Tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán của trường Đại học Tài chính-Marketing
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá quá trình tích hợp các chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC)
quốc tế (IFRS) vào chương trình đào tạo (CTĐT) chuyên ngành kế toán, kiểm toán của trường
Đại học Tài chính – Marketing và đánh giá nhận thức của giảng viên, sinh viên của Khoa Kế toán
– Kiểm toán về vấn đề này, đồng thời nghiên cứu cũng phân tích các nguồn lực cần thiết cho quá
trình tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phỏng vấn với
bảng hỏi được xây dựng dựa trên lý thuyết nền CIF và các nghiên cứu trước để đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo gồm: yếu tố giai đoạn tích hợp
IFRS, yếu tố phương pháp giảng dạy, yếu tố nhận thức về rào cản, yếu tố tổ chức bên ngoài. Mẫu
nghiên cứu gồm 32 giảng viên và 142 sinh viên của khoa Kế toán – Kiểm toán trường Đại học Tài
chính – Marketing. Kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách được thực hiện dựa trên các yếu tố
như trong lý thuyết nền CIF
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán của trường Đại học Tài chính-Marketing
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 26 TÍCH HỢP IFRS VÀO CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING INTEGRATING INTERNATIONAL FINANCIAL REPORTING STANDARDS INTO THE ACCOUNTING AND AUDITING CURRICULUM OF THE UNIVERSITY OF FINANCE AND MARKETING Dương Hoàng Ngọc Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Oanh, Ung Hiển Nhã Thi1 Ngày nhận bài: 19/9/2019 Ngày chấp nhận đăng: 09/10/2019 Ngày đăng: 05/06/2020 Tóm tắt Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá quá trình tích hợp các chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế (IFRS) vào chương trình đào tạo (CTĐT) chuyên ngành kế toán, kiểm toán của trường Đại học Tài chính – Marketing và đánh giá nhận thức của giảng viên, sinh viên của Khoa Kế toán – Kiểm toán về vấn đề này, đồng thời nghiên cứu cũng phân tích các nguồn lực cần thiết cho quá trình tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phỏng vấn với bảng hỏi được xây dựng dựa trên lý thuyết nền CIF và các nghiên cứu trước để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tích hợp IFRS vào chương trình đào tạo gồm: yếu tố giai đoạn tích hợp IFRS, yếu tố phương pháp giảng dạy, yếu tố nhận thức về rào cản, yếu tố tổ chức bên ngoài. Mẫu nghiên cứu gồm 32 giảng viên và 142 sinh viên của khoa Kế toán – Kiểm toán trường Đại học Tài chính – Marketing. Kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách được thực hiện dựa trên các yếu tố như trong lý thuyết nền CIF. Từ khóa: Chương trình đào tạo, kế toán - kiểm toán, IFRS, lý thuyết nền CIF. Abstract The objective of the study is to review the process of integrating international financial reporting standards (IFRS) into the accounting and auditing curriculum of the University of Finance and Marketing and assess the awareness of lecturers and students of the Faculty of Accounting and Auditing (FAA) on this issue, and the paper also analyzes the resources required for IFRS integration into the Accounting and Auditing training program. The study used the interview method with the questionnaire built on the CIF framework and previous research, which evaluated factors that impact the integration of IFRS into the training program, including IFRS integrated stage, teaching methodology, awareness of barriers, and external organizations. The research sample consisted of 32 lecturers and 142 students from UFM’s accounting and auditing department. Research results and policy implications are formed based on elements of the CIF background theory. Keywords: Curriculum, Accounting and Auditing, IFRS, CIF framework. ____________________________________________________ 1 Trường Đại học Tài chính – Marketing Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 27 và yêu cầu thông tin trên BCTC phải rõ ràng, có thể so sánh, nhằm giúp những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác ra quyết định kinh tế. IFRS tập trung vào các hướng dẫn, diễn giải chung nhất về cách lập BCTC hơn là thiết lập các quy tắc lập báo cáo ngành cụ thể. Tính đến thời điểm hiện nay, hệ thống chuẩn mực quốc tế gồm 25 IAS và 17 IFRS (IFRS in your pocket, 2019). Trong bài viết này, nhóm tác giả sử dụng thuật ngữ tích hợp IFRS bao hàm tích hợp IAS và IFRS. 2.2. Lý thuyết nền cho việc tích hợp IFRS trong chương trình đào tạo kế toán – kiểm toán Nhiều nhà nghiên cứu như Carr và Mathews (2004), Rebele (2002) đều cho rằng các CTĐT kế toán cần phải đáp ứng với những thay đổi xảy ra trong môi trường, cho phép họ tận dụng các cơ hội mới và tránh những trở ngại tiềm năng. Tuy nhiên, do tính chất ngành nghề kế toán, việc thay đổi chương trình giảng dạy kế toán chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài như người học hay các cơ quan quản lý chuyên môn (Wolf và Hughes, 2007). Điều này cho thấy việc xây dựng hoặc thay đổi một CTĐT cần phải xem xét các yếu tố môi trường liên quan. Nhận định này cũng đã được chứng minh trong nghiên cứu của Fuller (2007), khi tác giả đề cập lý do thất bại của các nỗ lực cải thiện và thay đổi chương trình giảng dạy là do mức độ liên kết thấp của các mục tiêu cũng như sự hiểu biết giữa những người lập kế hoạch, thiết kế thay đổi và những người thực hiện thay đổi. Năm 2015, Albader (2015) đã giới thiệu 4 khuôn khổ về giáo dục và CTĐT để đảm bảo mức độ tập trung vào quá trình thay đổi và thực hiện, gồm: (1) mô hình Học viện Giáo dục Đại học Vương quốc Anh, (2) mô hình chương trình giảng dạy 3P của Biggs (1989, 2003), (3) mô hình khung kỷ luật ba khía cạnh (three-domains discipline) của Barnett và Coate (2005), và (4) Khuôn khổ thực hiện CTĐT (Curriculum Implementation Framework – CIF) của Rogan và Grayson (2003). 1. Giới thiệu Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu về hội tụ kế toán quốc tế ngày càng quan trọng, vì vậy bộ chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế IAS/IFRS đã ngày càng chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Tại Việt Nam, “Chiến lược kế toán – kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 480/2013/QĐ-TTg đã xác định quan điểm là “hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hệ thống chuẩn mực”, “hòa hợp với thông lệ quốc tế”. Theo định hướng của Bộ Tài chính, dự kiến đến 2020, chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) phải được ban hành mới trên cơ sở cập nhật những thay đổi của IFRS. Hiệu lực của VAS/VFRS mới sẽ được bắt đầu từ 1/1/2020. Trong đó, các đơn vị có lợi ích công chúng sẽ dần chuyển đổi từ VAS/VFRS sang IFRS và đến 2025 phải hoàn tất quá trình chuyển đổi. Do đó, nhu cầu đào tạo các kế toán viên có trình độ chuyên môn và hiểu biết về IFRS là yêu cầu tất yếu của các trường đại học và cao đẳng hiện nay, điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải xây dựng chương trình đào tạo (CTĐT) và phương pháp đào tạo kế toán phù hợp với IFRS nhằm cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Do đó, việc nghiên cứu tích hợp IFRS vào CTĐT chuyên ngành kế toán, kiểm toán – nghiên cứu thực nghiệm tại trường Đại học Tài chính – Marketing là cần thiết. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Vài nét về IFRS Giữa những năm 1973 và năm 2000, các nguyên tắc kế toán được biểu hiện là chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) được phát hành. Từ năm 2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) mô tả các nguyên tắc kế toán với tên gọi mới là Chuẩn mực lập BCTC quốc tế, mặc dù các chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn tiếp tục được thừa nhận. Mục tiêu hình thành bộ IFRS của IASB là cung cấp một khuôn khổ quốc tế về cách lập và trình bày BCTC cho các công ty đại chúng nhằm phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 28 cách chương trình giảng dạy, đóng vai trò như một bản đồ chỉ dẫn cho những người tham gia vào giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế thay đổi chương trình giảng dạy, kết hợp các điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức và con người trong tổ chức đó (Rogan và Grayson, 2003). Như vậy, cấu trúc này sẽ giải thích và so sánh các phương pháp khác nhau để áp dụng chương trình giảng dạy mới trong thực tiễn. Thông qua đó, cho phép các nhà hoạch định CTĐT xác định được vị trí và thế mạnh hiện tại của họ, kết hợp với bối cảnh và năng lực của tổ chức để lựa chọn một lộ trình nhằm xây dựng hoặc thay đổi chương trình hiệu quả trong một thời gian dài. Do đó, việc thực hiện một chương trình giảng dạy mới sẽ là một quá trình lâu dài, liên tục, trong đó giảng viên và các cá nhân khác cần nhận thức được điểm xuất phát và khả năng phát triển của mình. Cách tiếp cận này rất phù hợp với khái niệm “lập kế hoạch phát triển” (Hargreaves và Hopkins, 1991), trong đó các thành viên khác nhau trong nhà trường tham gia xây dựng kế hoạch thực hiện thay đổi theo cách phù hợp và khả thi đối với bối cảnh và văn hóa của trường. Nguồn lực hỗ trợ đổi mới (Capacity to support innovation) Một khía cạnh quan trọng của quá trình thay đổi hay đổi mới là việc xem xét cách thức mà sự thay đổi/đổi mới có thể đạt được. Theo Feiter và cộng sự (1995), đối với các sáng kiến cải cách CTĐT, cần phải được thực hiện một cách tuần tự, có hệ thống bằng việc xem xét tất cả các yếu tố liên quan như điều kiện, sự đa dạng của các tổ chức, các vấn đề liên quan đến thực hiện và đảm bảo giám sát liên tục tiến độ trong và sau khi thực hiện. Tầm quan trọng của việc hiểu rõ Nguồn lực hỗ trợ đổi mới xuất phát từ sự khác biệt trong khả năng của các trường đại học khi thực hiện thay đổi một CTĐT và phải thừa nhận rằng không phải tất cả các trường học đều có khả năng thực hiện một sự thay đổi hay đổi mới ở cùng một mức độ như nhau. Trong quá trình chuyển đổi sang IFRS, các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam sẽ cần điều chỉnh chương trình giảng dạy hiện tại của họ nhằm tích hợp IFRS. Mức độ và khả năng tích hợp sẽ phụ thuộc vào các yếu tố cụ thể của tổ chức như quy mô của tổ chức, nguồn lực hiện có, kinh nghiệm và số lượng nhân viên. Do đó, việc xây dựng một khuôn khổ hướng dẫn cho việc thiết kế, thực hiện thay đổi CTĐT theo hướng tích hợp IFRS là điều cần thiết. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng khuôn khổ thứ 4 của Rogan và Grayson (2003). Rogan và Grayson (2003) đã đề xuất một lý thuyết về việc thực hiện chương trình giảng dạy dựa trên ba cấu trúc chính, đó là “hồ sơ thực hiện”, “nguồn lực hỗ trợ đổi mới”, “hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài”. Các cấu trúc này có chung ba đặc điểm quan trọng: (i) chúng có thể được đo lường bằng các chỉ số, (ii) chúng có thể bao gồm nhiều yếu tố liên quan nhưng vẫn phản ánh đầy đủ nội dung của yếu tố chính (Rogan và Grayson, 2003). Thực hiện chương trình đào tạo Hồ sơ thực hiện Nguồn lực hỗ trợ đổi mới Hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài Nguồn: Rogan và Grayson, 2003 Hình 1. Mô hình CIF Hồ sơ thực hiện (Profile of implementation) Xét về bản chất, hồ sơ thực hiện được xem như là một nỗ lực để hiểu và thể hiện mức độ lý tưởng mà các đề xuất chương trình giảng dạy đang được đưa vào thực tế. Theo đó, mỗi giáo viên sẽ có nhiều cách khác nhau để đưa một chương trình giảng dạy vào hoạt động. Hồ sơ thực hiện là điểm bắt đầu của quá trình cải Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 29 vững chắc sẽ ảnh hưởng lớn đến mức độ tự tin, cam kết thay đổi và sẵn sàng tham gia các hoạt động đào tạo của giảng viên. Bên cạnh đó, nhận thức của giảng viên về bản thân, quá trình nghiên cứu cũng như mức độ mà họ tin tưởng ở sự hỗ trợ đối với một sự đổi mới/ thay đổi trong nhà trường được chứng minh là đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến mức độ thích ứng của giáo viên với các thay đổi mới và việc sử dụng các giáo trình, tài liệu mới (Pintó và cộng sự, 2005). Khía cạnh thứ ba ảnh hưởng đến việc thực hiện một CTĐT mới đó là người học. Nghiên cứu của Rogan và Grayson (2003) nhấn mạnh đến các vấn đề như gia đình, cam kết học tập, tính kỷ luật của người học và sự thành thạo trong ngôn ngữ giảng dạy. Trong một nghiên cứu của Bui và Porter (2010), thông qua khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy tầm quan trọng của sự sẵn sàng để thay đổi phương pháp của sinh viên. Theo đó, sự nhiệt tình và chủ động để tiếp cận với phương pháp dạy và học mới của sinh viên sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ sẵn sàng áp dụng các phương pháp giảng dạy mới của giảng viên. Khía cạnh cuối cùng liên quan đến môi trường và cơ chế quản lý của tổ chức giáo dục. Một bộ máy quản lý xáo trộn, rối loạn chức năng sẽ là hạn chế lớn cho sự đổi mới/thay đổi CTĐT. Một số nghiên cứu khác cũng đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng tới sự đổi mới trong đào tạo kế toán. Howieson (2003) đã đưa ra bốn yếu tố đại diện cho các rào cản đối với bất kỳ sự thay đổi nào liên quan đến đào tạo kế toán, gồm: yếu tố đầu tiên liên quan đến mức độ nhận thức thấp của giảng viên và lãnh đạo nhà trường về ý nghĩa và sự cần thiết của sự thay đổi; yếu tố thứ hai là sự khan hiếm tài nguyên và vật chất, dẫn đến ít cơ hội cho phát triển và đổi mới; yếu tố thứ ba là sự thiếu nhận thức về chất lượng giảng dạy so với hoạt động nghiên cứu trong hệ thống của hầu hết các trường đại học, yếu tố thứ tư liên quan đến thời gian đào tạo, trong đó, các chương trình dài hạn (từ 3 đến 4 năm) có nhiều Nguồn lực hỗ trợ đổi mới được xem là một nỗ lực để hiểu và xây dựng các yếu tố có thể hỗ trợ hoặc cản trở việc thực hiện các ý tưởng và phương pháp mới trong một hệ thống, trong đó có trường học (Rogan và Grayson, 2003). Các khía cạnh để đánh giá và đo lường “Nguồn lực hỗ trợ đổi mới” của một tổ chức do Rogan và Grayson (2003) giới thiệu được phân loại theo bốn nhóm: (1) nguồn lực vật chất, (2) yếu tố liên quan đến giáo viên, (3) yếu tố liên quan đến người học và (4) môi trường và cơ chế quản lý của nhà trường. Nguồn lực vật chất là yếu tố chính ảnh hưởng đến “Nguồn lực hỗ trợ đổi mới” của một tổ chức. Nguồn lực và điều kiện kém có thể hạn chế việc thực hiện một ý tưởng hay phương pháp mới (Howieson, 2003), làm suy yếu các nỗ lực tập trung học tập của người học, giới hạn khả năng của người dạy trong việc truyền đạt các khái niệm (Rogan và Grayson, 2003). Các yếu tố liên quan đến nguồn lực vật chất trong đào tạo có thể là tài liệu, giáo trình giảng dạy, cơ sở hạ tầng, thiết bị hỗ trợ và ngân hàng các tình huống (Ball và Cohen, 2000; Rogan và Grayson, 2003). Liên quan đến giảng dạy IFRS, việc thiếu tài nguyên giảng dạy có chất lượng cũng có thể là một trở ngại lớn đối với quá trình tích hợp IFRS vào CTĐT ở các trường đại học (Albader, 2015). Hiệp hội kế toán Hoa Kỳ và KPMG đã từng phối hợp thực hiện một khảo sát trên 535 khoa kế toán tại các trường đại học, kết quả là 62% khoa đào tạo đã không nỗ lực để tích hợp IFRS vào CTĐT của họ. Sự thiếu nỗ lực này có thể là do các giảng viên chưa sẵn sàng để đối đầu với các thay đổi, đặc biệt là nguồn lực hạn chế (tài liệu giảng dạy) do ngân sách eo hẹp (Singer, 2012). Khía cạnh thứ hai liên quan đến giảng viên, bao gồm các yếu tố về đào tạo, mức độ tự tin của giảng viên và cam kết giảng dạy của họ. Jackling và cộng sự (2013) chỉ trích vai trò thụ động, không muốn thay đổi phương pháp sư phạm của các giảng viên kế toán tại Úc trước và sau khi áp dụng IFRS tại quốc gia này. Có thể thấy rõ, nền tảng kiến thức chuyên môn Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 30 IFRS thông qua vai trò của họ trong việc cung cấp các CTĐT và các khóa cập nhật kiến thức chuyên môn thường xuyên (CPD - Continuing Professional Development). Nghiên cứu Smylie (1997), Ball và Cohen (1996), Curuk và Dogan (2002), Yildiz và Durak (2011), Kutluk và cộng sự (2012) cho rằng để tăng hiệu quả của phát triển chuyên môn trong quá trình thực hiện chương trình giảng dạy mới, các hoạt động phát triển chuyên môn phù hợp liên quan đến chương trình giảng dạy mới cần được xác định. Quá trình chuyển ... ớc chuẩn bị như phân công giảng viên giảng dạy IFRS, lập kế hoạch hỗ trợ kinh phí đào tạo cho giảng viên Trên thực tế, các môn học có tích hợp một phần nội dung 1. Mức độ hiểu biết về nhu cầu phải thay đổi CTĐT để đáp ứng quá trình chuyển đổi IFRS của lãnh đạo đơn vị SL Tỷ lệ 2. Lãnh đạo đơn vị công tác đã có kế hoạch gì để đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS (được lựa chọn nhiều phương án) SL Tỷ lệ Trung bình 13 40,63 Có kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho việc biên soạn tài liệu giảng dạy 5 15,63 Cao 9 28,13 Mời giảng viên giảng các chuyên đề về IFRS 7 21,88 Rất cao 7 21,88 Tuyển giảng viên mới am hiểu về IFRS, đồng thời đào tạo giảng viên hiện tại 8 25,00 Tổng cộng 32 100 Chưa có kế hoạch 8 25,00 Mean = 3.59, Std.Deviation = 1.012 Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả Bảng 13. Nhận thức của giảng viên, sinh viên về thách thức/rào cản của việc giảng dạy IFRS Nhận thức về rào cản của giảng viên Nhận thức về rào cản của sinh viên N Mean Std. Deviation N Mean Std. Deviation Thiết kế một phần riêng cho IFRS trong CTĐT. 32 3.44 .982 Tài liệu học tập, nghiên cứu IFRS 142 3.28 1.041 Phát triển tài liệu phục vụ giảng dạy IFRS 32 3.53 1.164 Trình độ giảng viên giảng dạy IFRS 142 3.44 .993 Nguồn lực tài chính hỗ trợ 32 4,00 ,842 Năng lực tiếng anh 142 3,73 ,974 Đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS 32 3,88 1,157 Quy mô lớp học đông 142 3,67 ,980 Xác định thời điểm để bắt đầu giảng dạy IFRS 32 3,53 1,135 Chuyên gia về IFRS 32 3,50 ,803 Năng lực tiếng anh 32 3,72 1,085 Quy mô lớp học đông 32 3,91 ,893 Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 38 Nguồn lực tài chính hỗ trợ cùng với việc đào tạo giảng viên là hai trong những yếu tố mà đơn vị đào tạo cần xem xét khi tiến hành thay đổi CTĐT theo hướng tích hợp IFRS. Đặc điểm của IFRS là bộ chuẩn mực được thiết kế dựa trên các nguyên tắc. Do đó, thách thức cơ bản trong giảng dạy và đào tạo IFRS là việc người dạy ngoài trang bị tốt kiến thức để giảng dạy IFRS bằng phương pháp nguyên tắc (nhấn mạnh vào các khái niệm cơ bản thay vì các quy tắc hạch toán, giúp cho sinh viên có khả năng phát hiện và tự tìm ra các giải pháp), thì còn cần có thêm kinh nghiệm thực tế. Tuy nhiên, hầu hết các giảng viên kế toán hiện nay chưa đầu tư để có thêm các chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPA, CIMA, Trong đó, lý do về kinh phí đào tạo là một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng này. Rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại không nhỏ. IFRS được biên soạn bằng tiếng Anh; trong khi đó khả năng đọc, hiểu ngôn ngữ này của sinh viên và giảng viên còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, các giáo trình và tài liệu về IFRS bằng Tiếng Việt hiện nay hầu như không có và cũng không kịp cập nhật với những thay đổi của IASB. Điều này chính là trở ngại không nhỏ cho các giảng viên và sinh viên khi muốn đi sâu tìm hiểu về IFRS cũng như các văn bản hướng dẫn liên quan của bộ chuẩn mực này. Bảng 13 cho thấy, giảng viên cho rằng thách thức, rào cản lớn nhất khi giảng dạy IFRS bao gồm nguồn lực tài chính hỗ trợ cho quá trình giảng dạy (mean = 4,00), quy mô lớp học đông (mean = 3,91), đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS (mean = 3,88), và năng lực tiếng anh (mean = 3,72). Đối với sinh viên chưa nhận thức rõ được những thách thức sẽ gặp phải khi quá trình tích hợp IFRS trong giảng dạy diễn ra (mean < 4,0). Thách thức lớn nhất được sinh viên đánh giá là năng lực tiếng anh (mean = 3,73), kế tiếp là quy mô lớp học đông (mean = 3,67). Quy mô lớp học đông là trở ngại lớn được nhận định bởi cả hai đối tượng giảng viên và sinh viên. Lớp học đông có thể gây ra những áp lực về mặt thời gian cho giảng viên để có thể bao quát đầy đủ các chủ đề, mục tiêu bài học đồng thời có thể tương tác, thảo luận với sinh viên. Đây cũng được xem là một trong những trở ngại lớn đối với người dạy và người học khi áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại như phương pháp tình huống, học qua vấn đề và thực hành mô phỏng. Thực tế tại trường Đại học Tài chính – Marketing, ngoài các lớp hệ chất lượng cao, phần lớn các lớp hệ đại trà đang được giảng dạy với mô hình lớp học đông, trung bình 70 – 80 sinh viên/lớp. Điều này khiến giảng viên khó có thể tương tác với toàn bộ sinh viên cũng như theo dõi, đánh giá mức độ tiếp thu, khả năng thực hành của từng người học. Bảng 14. Đánh giá mức độ hữu ích của tài liệu giảng dạy IFRS Nội dung Giảng viên Sinh viên Tổng cộng SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ Câu hỏi và bài tập thực hành 2 6,25 22 15,49 24 13,79 Giáo trình 17 53,13 41 28,87 58 33,33 Slides trình chiếu 0 0,00 6 4,23 6 3,45 Tình huống thực tế 13 40,63 72 50,70 85 48,85 Videos 0 0,00 1 0,70 1 0,57 Tổng cộng 32 100 142 100 174 100 Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 39 IFRS, trong khi đó 36,5% giảng viên đã từng tham gia các khóa học về IFRS. Tỷ lệ này còn khá thấp, do đó, giảng viên cần tham gia vào các chương trình CPD về IFRS nhiều hơn. Điều này đồng nghĩa với việc cần nhiều nỗ lực và sự tham gia từ các tổ chức học thuật, hiệp hội nghề nghiệp để hỗ trợ các sáng kiến thay đổi CTĐT tại các trường đại học. 4.4. Hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài Hoạt động CPD liên quan đến giảng dạy IFRS Kết quả nghiên cứu ở bảng 16 cho thấy chỉ 15,63% giảng viên chưa tham gia bất kỳ hoạt động CPD nào liên quan đến IFRS, 78,13% giảng viên đã tham gia ít nhất một hội thảo về Bảng 15. Nỗ lực cá nhân được thực hiện nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức về IFRS Nội dung (Được lựa chọn nhiều phương án) Giảng viên SL Tỷ lệ Tham gia hội thảo về IFRS 25 78,13% Tham gia học các khóa học về IFRS 12 37,50% Tôi chưa tham gia bất kỳ hoạt động CPD nào liên quan đến giảng dạy IFRS 5 15,63% Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả Hoạt động hỗ trợ khác Bảng 16. Hoạt động hỗ trợ khác của các tổ chức bên ngoài N Mean Std. Deviation Cung cấp các tình huống nhằm so sánh, đối chiếu giữa IFRS và VAS Việt Nam 174 4.09 .848 Cung cấp ngân hàng câu hỏi cùng đáp án 174 4.06 .806 Cung cấp các hội thảo về IFRS và giảng dạy IFRS 174 4.09 .848 Cung cấp chương trình đạo tạo giảng viên giảng dạy IFRS 174 4.25 .784 Cung cấp tài liệu giảng dạy IFRS phiên bản tiếng Việt 174 4.22 .782 Cung cấp chứng nhận về IFRS cho các CTĐT IFRS tại các trường đại học 174 4.10 .783 Cung cấp bản dịch chuẩn mực sang tiếng Việt 174 4.20 .898 Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả Kết quả khảo sát cho thấy các giảng viên mong muốn các tổ chức bên ngoài sẽ đóng góp và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đào tạo IFRS (mean > 4.0 ở tất cả các nội dung). Trong đó, nhu cầu về CTĐT giảng viên được đánh giá cao nhất (mean = 4.25). Bên cạnh đó, các giảng viên hi vọng các tổ chức học thuật, hiệp hội nghề nghiệp có thể hỗ trợ cung cấp nguồn tài liệu giảng dạy IFRS phiên bản tiếng Việt (mean = 4.22) và cung cấp bản dịch chuẩn mực (mean = 4.20). 5. Kết luận và hàm ý chính sách 5.1. Kết luận Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, giảng viên và sinh viên khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học Tài chính - Marketing chuẩn bị sẵn sàng cho quá trình tích hợp IFRS vào CTĐT; đánh giá cao đối với các phương pháp sư phạm lấy người học làm trung tâm, phương pháp tình huống và phương pháp khuôn mẫu lý thuyết, các khái niệm của IFRS trước khi vào Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 40 Tăng cường nhận thức về phương pháp giảng dạy hiện đại: khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học Tài chính - Marketing có thể tổ chức các lớp tập huấn để hướng dẫn giảng viên nhanh chóng chuyển đổi từ phương pháp giảng dạy kế toán dựa trên quy tắc như hiện nay sang phương pháp giảng dạy kế toán dựa trên nguyên tắc. Mời các chuyên gia đào tạo IFRS tập huấn cho giảng viên về đào tạo IFRS, hướng đến mô hình đào tạo kế toán gắn liền với IFRS trong thời gian sắp tới. Tăng cường nguồn lực hỗ trợ đổi mới: Nâng cao năng lực tiếng Anh của giảng viên và sinh viên, có thể xem xét phương án sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy chính bởi phần lớn tài liệu IFRS sẵn có được biên soạn bằng tiếng Anh, do đó có thể hiểu rõ được bản chất dựa trên nguyên tắc của IFRS mà không bị phụ thuộc vào chất lượng bản dịch. Kết hợp hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài: khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học Tài chính - Marketing cần có sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức nghề nghiệp như ACCA, CPA, CIMA và được sự tài trợ của các tổ chức nghề nghiệp trong việc đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS và nguồn tài liệu IFRS. các nguyên tắc; các cấp lãnh đạo bộ môn và khoa có sự chuẩn bị tốt cho việc đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS; và sự hỗ trợ của các tổ chức nghề nghiệp như ACCA, CPA, CIMA trong việc đào tạo giảng viên giảng dạy IFRS, cung cấp tài liệu IFRS. 5.2. Hàm ý chính sách Với thực trạng công tác đào tạo kế toán, kiểm toán của khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học Tài chính - Marketing hiện nay, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp dựa trên cấu trúc mô hình CIF để có thể thúc đẩy quá trình tích hợp IFRS vào CTĐT chuyên ngành kế toán, kiểm toán như sau: Hoàn thiện hồ sơ thực hiện thay đổi: Khoa KTKT-UFM cần xây dựng kế hoạch chuẩn bị, tăng cường tuyên truyền cho sinh viên về tính cấp thiết và lợi ích mà IFRS mang lại cho cơ hội nghề nghiệp trong tương lai thông qua các hội thảo, báo cáo chuyên đề, sinh hoạt nhóm xây dựng CTĐT cần có sự tham chiếu, so sánh với các trường đại học trong nước và trên thế giới, và các tổ chức nghề nghiệp để tích hợp cao nhất các nội dung của IFRS. TÀI LIỆU THAM KHẢO Albader, M. 2015. Transition to IFRS and its Implications for Accounting Education in Saudi Arabia, (May). Alqahtani S. 2010.The Relevance of IFRS for Saudi Arabia: Stakeholders Perspective. PhD Thesis, Stirling University, UK. Ball, DL & Cohen, DK. 2000. ‘Challenges of improving instruction: a view from the classroom’, in T Duggan and M Holmes (eds), Closing the gap. Council for Basic Education, Washington, DC, pp. 28-38 Barnett, R & Coate, K. 2005. Engaging the curriculum in higher education, The Society for Research Into Higher Education, McGraw-Hill Education, Maidenhead, Berkshire, England Biggs, J. B. 2003. Teaching for Quality Learning at University. Society for Research into Higher Education & Open University Press. Biggs, J. B., & Biggs, J. B. 1989. Higher Education Research & Development Approaches to the Enhancement of Tertiary Teaching Approaches to the Enhancement of Tertiary Teaching, (March 2015), 37–41. Bui, B., & Porter, B. 2010. Accounting Education: An International The Expectation-Performance Gap in Accounting Education: An Exploratory Study The Expectation-Performance Gap in Accounting Education: An Exploratory Study, (March 2013), 37–41. https://doi.org/10.1080/09639280902875556 Carr, S., & Mathews, M. R. 2004. Accounting curriculum change and iterative programme development : a case study Accounting curriculum change and iterative programme development: a case study, 9284 (December). https://doi.org/10.1080/0963928042000310814 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 41 Coetzee, S. A., & Schmulian, A. 2012. A Critical Analysis of the Pedagogical Approach Employed in an Introductory Course to IFRS, 27(1), 83–100. https://doi.org/10.2308/iace-10220 Çürük.T, Doğan.Z. 2002. Muhasebe ders ve içeriklerinin verilme düzeyleri konusunda işletmelerin üniversitelerden taleplerinin tespitine ilişkin bir araştırma Dokuz Eylül Üniversitesi İİBF Dergisi, 17 (1) (2002), pp. 107-126 Feiter, L.D., Vonk, H., & Akker, J.V. 1995. Towards more effective science teacher development in Southern Africa. Fuller, A. 2007. Learning in Communities of Practice, Routledge, London. Hargreaves, D. H., & Hopkins, D. 1991. The Empowered School: The Management and Practice of Development Planning. London: Cassell Educational Limited. https://doi.org/10.1080/0924345930040305 Hilton, S. R., & Johnstone, N. 2013. The IFRS transition and accounting education: A Canadian perspective post-transition. Issues in Accounting Education, 28(2), 253–261. https://doi.org/10.2308/iace-50366 Hodgdon, C., Hughes, S. B., & Street, D. L. 2011. Framework-based Teaching of IFRS Judgements, (December 2014), 37–41. https://doi.org/10.1080/09639284.2011.589587 Howieson, B. 2003. Accounting practice in the new millennium : is accounting education ready to meet the challenge? (Vol. 35). https://doi.org/10.1016/S0890-8389(03)00004-0 IFRS. 2019. IFRS in your pocket 2019. Deloitte. Jackling, B., Lange, P. A. De, & Natoli, R. 2013. Transitioning to IFRS in Australian Classrooms: Impact on Teaching Approaches, 28(2), 263–275. https://doi.org/10.2308/iace-50358 KPMG. 2011. KPMG-AAA 2011 Survey, viewed 12 March 2013, < IFRS/IFRS Faculty/ aaa-kpmg-survey2011. aspx?ReturnUrl= http:// www.kpmguniversityconnection. com/IFRS/IFRSFaculty/aaa-kpmg-survey-2011.aspx>. Kutluk, F. A., Donmez, A., Utku, B. D., & Erdogan, M. 2012. Expectation of Accounting Professionals From Accounting Education: An Antalya Research. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 62, 418–423. https://doi.org/10.1016/j.sbspro.2012.09.068 Penuel, W. R., Fishman, B. J., Yamaguchi, R., & Gallagher, L. P. 2007. What Makes Professional Development Effective? Strategies That Foster Curriculum Implementation. American Educational Research Journal, 44. https://doi.org/10.3102/0002831207308221 Pintó, R., Couso, D., & Gutierrez, R. 2005. Using Research on Teachers ’ Transformations of Innovations to Inform Teacher Education. The Case of Energy Degradation. https://doi.org/10.1002/sce.20042 Porter, AC, Garet, MS, Desimone, LM & Birman, BF. 2003. ‘Providing effective professional development: lessons from the Eisenhower Program’, Science Educator, vol. 12, no. 1, pp. 23-40 Rebele, J. E. 2002. Accounting education’s uncertain environments : descriptions and implications for accounting programmes and accounting education research. Accounting Education, 11(October 2014), 37–41. https://doi.org/10.1080/09639280210153245 Rogan, J. M., & Grayson, D. J. 2003. Towards a theory of curriculum implementation with particular reference to science education in developing countries. International Journal of Science Education, 25(10), 1171–1204. Singer, R. A. 2012. How to Integrate International. American Journal of Business Education, 5(3), 287–292. Smylie, M. A. 1997. From Bureaucratic Control to Building Human Capital : The Importance of Teacher Learning in Education Reform. Arts Education Policy Review, 99. https://doi.org/10.1080/10632919709600769 Wolf, P & Hughes, JC. 2007. Curriculum development in higher education: faculty-driven processes and practices. Jossey-Bass Inc Pub, Wiley, United States Yildiz, F., Durak, G. 2011. In the area of accounting education in universities BSNL Activity Expectations of Small and Medium-sized Enterprises. 49: 37-47
File đính kèm:
- tich_hop_ifrs_vao_chuong_trinh_dao_tao_chuyen_nganh_ke_toan.pdf