Tìm hiểu các nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới

Trên thế giới, tỷ lệ vô sinh chiếm 15%, một nửa trong số đó là do nam giới. Vô sinh ở nam giới có thể do rất

nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên việc chẩn đoán và điều trị theo căn nguyên còn chưa được coi trọng

dẫn tới các can thiệp không cần thiết đối với người bệnh. Nghiên cứu mô tả tiến hành trong 6 năm cho thấy tỷ

lệ nam giới đến khám vì vô sinh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chiếm 11,7%. Trong số 1.649 nam giới vô sinh

được đưa vào nghiên cứu, tỷ lệ vô sinh nam chưa rõ nguyên nhân chiếm đến 67,5% trong tổng số các đối tượng

nghiên cứu và đặc biệt lên đến 80,0% đối với các trường hợp có tinh trùng trong tinh dịch. Vô sinh không có

tinh trùng chỉ chiếm 20,8% tuy nhiên đến 80,9% các trường hợp tìm thấy nguyên nhân, đồng thời khác biệt rõ

rệt về một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng so với nhóm vô sinh có tinh trùng. Nghiên cứu cũng cho thấy

không có sự khác biệt về tinh dịch đồ, nội tiết tố, thể tích tinh hoàn giữa các bệnh nhân vô sinh nguyên phát và

vô sinh thứ phát chưa rõ nguyên nhân. Tóm lại, việc tìm kiếm nguyên nhân vô sinh ở nam giới là vô cùng quan

trọng trong việc quyết định điều trị và can thiệp, đặc biệt đối với các trường hợp vô sinh không có tinh trùng

pdf 10 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu các nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu các nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới

Tìm hiểu các nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
119TCNCYH 125 (1) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 23/12/2019
Ngày được chấp nhận: 14/01/2020
TÌM HIỂU CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY VÔ SINH Ở NAM GIỚI 
Nguyễn Hoài Bắc , Phạm Minh Quân
Trường Đại học Y Hà Nội
Trên thế giới, tỷ lệ vô sinh chiếm 15%, một nửa trong số đó là do nam giới. Vô sinh ở nam giới có thể do rất 
nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên việc chẩn đoán và điều trị theo căn nguyên còn chưa được coi trọng 
dẫn tới các can thiệp không cần thiết đối với người bệnh. Nghiên cứu mô tả tiến hành trong 6 năm cho thấy tỷ 
lệ nam giới đến khám vì vô sinh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chiếm 11,7%. Trong số 1.649 nam giới vô sinh 
được đưa vào nghiên cứu, tỷ lệ vô sinh nam chưa rõ nguyên nhân chiếm đến 67,5% trong tổng số các đối tượng 
nghiên cứu và đặc biệt lên đến 80,0% đối với các trường hợp có tinh trùng trong tinh dịch. Vô sinh không có 
tinh trùng chỉ chiếm 20,8% tuy nhiên đến 80,9% các trường hợp tìm thấy nguyên nhân, đồng thời khác biệt rõ 
rệt về một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng so với nhóm vô sinh có tinh trùng. Nghiên cứu cũng cho thấy 
không có sự khác biệt về tinh dịch đồ, nội tiết tố, thể tích tinh hoàn giữa các bệnh nhân vô sinh nguyên phát và 
vô sinh thứ phát chưa rõ nguyên nhân. Tóm lại, việc tìm kiếm nguyên nhân vô sinh ở nam giới là vô cùng quan 
trọng trong việc quyết định điều trị và can thiệp, đặc biệt đối với các trường hợp vô sinh không có tinh trùng. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, vô sinh là tình 
trạng không có khả năng có thai một cách tự 
nhiên ở một cặp quan hệ tình dục đều không 
sử dụng biện pháp tránh thai trong vòng một 
năm.¹ Tình trạng này xảy ra ở khoảng 15% các 
cặp vợ chồng, trong đó khoảng 50% các trường 
hợp vô sinh là do nam giới.² Mặc dù vậy, hiểu 
biết về các bệnh lý gây vô sinh ở nam giới còn 
rất hạn chế dẫn tới việc đánh giá trên lâm sàng 
thường chỉ dừng lại ở xét nghiệm tinh dịch đồ.³ 
Một số nguyên nhân gây ảnh hưởng đến khả 
năng sinh sản của nam giới đã được biết đến 
như: bất thường bẩm sinh hoặc mắc phải của 
hệ sinh dục tiết niệu, tình trạng bệnh lý ác tính, 
nhiễm khuẩn hệ sinh dục tiết niệu, tăng nhiệt độ 
vùng bìu (do giãn tĩnh mạch tinh), rối loạn nội 
tiết, bất thường vật chất di truyền, các yếu tố 
liên quan đến miễn dịch.⁴ Một số nguyên nhân 
có thể dự phòng hoặc điều trị được,1,5 và đa 
phần các trường hợp kể cả vô sinh không có 
tinh trùng đều hoàn toàn có thể tìm thấy tinh 
trùng trong tinh hoàn.¹ Tuy nhiên, với sự phát 
triển của các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản hiện nay, 
việc chẩn đoán nguyên nhân dẫn đến vô sinh 
ở nam giới để định hướng điểu trị càng ít được 
chú trọng.² Thiếu sự đánh giá toàn diện trên 
lâm sàng dẫn đến nhận định kém chính xác và 
làm tăng tỷ lệ các can thiệp không cần thiết ở 
bệnh nhân vô sinh nam. 
Tại Việt Nam, nghiên cứu trên đối tượng vô 
sinh nam giới còn khá ít do trong một thời gian 
dài vấn đề này ít được coi trọng. Mặc dù phần 
lớn các nguyên nhân gây vô sinh nam đều có 
thể chẩn đoán được, tuy nhiên do hạn chế 
về nhận thức cũng như thiếu sự hướng dẫn 
chuyên sâu, bệnh nhân thường ít được đánh 
giá và điều trị đầy đủ. Chính vì vậy, chúng tôi 
quyết định tiến hành nghiên cứu này nhằm mục 
tiêu sau:
1 - Tìm hiểu một số nguyên nhân thường 
gặp gây vô sinh ở nam giới. 
Từ khóa: Vô sinh nam giới, Vô sinh không có tinh trùng, Đột biến mất đoạn AZF, Giãn tĩnh mạch tinh.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
120 TCNCYH 125 (1) - 2020
2 - So sánh một số đặc điểm lâm sàng và 
cận lâm sàng giữa các nhóm vô sinh khác nhau.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
Nghiên cứu được tiến hành trên những bệnh 
nhân vô sinh nam đến khám tại phòng khám 
Nam học, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong 
khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2013 đến 
tháng 4 năm 2019. Đối tượng tham gia nghiên 
cứu phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
 - Nam giới quan hệ tình dục với một đối tác 
ổn định trong 12 tháng mà chưa có con
 - Có đầy đủ thông tin về tình trạng hôn nhân, 
số lần quan hệ tình dục trung bình/tuần (trong 
3 tháng gần đây), thời gian chậm con (tính từ 
lúc bắt đầu mong con cho đến thời điểm đến 
khám), bệnh sử, tiền sử, các xét nghiệm nội 
tiết, siêu âm tinh hoàn và ít nhất một mẫu tinh 
dịch đồ được thực hiện tại Bộ môn Y Sinh học 
– Di truyền Trường Đại học Y Hà Nội. 
 - Loại trừ các yếu tố liên quan đến từ nữ 
giới: dính buồng tử cung, dính cổ tử cung, 
buồng trứng đa nang, tắc vòi trứng, tử cung 
nhỏ, tử cung hai sừng, u xơ tư cung, u nang 
buồng trứng và các bất thường khác. Các 
trường hợp đối tác có tiền sử sảy thai, thai lưu, 
chửa ngoài tử cung nhiều lần cũng được loại 
khỏi nghiên cứu.
2. Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Quy trình nghiên cứu:
Đối tượng tham gia nghiên cứu được tiến 
hành thăm khám trên lâm sàng để phát hiện 
các bất thường về bộ phận sinh dục (teo tinh 
hoàn; dương vật không phát triển; bất thường 
ống dẫn tinh, mào tinh, tinh hoàn, tĩnh mạch 
tinh). Giãn tĩnh mạch tinh được xác định và chia 
độ trên lâm sàng thành: Độ I – Chỉ sờ thấy tĩnh 
mạch tinh giãn khi làm nghiệm pháp Valsava; 
Độ II – Sờ thấy tĩnh mạch tinh giãn nhưng 
không quan sát thấy ở bìu; Độ III – Búi giãn tĩnh 
mạch nổi rõ dưới da bìu và có thể sờ thấy.6 Tiền 
sử các bệnh lý liên quan (quai bị, ẩn tinh hoàn, 
phẫu thuật vùng bẹn bìu, viêm nhiễm vùng sinh 
dục) cũng được ghi nhận.
Tất cả các mẫu tinh dịch được phân tích 
tại phòng xét nghiệm Bộ môn Y Sinh học - Di 
truyền Trường Đại học Y Hà Nội bằng máy 
CASA (Computer Aided Sperm Analysis - Hệ 
thống phân tích tinh trùng có hỗ trợ của máy 
tính) của hãng MTG - Đức. Bệnh nhân được 
hướng dẫn đến làm xét nghiệm sau khi kiêng 
xuất tinh hoàn toàn 3 - 5 ngày. Mẫu tinh dịch 
được lấy trực tiếp bằng tay vào một cốc thủy 
tinh rộng miệng có chia vạch đã ghi sẵn tên 
tuổi bệnh nhân và ngày giờ lấy mẫu ở phòng 
lấy mẫu trong khu vực xét nghiệm. Sau đó cốc 
đựng tinh dịch được giữ ở nhiệt độ 37oC. Mẫu 
được tiến hành phân tích trong vòng 1 giờ, tại 
phòng có nhiệt độ ổn định 20 - 24oC. Giá trị 
tham khảo được lấy theo hướng dẫn của WHO 
năm 2010.⁷
Nồng độ các nội tiết tố sinh dục trong 
huyết thanh được xác định theo phương pháp 
xét nghiệm miễn dịch điện hóa phát quang 
“ECLIA” dùng cho các máy xét nghiệm miễn 
dịch Cobase. Bộ thuốc thử xét nghiệm do hãng 
Roche sản xuất và cung cấp. Giá trị tham khảo 
của LH, FSH, Testosterone lần lượt là 1,7 – 8,6 
mIU/ml; 3,5 – 12,5 mIU/ml; 9,9 – 27,8 nmol/l.
Siêu âm được thực hiện tại khoa chẩn đoán 
hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thể tích 
tinh hoàn được tính theo theo công thức V = L x 
W x H x 0,71. Thể tích tinh hoàn < 12 ml được 
coi như bất thường.⁸
Những trường hợp thiểu tinh nặng (mật độ 
tinh trùng dưới 5 triệu/ml) hoặc không có tinh 
trùng sẽ được chỉ định xét nghiệm di truyền để 
tìm nguyên nhân. Bệnh nhân được tiến hành 
lấy máu xét nghiệm tại Bộ môn Y sinh học - Di 
truyền Trường Đại học Y Hà Nội theo quy trình 
khép kín. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
121TCNCYH 125 (1) - 2020
Dựa trên kết quả khám lâm sàng và cận lâm 
sàng, chúng tôi phân chia đối tượng nghiên 
cứu vào các nhóm nguyên nhân cơ bản với thứ 
tự ưu tiên như sau: (1) Các bất thường về di 
truyền, (2) Suy sinh dục thứ phát, (3) Các bất 
thường về cấu trúc giải phẫu cơ quan sinh dục, 
(4) Suy sinh dục nguyên phát, (5) Các yếu tố 
khác (ẩn tinh hoàn, giãn tĩnh mạch tinh, viêm 
tinh hoàn quai bị, viêm nhiễm đường sinh dục). 
Những đối tượng có nhiều nguyên nhân phối 
hợp sẽ chỉ chọn ra một yếu tố chính quyết định 
theo thứ tự ưu tiên trên. 
3. Xử lý số liệu
Các biến liên tục được mô tả dưới dạng 
trung bình ± độ lệch chuẩn với biến phân bố 
chuẩn và dưới dạng trung vị (giá trị nhỏ nhất – 
giá trị lớn nhất) với biến phân bố không chuẩn. 
Kiểm định Kolmogorov - Smirnov được sử 
dụng để kiểm định tính chuẩn của phân bố. Sự 
khác biệt giữa 2 nhóm được ước tính theo thuật 
toán T - student test đối với biến phân bố chuẩn 
và Mann Whitney test với biến phân bố không 
chuẩn. Các biến phân loại được mô tả dưới 
dạng số lượng và tỷ lệ phần trăm, sự khác biệt 
giữa các tỷ lệ được ước tính bằng thuật toán 
Χ2 hoặc Fisher’s exact tests. Phân tích phương 
sai (ANOVA) và phân tích hậu định Bonferroni 
được sử dụng để so sánh sự khác biệt giữa 
nhiều nhóm. Giá trị p < 0,05 được cho là có ý 
nghĩa thống kê. Tất cả các dữ liệu trên được 
nhập và phân tích bằng phần mềm R.
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
đốc bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Các thông tin 
liên quan đến người tham gia nghiên cứu được 
đảm bảo bí mật.
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian 6 năm, từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 4 năm 2019, có 3.386/28.963 bệnh nhân 
đến khám vì vô sinh, chiếm tỉ lệ 11,7%. Trong đó, có 1.649 bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa 
chọn và loại trừ của nghiên cứu. Kết quả phân tích số liệu của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu 
như sau:
1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tổng 
(n)
Trung vị 
[GTNN – GTLN]
n (%)
Tuổi 1649 31,0 [20,0 – 59,0]
BMI (kg/m2) 1613 22,5 [10,5 – 31,2]
< 18,5 91 (5,6%)
18,5 - 22,9 829 (51,4%)
> 22,9 693 (43,0%)
Thời gian chậm con (tháng) 1649 24,0 [12,0 – 240]
Hút thuốc lá 1354
Không 985 (72,8%)
Có 369 (27,2%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
122 TCNCYH 125 (1) - 2020
Tổng 
(n)
Trung vị 
[GTNN – GTLN]
n (%)
Tần số quan hệ tình dục (lần/tuần) 1405 2,50 [0,00 – 10,0]
QHTD < 1 lần/tuần 103 (7,3%)
QHTD 1-2 lần/tuần 479 (34,1%)
QHTD > 2 lần/tuần 823 (58,6%)
Phân loại vô sinh 1649
Vô sinh nguyên phát 1298 (78,7%)
Vô sinh thứ phát 351 (21,3%)
GTNN: Giá trị nhỏ nhất, GTLN: Giá trị lớn nhất, QHTD: Quan hệ tinh dục.
Nhóm nghiên cứu có thời gian chậm con dao động trong khoảng 2 năm, trong đó vô sinh nguyên 
phát chiếm đa số (78,7%), phần lớn không hút thuốc lá. Tỷ lệ thừa cân ở mức 43%. Số lần quan hệ 
tình dục dao động khoảng 10 lần/tháng, tuy nhiên chỉ có 58,6% bệnh nhân quan hệ tình dục nhiều 
hơn 2 lần/tuần. 
Nguyên nhân gây vô sinh ở nhóm nghiên cứu 
Bảng 2. Phân loại vô sinh nam có tinh trùng và không có tinh trùng theo nguyên nhân
Chẩn đoán
Vô sinh nam có 
tinh trùng
(n = 1306)
(%)
Vô sinh nam 
không có tinh 
trùng
(n = 343)
(%)
Tổng
(n = 1649)
(%)
Nguyên nhân không do di truyền 16,7% 20,2% 17,5%
Tinh hoàn ẩn một/hai bên (đã mổ) 0,2% 1,2% 0,4%
Giãn tĩnh mạch tinh (đã/chưa mổ) 10,9% 2,9% 9,3%
Phẫu thuật khác vùng bẹn bìu 1,4% 0,6% 1,2%
Viêm tinh hoàn do quai bị 3,4% 14,0% 5,6%
Viêm nhiễm đường sinh dục do các 
căn nguyên khác
0,8% 1,5% 0,9%
Nguyên nhân do di truyền
Bất thường nhiễm sắc thể 0,7% 10,5% 2,7%
Hội chứng Klinefelter - 6,7% 1,4%
Hội chứng siêu nam (công thức 
karyotype 47,XYY)
- 0,6% 0,1%
Người nam công thức karyotype 46,XX - 0,6% 0,1%
Các đột biến nhiễm sắc thể khác 0,7% 2,6% 1,1%
Đột biến mất đoạn nhỏ trên NST Y 1,4% 3,5% 1,8%
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
123TCNCYH 125 (1) - 2020
Chẩn đoán
Vô sinh nam có 
tinh trùng
(n = 1306)
(%)
Vô sinh nam 
không có tinh 
trùng
(n = 343)
(%)
Tổng
(n = 1649)
(%)
Đột biến gene CFTR gây bất sản ống 
dẫn tinh
 - 12,8% 2,7%
Nguyên nhân suy sinh dục
Suy sinh dục thứ phát 0,4% 0,3% 0,4%
Suy sinh dục nguyên phát 0,6% 19,0% 4,4%
Tắc đường dẫn tinh do các nguyên 
nhân khác
0,2% 14,6% 3,1%
Vô sinh không rõ nguyên nhân 80,0% 19,1% 67,5%
Tỷ lệ vô sinh không có tinh trùng chiếm 20,8% và có đến 80,9% tìm thấy nguyên nhân, trong 
đó vô sinh do tắc đường dẫn tinh chiếm 27,4% (bao gồm các trường hợp bất sản ống dẫn tinh do 
đột biến gen CFTR và tắc nghẽn do các nguyên nhân khác). Tất cả các bệnh nhân có hội chứng 
Klinefelter, hội chứng siêu nam (công thức karyotype 47,XYY) và người nam công thức karyotype 
46,XX đều không có tinh trùng trong tinh dịch. Tỷ lệ vô sinh không rõ nguyên nhân chiếm đến 80,0% 
ở nhóm bệnh nhân vô sinh có tinh trùng và 67,5% trên tổng số 1.649 đối tượng tham gia nghiên cứu. 
Giãn tĩnh mạch tinh có tỷ lệ cao nhất trong tất cả các nguyên nhân, chiếm 9,3%.
2. Sự khác biệt giữa nhóm vô sinh không có tinh trùng và vô sinh có tinh trùng
 Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng giữa nhóm vô sinh không có tinh trùng và vô 
sinh có tinh trùng (n = 1649)
Vô sinh nam 
có tinh trùng
(n = 1306)
Vô sinh nam 
không có tinh trùng
(n = 343)
Giá trị 
p
Trung vị 
[GTNN - GTLN]
%
Trung vị
 [GTNN - GTLN]
 %
Tuổi
31,0 
[20,0 – 59,0]
30,0 
[21,0 – 52,0]
 0,003
Thời gian chậm con 
(tháng)
24,0 
[12,0 – 240]
24,0 
[12,0 – 216]
< 0,001
Tần số quan hệ tình dục 
(lần/tuần)
2,50 
[0,00 – 10,0]
2,50 
[0,00 – 8,00]
 0,043
Tỷ lệ hút thuốc lá 26,5 30,3 0,198
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
124 TCNCYH 125 (1) - 2020
Vô sinh nam 
có tinh trùng
(n = 1306)
Vô sinh nam 
không có tinh trùng
(n = 343)
Giá trị 
p
Trung vị 
[GTNN - GTLN]
%
Trung vị
 [GTNN - GTLN]
 %
BMI (kg/m2)
22,5 
[10,5 – 31,2]
22,2 
[16,4 – 31,2]
 0,284
LH (mIU/ml)
4,33 
[0,81 – 57,3]
7,18 
[0,10 – 49,7]
< 0,001
FSH (mIU/ml)
4,48 
[0,40 – 56,5]
13,7 
[0,10 – 131]
< 0,001
Testosterone (nmol/l)
15,5 
[0,89 – 52,1]
14,4 
[0,55 – 45,3]
< 0,001
Thể tích tinh dịch (ml)
2,90 
[0,10 – 9,30]
2,00 
[0,00 – 7,00]
< 0,001
pH tinh dịch
7,50 
[6,00 – 8,50]
7,50 
[0,00 – 9,00]
< 0,001
Thể tích tinh hoàn trung 
bình (ml)
17,5 
[2,83 – 50,3]
10,2 
[0,40 – 46,6]
< 0,001
Bất thường kích thước 
tinh hoàn
< 0,001
Tinh hoàn 2 bên < 12 ml 14,0 47,2
Tinh hoàn 1 bên < 12 ml 31,9 24,5
Tinh hoàn 2 bên > 12 ml 52,5 24,8
GTNN: Giá trị nhỏ nhất, GTLN: Giá trị lớn nhất
Các chỉ số nội tiết, thể tích tinh hoàn trung bình, thể tích và pH tinh dịch đều có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê khi so sánh giữa nhóm vô sinh không có tinh trùng và vô sinh có tinh trùng. 
3. Sự khác biệt giữa nhóm vô sinh nguyên phát và vô sinh thứ phát chưa rõ nguyên nhân 
có tinh trùng trong tinh dịch
Trong số 1.045 nam giới vô sinh có tinh trùng không tìm thấy nguyên nhân, chúng tôi nhận thấy 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ nội tiết, các chỉ số tinh dịch đồ, thể tích tinh 
hoàn giữa nhóm vô sinh nguyên phát và vô sinh thứ phát. Nhóm vô sinh thứ phát có thời gian chậm 
con dài hơn, tuy nhiên tần số quan hệ tình dục lại ít hơn so với nhóm vô sinh thứ phát (Bảng 4)
Bảng 4. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng giữa nhóm vô sinh nguyên phát và vô sinh thứ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
125TCNCYH 125 (1) - 2020
phát chưa rõ nguyên nhân có tinh trùng trong tinh dịch (n = 1045)
Vô sinh nguyên phát
(n = 776)
Vô sinh thứ phát
(n = 269)
Giá trị p
Trung vị 
[GTNN - GTLN]
 %
Trung vị 
[GTNN - GTLN]
 %
Tuổi
30,0 
[20,0 – 53,0]
36,0 
[24,0 – 59,0]
< 0,001
Thời gian chậm con (tháng)
18,0 
[12,0 – 240]
24,0 
[12,0 – 132]
 0,008
Tần số quan hệ tình dục 
(lần/tuần)
2,50 
[0,00 – 10,0]
2,00 
[0,00 – 7,00]
< 0,001
Tỷ lệ hút thuốc lá 25,7 32,9 0,041
BMI (kg/m2)
22,5 
[10,5 – 31,2]
22,8 
[16,5 – 29,7]
 0,033
LH (mIU/ml)
4,25 
[0,81 – 57,3]
4,27 
[1,04 – 21,5]
 0,939
FSH (mIU/ml)
4,17 
[0,40 – 56,6]
4,60 
[0,70 – 40,5]
 0,090
Testosterone (nmol/l)
15,4 
[3,10 – 52,1]
15,3 
[3,56 – 52,1]
 0,274
Thể tích tinh dịch (ml)
2,90 
[0,10 – 8,20]
2,90 
[0,20 – 6,90]
 0,469
pH tinh dịch
7,50 
[6,00 – 8,50]
7,50 
[6,00 – 8,50]
 0,577
Mật độ tinh trùng (triệu/ml)
58,0 
[0,05 – 259]
72,0
[0,05 – 197]
 0,112
Tỷ lệ tinh trùng di động tiến 
tới (%)
43,0 
[0,00 – 90,0]
47,0 
[0,00 – 83,0] 
 0,186
Tỷ lệ tinh trùng bình thường 
(%)
7,00 
[0,00 – 33,0]
7,00 
[0,00 – 34,0]
 0,339
Thể tích tinh hoàn trung 
bình (ml)
13,3 
[3,43 – 33,2]
12,7 
[2,49 – 32,1]
 0,978
GTNN: Giá trị nhỏ nhất, GTLN: Giá trị lớn nhất
IV. BÀN LUẬN 
Vô sinh ở nam giới có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên ở Việt Nam gần như 
không có nghiên cứu nào được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ thường gặp của các nguyên nhân 
vô sinh ở nam giới. Trên thế giới, tỷ lệ vô sinh nam không rõ nguyên nhân chỉ chiếm khoảng 30 - 
40%.¹ Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ này lên đến 67,5% (Bảng 2). Khác biệt trên chủ yếu đến 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
126 TCNCYH 125 (1) - 2020
từ một số nguyên nhân gây vô sinh hiện khó 
chẩn đoán cũng như ít gặp ở Việt Nam (như vô 
sinh do ung thư tinh hoàn, leucemia, hội chứng 
Kallmann và một số yếu tố khác). Bên cạnh 
đó, đối với những bệnh nhân có tinh dịch đồ 
bình thường ít khi có chỉ định đánh giá các bất 
thường về di truyền, trong khi khoảng 30 - 60% 
các trường hợp vô sinh không rõ hoặc chưa 
tìm ra nguyên nhân nghi ngờ có yếu tố liên 
quan đến di truyền.⁹ Mặc dù vậy, đối với một số 
nguyên nhân thường gặp như giãn tĩnh mạch 
tinh, bất thường nhiễm sắc thể, suy sinh dục 
thứ phát (Bảng 2) không có sự khác biệt nhiều 
về tỷ lệ mắc so với các nghiên cứu khác.1,10 Vô 
sinh không có tinh trùng chỉ chiếm 20,8% tuy 
nhiên đến 80,9% tìm thấy nguyên nhân, khá 
tương đồng với nghiên cứu trên 1.737 nam giới 
vô sinh trong vòng 9 năm của Punab và cộng 
sự.² Kết quả trên cho thấy không có sự khác 
biệt nhiều về tỷ lệ các nguyên nhân gây vô sinh 
có thể tìm thấy ở Việt Nam so với các nghiên 
cứu khác trên thế giới.
Nguyên nhân dẫn đến vô sinh có sự khác 
biệt giữa nhóm bệnh nhân có tinh trùng và 
không có tinh trùng. Một số nguyên nhân như 
suy sinh dục nguyên phát, tắc đường dẫn tinh 
và bất thường di truyền chỉ gặp chủ yếu ở bệnh 
nhân vô sinh không có tinh trùng; trong khi ở 
nhóm bệnh nhân vô sinh có tinh trùng, giãn tĩnh 
mạch tinh là nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Trên lâm sàng, giãn tĩnh mạch tinh ảnh hưởng 
rất nhiều đến chất lượng tinh trùng tuy nhiên 
đây lại được xem là một trong những nguyên 
nhân gây vô sinh có thể điều trị được.⁵ Đặc biệt 
đối với các bệnh nhân không có tinh trùng trong 
tinh dịch, sau khi loại trừ hết các nguyên nhân, 
việc phẫu thuật thắt tĩnh mạch tinh có thể giúp 
tăng tỷ lệ tìm thấy tinh trùng trong tinh hoàn, hỗ 
trợ điều trị các trường hợp này.⁵ 
Mặc dù chỉ gặp với tỷ lệ ít hơn 1% đối với 
nam giới có tinh dịch đồ bình thường, 10 - 15% 
với nam giới vô sinh không có tinh trùng,9 tuy 
nhiên việc phát hiện bất thường về nhiễm sắc 
thể có vai trò quyết định trong chẩn đoán và tiên 
lượng vô sinh. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
80% các trường hợp bất thường nhiễm sắc thể 
gây ra vô sinh không có tinh trùng, đặc biệt là 
bất thường liên quan đến nhiễm sắc thể giới 
tính (hội chứng Klinefelter; hội chứng siêu nam 
công thức karyotype 47,XYY; người nam công 
thức karyotype 46,XX). Chuyển đoạn nhiễm 
sắc thể khá thường gặp ở bệnh nhân vô sinh 
nam có bất thường về di truyền, dẫn đến tình 
trạng mất cân bằng vật chất di truyền trong quá 
trình hình thành giao tử ở nam giới.⁹ Bên cạnh 
đó, tỷ lệ bệnh nhân có mất đoạn nhỏ trên nhiễm 
sắc thể Y trong nghiên cứu lần lượt là 1,4% và 
3,5% ở các bệnh nhân vô sinh có tinh trùng và 
không có tinh trùng (Bảng 2), các đột biến này 
tùy theo mức độ sẽ dẫn tới tình trạng thiểu tinh 
nặng đến không có tinh trùng trong tinh dịch.¹ 
Đối với nam giới vô sinh, không có tinh 
trùng trong tinh dịch được xem là trường hợp 
đặc biệt đòi hỏi đánh giá tổng thể trước khi điều 
trị. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy giữa hai 
nhóm bệnh nhân vô sinh có tinh trùng và không 
có tinh trùng có sự khác biệt một cách rõ rệt về 
nhiều chỉ số xét nghiệm: nồng độ LH và FSH 
huyết thanh cao hơn rất nhiều ở nhóm không 
có tinh trùng, trong khi thể tích tinh hoàn, nồng 
độ testosterone huyết thanh, thể tích tinh dịch 
lại thấp hơn một cách có ý nghĩa thông kê khi 
so sánh với nhóm vô sinh có tinh trùng (Bảng 
3). Chỉ có gần 28% bệnh nhân vô sinh không 
có tinh trùng trong nghiên cứu nghi ngờ do tắc 
(Bảng 2), các trường hợp không do tắc thường 
kèm theo suy giảm đáng kể chức năng tinh 
hoàn phản ánh qua những bất thường về nội 
tiết và thể tích tinh hoàn.11
Các trường hợp vô sinh thứ phát thường 
được tiên lượng tốt hơn vô sinh nguyên phát,¹ 
tuy nhiên nguyên nhân dẫn tới vô sinh của hai 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
127TCNCYH 125 (1) - 2020
nhóm trên gần như không có sự khác biệt.12 Đối 
với những trường hợp vô sinh chưa rõ nguyên 
nhân, không có sự khác biệt về nồng độ nội tiết 
tố (LH, FSH, testosterone), thể tích tinh hoàn 
trung bình, các thông số tinh dịch đồ (mật độ, tỷ 
lệ di động tiến tới, tỷ lệ hình thái bình thường) 
giữa nhóm vô sinh nguyên phát và vô sinh thứ 
phát (Bảng 4). Tuổi và thời gian vô sinh trung 
bình của nhóm vô sinh thứ phát lớn hơn một 
cách có ý nghĩa thống kê (Bảng 4). Tuổi càng 
cao, càng có nhiều yếu tố tác động đến khả 
năng sinh sản của nam giới, tuy nhiên cơ chế 
tác động tới chất lượng tinh trùng, ảnh hưởng 
đến chức năng tình dục, làm kéo dài thời gian 
chậm con và giảm khả năng sinh sản liên quan 
đến tuổi còn chưa rõ ràng.12
V. KẾT LUẬN
Vô sinh nam giới có thể do nhiều nguyên 
nhân trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là giãn tĩnh 
mạch tinh (9,3%), tiền sử viêm tinh hoàn do quai 
bị (5,6%), suy sinh dục nguyên phát (4,4%). Tỷ 
lệ phát hiện các bất thường về di truyền chiếm 
tổng cộng 7,2%. Mặc dù vậy có đến 67,5% các 
trường hợp vô sinh nam chưa tìm thấy nguyên 
nhân rõ ràng do thiếu công cụ chẩn đoán cũng 
như hạn chế trong việc chỉ định xét nghiệm di 
truyền đối với những trường hợp không có bất 
thường về tinh dịch đồ. 
Các trường hợp vô sinh không có tinh trùng 
mặc dù chỉ chiếm 20,8% tuy nhiên đến 80,9% 
xác định được nguyên nhân nhờ việc đánh giá 
toàn diện có hệ thống. Vô sinh không có tinh 
trùng phần lớn không do tắc đường dẫn tinh 
mà thường do suy giảm chức năng tinh hoàn 
dẫn tới sự khác biệt lớn về nội tiết, thể tích tinh 
hoàn, cũng như các chỉ số khác so với nhóm vô 
sinh có tinh trùng. 
Trong khi đó, đối với những trường hợp vô 
sinh có tinh trùng chưa rõ nguyên nhân, không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các chỉ 
số cận lâm sàng giữa hai nhóm vô sinh nguyên 
phát và vô sinh thứ phát. 
Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến 
những bệnh nhân và tập thể cán bộ nhân viên 
thuộc Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất Tùng 
cũng như Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cũng như 
Bộ môn Y Sinh học - Di truyền Trường Đại học 
Y Hà Nội đã hết lòng hỗ trợ chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jungwirth A, Diemer T, Kopa Z, Krausz C, 
Minhas S, Tournaye H. EAU Guidelines on Male 
Infertility 2018. In: European Association of 
Urology Guidelines. 2018 Edition. Vol presented 
at the EAU Annual Congress Copenhagen 
2018. Arnhem, The Netherlands: European 
Association of Urology Guidelines Office; 2018.
2. Punab M, Poolamets O, Paju P, et al. 
Causes of male infertility: a 9 - year prospective 
monocentre study on 1737 patients with 
reduced total sperm counts. Hum Reprod. 
2017;32(1):18 - 31.
3. Ferlin A, Garolla A, Ghezzi M, et al. 
Sperm Count and Hypogonadism as Markers 
of General Male Health. Eur Urol Focus. 2019.
4. Rowe PJ, Comhaire FH, Hargreave TB, 
Mellows HJ, World Health O. WHO manual for 
the standardized investigation and diagnosis of 
the infertile couple / Patrick J. Rowe ... [et al.]. 
In: Cambridge, Mass. : Cambridge University 
Press; 1993.
5. Jensen CFS, Ostergren P, Dupree JM, 
Ohl DA, Sonksen J, Fode M. Varicocele and 
male infertility. Nat Rev Urol. 2017;14(9):523 - 
533.
6. Dubin L, Amelar RD. Varicocele size and 
results of varicocelectomy in selected subfertile 
men with varicocele. Fertility and Sterility. 
1970;21(8):606 - 609.
7. Cooper TG, Noonan E, von Eckardstein 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
128 TCNCYH 125 (1) - 2020
Summary
STUDY ON CAUSES OF MALE INFERTILITY
Approximatly 15% of couples is infertile and half of these cases came from male problems. 
Male infertility derives from many causes, however, the diagnosis and treatment of male-
infertility-associated factors have been neglected, leading to ineffective interventions in patient. 
A 6-year cross-sectional study conducted at Hanoi Medical University’s Hospital showed that 
the prelevence of infertility men was 11.7%. In 1,649 men enrolled for final analysis, 67.5% 
are classified as idiopathic infertility of which 80.0% are non-azoospermia. The proportion of 
azoospermia was 20.8% and 80.9% of them had clearly associated factors. The significant 
differences of clinical and laboratorial parameters were found between azoospermia and non- 
azoospermia group. Semen analysis result, serum hormones and testicular ultrasound volume 
of primary and secondary idiopathic infertility were not statistically different. In conclusion, cause 
diagnosis plays an inportant role in treatment of male infertility, especialy with azoospermia.
Keywords: Male infertilty, Azoospermia, AZF deletions, Varicocele.
S, et al. World Health Organization reference 
values for human semen characteristics. Hum 
Reprod Update. 2010;16(3):231 - 245.
8. Condorelli R, Calogero AE, La Vignera 
S. Relationship between Testicular Volume 
and Conventional or Nonconventional 
Sperm Parameters. Int J Endocrinol. 
2013;2013:145792.
9. Flannigan R, Schlegel PN. Genetic 
diagnostics of male infertility in clinical 
practice. Best Pract Res Clin Obstet Gynaecol. 
2017;44:26 - 37.
10. Olesen IA, Andersson AM, Aksglaede L, 
et al. Clinical, genetic, biochemical, and testicular 
biopsy findings among 1,213 men evaluated for 
infertility. Fertil Steril. 2017;107(1):74 - 82 e77.
11. Practice Committee of the American 
Society for Reproductive Medicine in 
collaboration with the Society for Male R, 
Urology. Evaluation of the azoospermic male: a 
committee opinion. Fertil Steril. 2018;109(5):777 
- 782.
12. Katib AA, Al–Hawsawi K, Motair W, 
Bawa AM. Secondary infertility and the aging 
male, overview. Central European Journal of 
Urology. 2014;67(2):184 - 188.

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_cac_nguyen_nhan_gay_vo_sinh_o_nam_gioi.pdf