Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013

Tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh nhi đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm ra giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu là điều cần thiết. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013.

 

pdf 5 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013

Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 233
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
TÌM HIỂU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI VÀ 
TÍNH AN TOÀN TRONG VẬN CHUYỂN Ở CÁC TRƯỜNG HỢP 
CHUYỂN TUYẾN CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG 
NĂM 2013
Lê Bá Tuấn1, Lê Thanh Hải1, Đỗ Mạnh Hùng1
1. Bệnh viện Nhi Trung ương
Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 16/02/2017 Ngày duyệt đăng: 21/02/2017
TÓM TẮT
Tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh nhi 
đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm ra 
giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ 
không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu là điều cần thiết. 
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 
bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh 
đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các đặc điểm ở bệnh nhi 
bao gồm nhóm tuổi, trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh, địa dư, 
lý do chuyển tuyến, thời gian chuyển tuyến, ổn định trước 
khi chuyển (p<0,05). Trong đó nguy cơ vận chuyển không 
an toàn ở nhóm trẻ từ dưới 1 tuổi so với trẻ trên 1 tuổi là 
OR=1,89; Trẻ sơ sinh so với trẻ trên 1 tháng là OR=13,14; trẻ 
nhẹ cân sau sinh so với trẻ không nhẹ cân sau sinh OR=2,63; 
trẻ ở nơi khác Hà Nội so với trẻ ở Hà Nội OR=1,73; trẻ 
chuyển tuyến do bệnh nặng so với vận chuyển do ý kiến gia 
đình OR=2,97; Thời gian vận chuyển từ trên 3 giờ so với 
dưới 3 giờ OR=1,76; Không ổn định trước chuyển so với ổn 
định trước chuyển OR=16,43. 
Từ khóa: Đặc điểm bệnh nhi; An toàn vận chuyển, 
chuyển tuyến cấp cứu.
ABSTRACT
AN INVESTIGATION ON THE RELATION 
BETWEEN PATIENT’S CHARACTERISTICS AND 
TRANSPORT SAFETY IN EMERGENCY REFERRAL 
TRANSPORT AT VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S 
HOSPITAL IN 2013
It is necessary to investigate the affects of patient’s 
characteristics on the safety of emergency transport and find 
out the intervention to redude the mortality rate. Therefore, 
we perform a cross-sectional study on 410 patients transported 
from provincial hospitals to Vietnam National Children’s 
hospital in 2013.
The result reveals patient’s characteristics including age, 
neonates, low weight at birth, geography, reasons of referral, 
time of transport, stability before transport (p<0,05). Risk of 
unsafe transport in children under 1 year old versus children 
above 1 year oldOR=1,89; neonates versus infants above 
1 month OR=13,14; infants with low birth weight versus 
normal birth weight OR=2,63; children from outside of 
Hanoi versus inside Hanoi OR=1,73; children referred due 
to severe condition versus due to parents’ desire OR=2,97; 
transport time more than 3 hourse versus less than 3 hours 
OR=1,76; unstability before transport versus stability before 
transport OR=16,43. 
Keywords: Patient’s characteristics, the safety of 
emergency transport, emergency referral transport.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những trẻ phải vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện tuyến 
tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương thông thường là những 
bệnh nhân nặng và tuyến tỉnh không đủ cơ sở vật chất, trang 
thiết bị kỹ thuật cho bệnh nhi. Trong quá trình chuyển tuyến 
cấp cứu, đặc điểm bệnh nhân và tình trạng sức khỏe bệnh 
nhân là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo sự vận chuyển 
chuyển tuyến an toàn. 
Theo Lê Thanh Hải và cộng sự [5] thì các yếu tố ảnh 
hưởng đến sự vận chuyển an toàn ở bệnh nhi bao gồm ổn định 
tình trạng bệnh nhân; liên hệ trao đổi thông tin nơi chuyển, 
chuẩn bị và thực hiện vận chuyển an toàn; sự tiếp nhận tại 
Bệnh viện Nhi Trung ương. Theo tác giả Hoàng Trọng Kim 
và cộng sự [2] nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng cũng cho 
thấy yếu tố ảnh hưởng đến chuyển viện cấp cứu không an 
toàn bao gồm: lứa tuổi; sự ổn của bệnh nhi. 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn234
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bệnh nhi có những đặc điểm khác biệt so với bệnh nhân 
lớn tuổi, cần những điều kiện trang thiết bị vận chuyển, nhân 
lực và kỹ thuật vận chuyển có những đặc thù riêng.
Nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về bệnh 
nhi đến tín an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, qua đó tìm 
ra giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong, giảm tỷ 
lệ không an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu: “Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm bệnh 
nhi và tính an toàn trong vận chuyển ở các trường hợp chuyển 
tuyến cấp cứu tại Bệnh viện nhi Trung ương năm 2013’.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển 
cấp cứu từ bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương đến bệnh 
viện nhi Trung ương theo qui định của Bộ Y tế. 
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 4/2013 đến 
11/2013. 
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng 
khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, 
nghiên cứu định lượng.
4. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức: 
 )1()1(
*)1(
2
)2/1(
2
2
)2/1(
ppZNd
NppZ
n
−+−
−
=
−
−
α
α
N = 9.500: Kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu 
của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013, 
do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện 
cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5 
đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp 
cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
p = 27,8%=0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham 
khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ 
bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện 
thuộc tuyến trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng 
3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và 
cộng sự [2].
Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z)
d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045
n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu, với các giá trị trên, thay 
số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứ là n=367 
bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến 
hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến 
hành nghiên cứu. 
Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 bệnh nhi 
vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh, 
bệnh viện trung ương khác đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm 
EPIDATA 3.1, nhập liệu bằng phần mềm SPSS 17.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Mối liên quan giữa nhóm tuổi và tính an toàn 
trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi
Nhóm 
tuổi
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
≤ 1 tuổi 105 39,5 161 60,5
> 1 tuổi 37 25,7 107 74,3
TỔNG 142 34,6 268 65,4
p=0,0051, OR=1,89 [95%CI 1,21 – 2,95]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tính an toàn 
và nhóm tuổi bệnh nhi trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi 
(p<0,01), trong đó nguy cơ vận chuyển không an toàn ở 
nhóm tuổi từ dưới 1 tuổi cao gấp 1,89 lần nhóm trên 1 tuổi.
Bảng 2. Mối liên giữa quan giới tính và an toàn trong 
chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi
Giới tính
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nam 86 34,0 167 66,0
Nữ 56 35,7 101 64,3
TỔNG 142 34,6 268 65,4
p=0,7287, OR=0,93[95%CI 0,61- 1,41]
Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
giới tính bệnh nhi và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu 
chuyển tuyến bệnh nhi (p>0,05).
Bảng 3. Mối liên giữa quan trẻ sơ sinh và tính an toàn 
trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Trẻ sơ 
sinh
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 37 84,1 7 15,9
Không 105 28,7 261 71,3
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P<0,001, OR=13,14[95%CI 5,68- 30,40]
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 235
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đặc điểm trẻ là 
trẻ sơ sinh với tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi 
(p<0,001), trong đó trẻ sơ sinh có nguy cơ vận chuyển không an 
toàn cao gấp 13,14 lần trẻ độ tuổi từ 1 tháng tuổi trở lên.
Bảng 4. Mối liên quan giữa đẻ non và tính an toàn 
trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Đẻ non
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 65 34,9 121 65,1
Không 77 34,4 147 65,6
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P=0,9037, OR=1,03 (95%CI 0,68-1,54)
Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
đặc điểm tiền sử bệnh nhi đẻ non với tính an toàn trong vận 
chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi (p>0,05).
Bảng 5. Mối liên quan giữa tiền sử nhẹ cân sau sinh và 
tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Nhẹ cân 
sau sinh
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 18 56,3 14 43,8
Không 124 32,8 254 67,2
TỔNG
P=0,0071, OR=2,63 (95%CI [1,27- 5,47]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tiền sử nhẹ cân 
sau sinh ở bệnh nhi với tính an toàn trong vận chuyển cấp 
cứu bệnh nhi (p<0,01), trong đó trẻ có tiền sử nhẹ cân sau 
sinh có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 2,63 lần 
trẻ có tiền sử không nhẹ cân sau sinh.
Bảng 6. Mối liên quan giữa yếu tố địa dư và tính an 
toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Địa dư
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nơi khác 112 38,0 183 62,0
Hà Nội 30 26,1 85 73,9
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P=0,0231, OR=1,73 [95%CI 1,08- 2,80]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố địa 
dư với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu 
(p<0,05), trong đó trẻ ở nơi khác Hà Nội có nguy cơ vận 
chuyển không an toàn cao gấp 1,73 lần trẻ ở Hà Nội.
Bảng 7. Mối liên quan giữa lý do chuyển tuyến và tính 
an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi
Lý do 
chuyển 
tuyến
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Bệnh 
nặng
117 41,6 164 58,4
Ý kiến 
GĐ
25 19,4 104 80,6
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P<0,001, OR=2,97 [95%CI 1,81- 4,88]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lý do chuyển 
viện với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu 
bệnh nhi (p<0,001), trong đó trẻ chuyển tuyến với lý do bệnh 
nặng có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 2,97 lần 
trẻ chuyển tuyến do ý kiến gia đình.
Bảng 8. Mối liên quan giữa thời gian chuyển tuyến và 
tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi
Thời gian 
vận chuyển 
chuyển 
tuyến
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển 
an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Bệnh nặng 117 41,6 164 58,4
Ý kiến GĐ 25 19,4 104 80,6
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P=0,0084, OR=1,76 [95% CI 1,15- 2,68]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian 
chuyển tuyến với tính an toàn trong vận chuyển chuyển 
tuyến cấp cứu bệnh nhi (p<0,01), trong đó trẻ có thời gian 
vận chuyển từ 3 giờ trở lên có nguy cơ vận chuyển không an 
toàn cao gấp 1,74 lần trẻ có thời gian vận chuyển dưới 3 giờ.
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn236
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 9. Mối liên quan giữa việc ổn định bệnh nhi trước 
chuyển và tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Ôn định 
trước 
chuyển
Vận chuyển 
không an toàn
Vận chuyển 
an toàn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Không 79 80,6 19 19,4
Có 63 20,2 249 79,8
TỔNG 142 34,6 268 65,4
P<0,001, OR=16,43 [95%CI 9,28- 29,12]
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa việc ổn định 
trước chuyển tuyến với tính an toàn trong vận chuyển cấp 
cứu bệnh nhi (p<0,001), trong đó trẻ không được ổn định 
trươcs chuyển có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 
16,43 lần trẻ được ổn định trước chuyển.
IV. BÀN LUẬN
Tính an toàn là kết quả của quá trình vận chuyển 
chuyển tuyến bệnh nhi bao gồm tất cả các khâu từ can 
thiệp từ trước khi vận chuyển, xử trí khi có sự cố trong khi 
vận chuyển và tiếp nhận bệnh nhi. An toàn được xác định 
là không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không 
có biến cố xảy ra khi vận chuyển.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một số yếu 
tố thuộc về đặc điểm cá nhân của trẻ ảnh hưởng đến vận 
chuyển không an toàn là nhóm tuổi, trẻ sơ sinh, nhẹ cân 
sau sinh, địa dư, lý do chuyển tuyến, thời gian chuyển 
tuyến, ổn định trước khi chuyển (p<0,05). Các yếu tố giới 
tính, tiền sử đẻ non không có mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến 
cấp cứu bệnh nhi.
Mối liên quan giữa về tính an toàn với lứa tuổi, nơi 
trường trú, mức độ bệnh của bệnh nhi của bệnh nhân, ng-
hiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu về 
chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng I của tác giả 
Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] cũng cho thấy chuyển 
viện không an toàn ở lứa tuổi dưới 1 tuổi chiếm 35,7%, 
chuyển viên trên 1 tuổi không an toàn 20,5%, OR=2.14, 
p<0,000; Chuyển viện không an toàn ở các tỉnh ngoại 
thành Tp. Hồ Chí Minh chiếm 30,3%, nội thành chiếm 
21,6%, OR=1,57, p=0,01;Chuyển viện không an toàn do 
vượt quá khả năng CSYT chiếm 29,6%, so với tỷ lệ không 
an toàn do gia đình xin chuyển chiếm 2,17%, OR=1,52, 
p=0,03.Vận chuyển bệnh an toàn nhân ở nhóm bệnh nhân 
không ổn định là 77,4%, so với nhóm bệnh nhân ổn định 
là 12,2%, OR=24,6, p<0,001.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy để tăng tỷ lệ vận 
chuyển an toàn, giảm tỷ lệ vận chuyển không an toàn thì 
cần thiết trong việc can thiệp đặc biệt là các nhóm đối 
tượng dưới 1 tuổi đặc biệt là trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh. 
Để trẻ sơ sinh có sức khỏe tốt, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử 
vong thì cần phải can thiệp trước, trong và sau sinh, mặt 
khác cần đảm bảo các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản 
tại tuyến y tế cơ sở, đầu tư các khoa sản tuyến tỉnh. Các 
đơn vị cần cứu cần có các trang thiết bị như máy ủ ấm, 
lồng ấp, các thiết bị hỗ trợ hô hấp, dịch truyền phù hợp với 
trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 tuổi.
Qua nghiên cứu cho thấy sự cần thiết quan tâm đến 
những đối tượng có nguy cơ vận chuyển không an toàn 
như nhóm ở khu vực khác Hà Nội, các nhóm thời gian vận 
chuyển trên 3 giờ. Để làm được điều đó hiện nay ngành 
y tế cũng có nhiều giải pháp như xây dựng nâng cấp các 
bệnh viện tuyến tỉnh, vùng, các bệnh viện vệ tinh, luân 
chuyển cán bộ theo đề án 1816, xây dựng và nâng cấp các 
trung tâm cấp cứu 115, các đội cấp cứu trong bệnh viện,...
Tuy nhiên các giải pháp đưa ra cần có nguồn lực lớn và 
cần thời gian dài để có được kết quả như mong muốn.
Để giảm nguy cơ vận chuyển không an toàn kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy cần thiết trong 
việc can thiệp ở nhóm bệnh nặng và cần có sự ổn định 
trước khi vận chuyển. Với giải pháp can thiệp ở nhóm 
bệnh nặng và sự ổn định bệnh nhân trước khi chuyển viện. 
Vấn đề này thực sự đã được quan tâm và đã và đang triển 
khai đồng bộ các giải pháp trong việc nâng cao hệ thống 
cấp cứu.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu cắt ngang trên 410 bệnh nhi chuyển 
tuyến cấp cứu năm 2013 cho thấy các yếu tố nguy cơ đến vận 
chuyển không an toàn ở bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu gồm: 
nhóm trẻ ≤ 1 tuổi, trẻ sơ sinh, tiền sử nhẹ cân, trẻ không ở nơi 
khác Hà Nội, lý do chuyển viện do bệnh nặng, thời gian vận 
chuyển ≥ 3 giờ, trẻ không được ổn định trước chuyển.
Cần có sự quan tâm các công tác cấp cứu và vận chuyển 
cấp cứu đặc biệt ở nhóm trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi. Bên 
cạnh đó cần đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản 
trước, trong và sau sinh. Khi trẻ trẻ chuyển tuyến cần có sự 
ổn định cho trẻ trước chuyển.
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 237
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
1. Hoàng Thị Thanh và Khúc Văn Lập (2006), “Nhận xét kết quả cấp cứu Bệnh Nhi nặng trong 24 giờ đầu nhập viện tại 
khoa nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình”. Nhi Khoa, tập 14, (số đặc biệt), Tr. 61-66.
2 Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tạp chí 
Y học thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121
3. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương năm 
2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-19
4. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành Cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35
5. Lê Thanh Hải và cộng sự (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm 
góp phần giảm tỷ lệ tử vong trong 24 giờ đầu ở tuyến tỉnh. Báo cáo nghiên cứu đề tài cấp bộ- Bộ Y tế.
6. Lê Thị Nga và CS (2009), Đánh giá kết quả cấp cứu bệnh nhân nặng trong 24 giờ nhập viện tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa 
Trung ương Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 51(3): 3-7
7. Ngô Thị Thanh, Vũ Thúy Lan và CS (1996), “Tình hình bệnh tật trẻ em tại khoa hồi sức cấp cứu Nhi Bệnh viện Saint-Paul-
Hà Nội trong 3 năm 1993 - 1995”, Nhi Khoa, tập 5, (3), Tr.122-130
8. Nguyễn Thị Minh Phương, Nguyễn Thị Hoa (2005), "Nghiên cứu các tình trạng bệnh cấp cứu nhi phổ biến tại các tuyến 
của tỉnh Nghệ An", Tạp chí Nttghiên cứu Y học, Bộ Y tế - Đại học Y Hà Nội, tập 38, (5), tháng 11/2005,Tr. 20-30.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_moi_lien_quan_giua_dac_diem_benh_nhi_va_tinh_an_toa.pdf