Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
Tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh nhi đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm ra giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu là điều cần thiết. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013.
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 233 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE TÌM HIỂU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI VÀ TÍNH AN TOÀN TRONG VẬN CHUYỂN Ở CÁC TRƯỜNG HỢP CHUYỂN TUYẾN CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2013 Lê Bá Tuấn1, Lê Thanh Hải1, Đỗ Mạnh Hùng1 1. Bệnh viện Nhi Trung ương Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 16/02/2017 Ngày duyệt đăng: 21/02/2017 TÓM TẮT Tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh nhi đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm ra giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu là điều cần thiết. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy các đặc điểm ở bệnh nhi bao gồm nhóm tuổi, trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh, địa dư, lý do chuyển tuyến, thời gian chuyển tuyến, ổn định trước khi chuyển (p<0,05). Trong đó nguy cơ vận chuyển không an toàn ở nhóm trẻ từ dưới 1 tuổi so với trẻ trên 1 tuổi là OR=1,89; Trẻ sơ sinh so với trẻ trên 1 tháng là OR=13,14; trẻ nhẹ cân sau sinh so với trẻ không nhẹ cân sau sinh OR=2,63; trẻ ở nơi khác Hà Nội so với trẻ ở Hà Nội OR=1,73; trẻ chuyển tuyến do bệnh nặng so với vận chuyển do ý kiến gia đình OR=2,97; Thời gian vận chuyển từ trên 3 giờ so với dưới 3 giờ OR=1,76; Không ổn định trước chuyển so với ổn định trước chuyển OR=16,43. Từ khóa: Đặc điểm bệnh nhi; An toàn vận chuyển, chuyển tuyến cấp cứu. ABSTRACT AN INVESTIGATION ON THE RELATION BETWEEN PATIENT’S CHARACTERISTICS AND TRANSPORT SAFETY IN EMERGENCY REFERRAL TRANSPORT AT VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013 It is necessary to investigate the affects of patient’s characteristics on the safety of emergency transport and find out the intervention to redude the mortality rate. Therefore, we perform a cross-sectional study on 410 patients transported from provincial hospitals to Vietnam National Children’s hospital in 2013. The result reveals patient’s characteristics including age, neonates, low weight at birth, geography, reasons of referral, time of transport, stability before transport (p<0,05). Risk of unsafe transport in children under 1 year old versus children above 1 year oldOR=1,89; neonates versus infants above 1 month OR=13,14; infants with low birth weight versus normal birth weight OR=2,63; children from outside of Hanoi versus inside Hanoi OR=1,73; children referred due to severe condition versus due to parents’ desire OR=2,97; transport time more than 3 hourse versus less than 3 hours OR=1,76; unstability before transport versus stability before transport OR=16,43. Keywords: Patient’s characteristics, the safety of emergency transport, emergency referral transport. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Những trẻ phải vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương thông thường là những bệnh nhân nặng và tuyến tỉnh không đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho bệnh nhi. Trong quá trình chuyển tuyến cấp cứu, đặc điểm bệnh nhân và tình trạng sức khỏe bệnh nhân là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo sự vận chuyển chuyển tuyến an toàn. Theo Lê Thanh Hải và cộng sự [5] thì các yếu tố ảnh hưởng đến sự vận chuyển an toàn ở bệnh nhi bao gồm ổn định tình trạng bệnh nhân; liên hệ trao đổi thông tin nơi chuyển, chuẩn bị và thực hiện vận chuyển an toàn; sự tiếp nhận tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Theo tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng cũng cho thấy yếu tố ảnh hưởng đến chuyển viện cấp cứu không an toàn bao gồm: lứa tuổi; sự ổn của bệnh nhi. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn234 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bệnh nhi có những đặc điểm khác biệt so với bệnh nhân lớn tuổi, cần những điều kiện trang thiết bị vận chuyển, nhân lực và kỹ thuật vận chuyển có những đặc thù riêng. Nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh nhi đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm ra giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện nhi Trung ương năm 2013’. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương đến bệnh viện nhi Trung ương theo qui định của Bộ Y tế. 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 4/2013 đến 11/2013. - Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương. 3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, nghiên cứu định lượng. 4. Cỡ mẫu nghiên cứu Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức: )1()1( *)1( 2 )2/1( 2 2 )2/1( ppZNd NppZ n −+− − = − − α α N = 9.500: Kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013, do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5 đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương. p = 27,8%=0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện thuộc tuyến trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2]. Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z) d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045 n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu, với các giá trị trên, thay số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứ là n=367 bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến hành nghiên cứu. Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 bệnh nhi vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện trung ương khác đến Bệnh viện Nhi Trung ương. 5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm EPIDATA 3.1, nhập liệu bằng phần mềm SPSS 17.0. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Mối liên quan giữa nhóm tuổi và tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi Nhóm tuổi Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % ≤ 1 tuổi 105 39,5 161 60,5 > 1 tuổi 37 25,7 107 74,3 TỔNG 142 34,6 268 65,4 p=0,0051, OR=1,89 [95%CI 1,21 – 2,95] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tính an toàn và nhóm tuổi bệnh nhi trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi (p<0,01), trong đó nguy cơ vận chuyển không an toàn ở nhóm tuổi từ dưới 1 tuổi cao gấp 1,89 lần nhóm trên 1 tuổi. Bảng 2. Mối liên giữa quan giới tính và an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi Giới tính Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Nam 86 34,0 167 66,0 Nữ 56 35,7 101 64,3 TỔNG 142 34,6 268 65,4 p=0,7287, OR=0,93[95%CI 0,61- 1,41] Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi (p>0,05). Bảng 3. Mối liên giữa quan trẻ sơ sinh và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi Trẻ sơ sinh Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Có 37 84,1 7 15,9 Không 105 28,7 261 71,3 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P<0,001, OR=13,14[95%CI 5,68- 30,40] SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 235 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đặc điểm trẻ là trẻ sơ sinh với tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi (p<0,001), trong đó trẻ sơ sinh có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 13,14 lần trẻ độ tuổi từ 1 tháng tuổi trở lên. Bảng 4. Mối liên quan giữa đẻ non và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi Đẻ non Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Có 65 34,9 121 65,1 Không 77 34,4 147 65,6 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P=0,9037, OR=1,03 (95%CI 0,68-1,54) Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đặc điểm tiền sử bệnh nhi đẻ non với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi (p>0,05). Bảng 5. Mối liên quan giữa tiền sử nhẹ cân sau sinh và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi Nhẹ cân sau sinh Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Có 18 56,3 14 43,8 Không 124 32,8 254 67,2 TỔNG P=0,0071, OR=2,63 (95%CI [1,27- 5,47] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tiền sử nhẹ cân sau sinh ở bệnh nhi với tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi (p<0,01), trong đó trẻ có tiền sử nhẹ cân sau sinh có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 2,63 lần trẻ có tiền sử không nhẹ cân sau sinh. Bảng 6. Mối liên quan giữa yếu tố địa dư và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi Địa dư Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Nơi khác 112 38,0 183 62,0 Hà Nội 30 26,1 85 73,9 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P=0,0231, OR=1,73 [95%CI 1,08- 2,80] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố địa dư với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu (p<0,05), trong đó trẻ ở nơi khác Hà Nội có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 1,73 lần trẻ ở Hà Nội. Bảng 7. Mối liên quan giữa lý do chuyển tuyến và tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi Lý do chuyển tuyến Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Bệnh nặng 117 41,6 164 58,4 Ý kiến GĐ 25 19,4 104 80,6 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P<0,001, OR=2,97 [95%CI 1,81- 4,88] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lý do chuyển viện với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi (p<0,001), trong đó trẻ chuyển tuyến với lý do bệnh nặng có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 2,97 lần trẻ chuyển tuyến do ý kiến gia đình. Bảng 8. Mối liên quan giữa thời gian chuyển tuyến và tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi Thời gian vận chuyển chuyển tuyến Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Bệnh nặng 117 41,6 164 58,4 Ý kiến GĐ 25 19,4 104 80,6 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P=0,0084, OR=1,76 [95% CI 1,15- 2,68] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian chuyển tuyến với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi (p<0,01), trong đó trẻ có thời gian vận chuyển từ 3 giờ trở lên có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 1,74 lần trẻ có thời gian vận chuyển dưới 3 giờ. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn236 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 9. Mối liên quan giữa việc ổn định bệnh nhi trước chuyển và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi Ôn định trước chuyển Vận chuyển không an toàn Vận chuyển an toàn Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Không 79 80,6 19 19,4 Có 63 20,2 249 79,8 TỔNG 142 34,6 268 65,4 P<0,001, OR=16,43 [95%CI 9,28- 29,12] Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa việc ổn định trước chuyển tuyến với tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi (p<0,001), trong đó trẻ không được ổn định trươcs chuyển có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 16,43 lần trẻ được ổn định trước chuyển. IV. BÀN LUẬN Tính an toàn là kết quả của quá trình vận chuyển chuyển tuyến bệnh nhi bao gồm tất cả các khâu từ can thiệp từ trước khi vận chuyển, xử trí khi có sự cố trong khi vận chuyển và tiếp nhận bệnh nhi. An toàn được xác định là không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra khi vận chuyển. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một số yếu tố thuộc về đặc điểm cá nhân của trẻ ảnh hưởng đến vận chuyển không an toàn là nhóm tuổi, trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh, địa dư, lý do chuyển tuyến, thời gian chuyển tuyến, ổn định trước khi chuyển (p<0,05). Các yếu tố giới tính, tiền sử đẻ non không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi. Mối liên quan giữa về tính an toàn với lứa tuổi, nơi trường trú, mức độ bệnh của bệnh nhi của bệnh nhân, ng- hiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu về chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng I của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] cũng cho thấy chuyển viện không an toàn ở lứa tuổi dưới 1 tuổi chiếm 35,7%, chuyển viên trên 1 tuổi không an toàn 20,5%, OR=2.14, p<0,000; Chuyển viện không an toàn ở các tỉnh ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh chiếm 30,3%, nội thành chiếm 21,6%, OR=1,57, p=0,01;Chuyển viện không an toàn do vượt quá khả năng CSYT chiếm 29,6%, so với tỷ lệ không an toàn do gia đình xin chuyển chiếm 2,17%, OR=1,52, p=0,03.Vận chuyển bệnh an toàn nhân ở nhóm bệnh nhân không ổn định là 77,4%, so với nhóm bệnh nhân ổn định là 12,2%, OR=24,6, p<0,001. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy để tăng tỷ lệ vận chuyển an toàn, giảm tỷ lệ vận chuyển không an toàn thì cần thiết trong việc can thiệp đặc biệt là các nhóm đối tượng dưới 1 tuổi đặc biệt là trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh. Để trẻ sơ sinh có sức khỏe tốt, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong thì cần phải can thiệp trước, trong và sau sinh, mặt khác cần đảm bảo các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại tuyến y tế cơ sở, đầu tư các khoa sản tuyến tỉnh. Các đơn vị cần cứu cần có các trang thiết bị như máy ủ ấm, lồng ấp, các thiết bị hỗ trợ hô hấp, dịch truyền phù hợp với trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 tuổi. Qua nghiên cứu cho thấy sự cần thiết quan tâm đến những đối tượng có nguy cơ vận chuyển không an toàn như nhóm ở khu vực khác Hà Nội, các nhóm thời gian vận chuyển trên 3 giờ. Để làm được điều đó hiện nay ngành y tế cũng có nhiều giải pháp như xây dựng nâng cấp các bệnh viện tuyến tỉnh, vùng, các bệnh viện vệ tinh, luân chuyển cán bộ theo đề án 1816, xây dựng và nâng cấp các trung tâm cấp cứu 115, các đội cấp cứu trong bệnh viện,... Tuy nhiên các giải pháp đưa ra cần có nguồn lực lớn và cần thời gian dài để có được kết quả như mong muốn. Để giảm nguy cơ vận chuyển không an toàn kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy cần thiết trong việc can thiệp ở nhóm bệnh nặng và cần có sự ổn định trước khi vận chuyển. Với giải pháp can thiệp ở nhóm bệnh nặng và sự ổn định bệnh nhân trước khi chuyển viện. Vấn đề này thực sự đã được quan tâm và đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp trong việc nâng cao hệ thống cấp cứu. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu cắt ngang trên 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu năm 2013 cho thấy các yếu tố nguy cơ đến vận chuyển không an toàn ở bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu gồm: nhóm trẻ ≤ 1 tuổi, trẻ sơ sinh, tiền sử nhẹ cân, trẻ không ở nơi khác Hà Nội, lý do chuyển viện do bệnh nặng, thời gian vận chuyển ≥ 3 giờ, trẻ không được ổn định trước chuyển. Cần có sự quan tâm các công tác cấp cứu và vận chuyển cấp cứu đặc biệt ở nhóm trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản trước, trong và sau sinh. Khi trẻ trẻ chuyển tuyến cần có sự ổn định cho trẻ trước chuyển. SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 237 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 1. Hoàng Thị Thanh và Khúc Văn Lập (2006), “Nhận xét kết quả cấp cứu Bệnh Nhi nặng trong 24 giờ đầu nhập viện tại khoa nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình”. Nhi Khoa, tập 14, (số đặc biệt), Tr. 61-66. 2 Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tạp chí Y học thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121 3. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-19 4. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành Cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35 5. Lê Thanh Hải và cộng sự (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần giảm tỷ lệ tử vong trong 24 giờ đầu ở tuyến tỉnh. Báo cáo nghiên cứu đề tài cấp bộ- Bộ Y tế. 6. Lê Thị Nga và CS (2009), Đánh giá kết quả cấp cứu bệnh nhân nặng trong 24 giờ nhập viện tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 51(3): 3-7 7. Ngô Thị Thanh, Vũ Thúy Lan và CS (1996), “Tình hình bệnh tật trẻ em tại khoa hồi sức cấp cứu Nhi Bệnh viện Saint-Paul- Hà Nội trong 3 năm 1993 - 1995”, Nhi Khoa, tập 5, (3), Tr.122-130 8. Nguyễn Thị Minh Phương, Nguyễn Thị Hoa (2005), "Nghiên cứu các tình trạng bệnh cấp cứu nhi phổ biến tại các tuyến của tỉnh Nghệ An", Tạp chí Nttghiên cứu Y học, Bộ Y tế - Đại học Y Hà Nội, tập 38, (5), tháng 11/2005,Tr. 20-30. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
File đính kèm:
tim_hieu_moi_lien_quan_giua_dac_diem_benh_nhi_va_tinh_an_toa.pdf

