 
ngữ này đều không được ghi lại trong Việt 
ca. Dựa trên văn bản còn lại của Việt ca, 
chúng ta có thể khẳng định không có mối 
liên quan “huyết thống” giữa Việt ca và hò 
trên sông. 
Một hình thức hát trong lúc chèo đò rất 
phổ biến của cư dân miền Trung nước Việt 
nữa là hát Ví – tập trung ở hai tỉnh Nghệ 
An và Hà Tĩnh ngày nay. Trong các làn 
điệu Ví có Ví đò đưa, người hát vừa nhịp 
tay chèo vừa cất lên câu hát. Chẳng hạn: 
“Ơ... Ai biết nước sông La răng là 
trong là đục 
Biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh 
Thuyền em lên thác xuống ghềnh 
Biết răng là nghĩa là tình... hỡi ai.” 
 (Ví đò đưa sông La) 
Lời ca ngân nga lan tỏa trên sóng 
nước, theo nhịp mái chèo khua thường là 
những cảm xúc trước cảnh, trước tình của 
người hát. Một trong những đặc điểm nổi 
trội của Ví còn lưu lại đến ngày nay đó là 
tính ứng tác. Người hát Ví thường bộc phát 
theo cảnh tình tại thời điểm hát mà đặt lời, 
ít khi theo bài bản có sẵn. Chẳng hạn, điệu 
Ví hát chào rất phổ biến đến nay vẫn được 
người Nghệ sử dụng khá phổ biến: 
“Ơ... đến đây đông thật là đông 
Chào bên nam thì mất lòng bên nữ 
Chào quân tử thì sợ dạ thuyền quyên 
Muốn cho được cả đôi bên 
Cho tôi chào chung một tiếng, kẻo 
chào riêng bạn cười.” 
Hát Ví không cần lời đệm như hò, 
thường mở đầu bằng điệu ngân ơ thiên 
về tính nhạc chứ không phải là lời. Bởi 
vậy, hầu như ghi lời của Ví, chẳng mấy ai 
phải ghi cả tiếng ơ ấy. Chúng tôi thiển nghĩ 
– đây có lẽ là lí do mà khi chép lại lời của 
Việt ca, người ghi chép cũng đã không làm 
điều này. Bởi vậy mà lời thơ của Việt ca 
được Lưu Hướng ghi chép lại cũng như 
trong các bản dịch ngày nay đều không pha 
từ đệm. Hình thức nguyên thủy của Ví 
cũng là hát lẻ, hát trong khi lao động, kết 
hợp với nhịp lao động. 
Như vậy, có thể thấy mấy điểm chung 
giữa Việt ca và hát Ví Nghệ - Tĩnh như sau: 
Thứ nhất, Việt ca và hát Ví đều được 
hát trong lao động. 
Thứ hai, Việt ca và hát Ví đều được 
người hát thực hiện trong lúc chèo thuyền. 
Họ vừa nhịp tay chèo vừa hát. Rất có thể 
nhịp điệu, giai điệu của Việt ca và Ví sẽ có 
sự tương đồng khi cùng chịu ảnh hưởng 
của công việc chèo thuyền. (Thực tế là 
nhạc trong phim Dạ Yến, theo lời của Việt 
ca, mặc dầu đã Hán hóa song vẫn có thể 
hình dung giai điệu của nhịp chèo thuyền. 
Người nghe có thể hình dung từ giai điệu 
bài ca hình ảnh người vươn mình nhẹ 
nhàng đẩy con sào, đưa thuyền nhẹ trôi 
trên sông nước mênh mông. Sóng nhẹ, 
thuyền trôi từ từ và lòng người dào dạt 
cùng sông nước). 
Thứ ba, Việt ca là bài hát theo lối ứng 
tác. Đây cũng là đặc điểm nổi trội, độc đáo 
của hát Ví. 
Thứ tư, lối ứng tác của Việt ca và Ví 
đều thể hiện cảm xúc, tình cảm của người 
hát tại thời điểm cất lên câu hát. Đây là lối 
hát tùy người, tùy cảnh, tùy tình mà đặt lời; 
tùy động tác lao động mà tạo nên nhịp điệu. 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
50 
Với bốn điểm tương đồng ấy, liệu Việt 
ca và hát Ví của người Nghệ có mối quan 
hệ như thế nào? 
Câu trả lời thật không dễ nhưng với 
những kết quả đã có được, chắc rằng phải 
có một mối quan hệ nhất định giữa Việt ca 
xưa và hát Ví của người Nghệ sau này. 
Qua đó, giúp chúng tôi phần nào khẳng 
định được lịch sử lâu dài của hát Ví – có 
thể nói – từ khi người Nghệ có tiếng nói, 
và con người biết ngân lên để âm thanh của 
mình phát ra vang được xa hơn thành câu 
hát, biết đặt lời thơ để thể hiện cảm xúc thì 
đã có Ví rồi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Lê Huy Chú và cộng sự. (1991). Lịch sử Việt Nam, tập 1 (tái bản). NXB Đại học và Trung 
học chuyên nghiệp. 
Nguyễn Ngọc Thơ. (2008). Việt nhân ca – bài ca người Việt cổ; nguồn: 
bac-a/220-nguyen-ngoc-tho-viet-nhan-ca.html. 
Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch Nghệ An. (2013). Dân ca xứ Nghệ, Nghệ An: NXB 
Nghệ An. 
Dạ Yến (The Banquet). https://www.youtube.com/watch?v=SXtAN21aMps. 
Ngày nhận bài: 15/02/2020 Biên tập xong: 15/3/2020 Duyệt đăng: 20/3/2020 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_nguon_goc_hat_vi_cua_xu_nghe_xet_trong_moi_quan_he.pdf