Tỉ lệ stress và chiến lược ứng phó của sinh viên y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Stress có tác động tích cực, cũng là chất kích thích giúp chúng ta nỗ lực hơn để vượt qua thử

thách và đạt mục tiêu. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn, stress sẽ gây tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và

tinh thần. Tỉ lệ sinh viên y khoa được chẩn đoán trầm cảm, lo âu tương đối cao. Nghiên cứu này được thực hiện

nhằm khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress của sinh viên ngành Y học dự phòng,

Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm hiểu và đưa ra các can thiệp phù hợp.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 381 sinh viên Y học dự

phòng tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ câu hỏi tự điền được thiết kế gồm 3 phần chính nhằm

đánh giá các dấu hiệu stress (thang đo DASS-21), chiến lược ứng phó khi gặp stress (CSI) và các yếu tố cá nhân,

gia đình, xã hội có liên quan đến việc lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress.

pdf 7 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tỉ lệ stress và chiến lược ứng phó của sinh viên y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỉ lệ stress và chiến lược ứng phó của sinh viên y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Tỉ lệ stress và chiến lược ứng phó của sinh viên y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 48
TỈ LỆ STRESS VÀ CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ CỦA SINH VIÊN Y HỌC DỰ PHÒNG, 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Thái Sang*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Stress có tác động tích cực, cũng là chất kích thích giúp chúng ta nỗ lực hơn để vượt qua thử 
thách và đạt mục tiêu. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn, stress sẽ gây tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và 
tinh thần. Tỉ lệ sinh viên y khoa được chẩn đoán trầm cảm, lo âu tương đối cao. Nghiên cứu này được thực hiện 
nhằm khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress của sinh viên ngành Y học dự phòng, 
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm hiểu và đưa ra các can thiệp phù hợp. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 381 sinh viên Y học dự 
phòng tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ câu hỏi tự điền được thiết kế gồm 3 phần chính nhằm 
đánh giá các dấu hiệu stress (thang đo DASS-21), chiến lược ứng phó khi gặp stress (CSI) và các yếu tố cá nhân, 
gia đình, xã hội có liên quan đến việc lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress. 
Kết quả: Tỉ lệ sinh viên có dấu hiệu stress, lo âu, trầm cảm lần lượt là 45,5%;63,0%;49,6%. Khi gặp stress, 
sinh viên Y học dự phòng có khuynh hướng lựa chọn chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại nhận thức” và ít khi chọn 
“Bộc lộ cảm xúc”. Sinh viên nữ thường xuyên sử dụng các chiến lược ứng phó “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” hơn 
so với các sinh viên nam. 
Kết luận: Tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên Y học dự phòng khá cao. Phần lớn sinh viên lựa chọn 
các chiến lược mang tính tích cực để ứng phó với stress. Khi xây dựng các chương trình can thiệp, nhà trường 
cần lưu ý đến các yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình, yếu tố xã hội. 
Từ khóa: stress, lo âu, trầm cảm, chiến lược ứng phó với stress 
ABTRACT 
STRESS SITUATION AND COPING STRATEGIES OF PREVENTIVE MEDICINE STUDENTS 
AT UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY AT HO CHI MINH CITY 
Nguyen Thai Sang, Huynh Ho Ngoc Quynh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 48 - 54 
Background: Stress has positive and negative effects. Positive stress protect us from dangerous factors and 
encourage us overcome challenges. However, stress can also be harmful and had negative effect. It influences to 
people’s working ability, physical and metal, even quality of life. This survey was conducted to examine the 
prevalence of stress, anxiety, depression of preventive medicine students and exploring coping strategies they were 
apllied when get stress. 
Methods: A cross-sectional survey was conducted with a total of 381 students participated. The 
questionnaire included 3 main parts: self stress identify (DASS-21 scale), coping strategies (CSI scale) and 
associate factors. 
Results: The prevalence of stress, anxiety and depression were 45.5%; 63%; 49.6% respectively. 
Participants prefered to choose “cognitive restructuring” strategy when getting stress and did not want to 
“express emotion”. Female students tend to apply “social support” strategies compare male students. 
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh ĐT: 0909592426 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 49
Conclusion: The proportion of stress disorder of preventive medicine students is high. The majority of 
students use positive strategies for coping with stress. The choice of coping strategies related to individual, family 
and social factors. 
Key words: stress, anxiety, depression, coping stress, preventive medicine students 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe 
tâm thần thu hút nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt 
là trong môi trường Y khoa, nơi tỉ lệ sinh viên bị 
stress nhiều nhất(1). Nhiều nghiên cứu cho thấy 
rằng tình trạng stress trên thế giới ngày càng 
nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước đang 
phát triển. Các nhà nghiên cứu lĩnh vực Y tế 
công cộng tại Mỹ nhận định rằng có đến 90% các 
bệnh tật và rối loạn sức khỏe tại Mỹ có liên quan 
đến stress. Một nghiên cứu khác được thực hiện 
tại Hàn Quốc ghi nhận rằng tự tử là nguyên 
nhân gây tử vong hàng đầu ở thanh thiếu niên 
Hàn Quốc, trong đó căng thẳng trong học tập là 
một yếu tố nguy cơ chính và có liên quan với 
trầm cảm(2). Ở Việt Nam, báo cáo của Viện Tâm 
Thần Trung Ương vào năm 2013 cho thấy tỉ lệ 
người có rối loạn tâm thần ở Việt Nam chiếm 15-
20% dân số. Stress không chỉ riêng ở lao động, 
stress có cả trong việc học tập(3). Sinh viên Y học 
dự phòng (YHDP) có rất nhiều hạn chế trong 
việc tự đánh giá sự hiểu biết của mình về ngành 
học và định hướng nghề nghiệp(4). Cơ chế tuyển 
dụng đối với mảng Y học dự phòng còn nhiều 
bất cập, dẫn đến nhiều khó khăn cho sinh viên 
YHDP khi tìm nơi làm việc sau khi tốt nghiệp và 
cũng góp phần gây lo âu, căng thẳng cho sinh 
viên YHDP khi còn đang học(5). Hơn nữa các 
nghiên cứu khảo sát tình trạng stress của sinh 
viên YHDP còn rất ít và chưa có nghiên cứu nào 
khảo sát về chiến lược ứng phó với stress trên 
đối tượng sinh viên YHDP. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và tìm 
hiểu các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội liên 
quan đến việc lựa chọn chiến lược ứng phó với 
các tình huống gây stress của sinh viên YHDP. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Trên 381 sinh viên YHDP đồng ý tham gia 
nghiên cứu tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
từ ngày 01/03/2019 đến 01/06/2019. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Cỡ mẫu 
Được tính dựa trên công thức ước lượng cỡ 
mẫu dựa vào một tỉ lệ với p = 0,45 (Tỉ lệ stress 
của sinh viên khoa Y tế công cộng năm 2017 theo 
tác giả Lê Hoàng Thanh Nhung). 
Số mẫu phải lấy mỗi lớp được tính theo kỹ 
thuật chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo lớp. 
Sau khi tính được số sinh viên chọn mỗi lớp, liên 
hệ trực tiếp với lớp trưởng từng lớp để xin danh 
sách mỗi lớp. Sau đó chọn số ngẫu nhiên trên 
phần mềm Excel đúng với số mẫu tương ứng 
mỗi lớp dựa trên danh sách của mỗi lớp. Nhờ 
lớp trưởng thông báo trước đến các bạn được 
chọn để các bạn đến lớp được nhận và tự điền 
bộ câu hỏi. 
Thu thập và phân tích dữ liệu 
Dữ liệu được thu thập gián tiếp thông qua 
bộ câu hỏi tự điền trên giấy. Bộ câu hỏi phỏng 
vấn gồm 3 phần: Thang đo tự cảm nhận stress – 
lo âu – trầm cảm dựa trên thang đo DASS – 21; 
Đánh giá chiến lược ứng phó với stress dựa trên 
thang đo CSI và các yếu tố cá nhân, gia đình, xã 
hội. Cả hai thang đo DASS-21 và CSI đều đã 
được chuẩn hóa tại Việt Nam. Theo thang đo 
DASS-21, sinh viên được xác định là có dấu hiệu 
stress khi điểm số đo lường stress ≥15 điểm; sinh 
viên có dấu hiệu lo âu khi điểm số đo lường lo 
âu ≥8 điểm; sinh viên có dấu hiệu trầm cảm khi 
điểm số đo lường trầm cảm ≥10 điểm. Theo 
thang đo CSI, trong các chiến lược ứng phó với 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 50
stress được sinh viên chọn, chiến lược có điểm 
trung bình cao nhất được xem là chiến lược ứng 
phó được sinh viên sử dụng nhiều nhất. 
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm 
Stata 14. Các số thống kê mô tả được trình bày 
theo dạng tần số và tỉ lệ đối với các biến số định 
tính, trung bình và độ lệch chuẩn đối với biến số 
định lượng. Kiểm định Independent Sample t-
test để so sánh điểm trung bình chiến lược ứng 
phó với các biến nhị giá; kiểm định ANOVA 
được sử dụng để so sánh điểm trung bình cách 
thức ứng phó với các biến số danh định, thứ tự. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Tỉ lệ sinh viên chọn các chiến lược ứng phó 
với stress 
STT Loại ứng phó Tần suất Tỉ lệ (%) 
1 Giải quyết vấn đề 102 26,8 
2 Cấu trúc lại nhận thức 122 32,0 
3 Tìm kiếm chỗ dựa xã hội 70 18,4 
4 Bộc lộ cảm xúc 15 3,9 
5 Lảng tránh vấn đề 26 6,8 
6 Mơ tưởng 73 19,2 
7 Cô lập bản thân 62 16,3 
8 Đổ lỗi cho bản thân 45 11,8 
Nghiên cứu được thực hiện trên 381 sinh 
viên Y học dự phòng với tỉ lệ phản hồi là 100%; 
trong đó tỉ lệ sinh viên có dấu hiệu stress, lo âu, 
trầm cảm lần lượt là 45,5%, 63% và 49,6%. Tỉ lệ 
sinh viên có dấu hiệu stress ở mức độ nặng và 
rất nặng tương đối cao (7,9% và 2,4%). Phần lớn 
đối tượng nghiên cứu có khuynh hướng lựa 
chọn các chiến lược ứng phó mang tính tích cực 
khi gặp stress. Sinh viên lựa chọn chiến lược 
“Cấu trúc lại nhận thức” để ứng phó với stress 
thường xuyên nhất (32,0%). Ngược lại, “Bộc lộ 
cảm xúc” là chiến lược ứng phó mà ít được sinh 
viên lựa chọn nhất (3,9%) (Bảng 1). 
Đối với yếu tố cá nhân, những sinh viên ≤ 20 
tuổi chọn các chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại 
nhận thức”, “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội”, “Mơ 
tưởng”, “Cô lập bản thân” và “Đổ lỗi cho bản 
thân” nhiều hơn so với các sinh viên >20 tuổi. 
Sinh viên nữ đa số chọn chiến lược phó “Cấu 
trúc lại nhận thức”; “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” 
và “Lảng tránh vấn đề” nhiều hơn so với sinh 
viên nam. Mặt khác, sinh viên năm 6 ít chọn các 
chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại nhận thức”, 
“Tìm kiếm chỗ dựa xã hội”, “Bộc lộ cảm xúc”, 
“Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân”, “Đổ lỗi cho bản 
thân” so với sinh viên các năm còn lại. So với các 
sinh viên có tính cách hướng ngoại, sinh viên 
hướng nội ít chọn cách “Giải quyết vấn đề”, 
“Cấu trúc lại nhận thức”, “Tìm kiếm chỗ dựa xã 
hội” và thường chọn cách “Mơ tưởng” và “Cô 
lập bản thân” nhiều hơn (Bảng 2). 
Bảng 2. Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố cá nhân 
Đặc 
điểm 
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH 
Đối đầu tập trung vào vấn 
đề 
Đối đầu tập trung vào cảm 
xúc 
Lảng tránh tập trung vào 
vấn đề 
Lảng tránh tập trung vào 
cảm xúc 
Giải quyết 
vấn đề 
Cấu trúc lại 
nhận thức 
Tìm kiếm chỗ 
dựa xã hội 
Bộc lộ cảm 
xúc 
Lảng tránh 
vấn đề 
Mơ tưởng 
Cô lập bản 
thân 
Đổ lỗi cho 
bản thân 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
Nhóm tuổi* 
≤20 tuổi 2,5±0,7 0,08 2,6±0,6 0,00 2,3±0,7 0,00 2,1±0,5 0,20 2,1±0,6 0,13 2,4±0,6 0,00 2,4±0,7 0,00 2,2±0,7 0,00 
>20 tuổi 2,4±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,5 2,1±0,7 2,1±0,6 1,9±0,7 
Giới tính* 
Nam 2,4±0,6 0,74 2,3±0,6 0,01 2,0±0,6 0,03 2,0±0,5 0,25 1,9±0,6 0,02 2,2±0,7 0,51 2,1±0,6 0,12 2,0±0,7 0,76 
Nữ 2,4±0,6 2,5±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,2±0,7 2,0±0,7 
Hướng tính cách* 
Hướng 
nội 
2,3±0,5 0,02 2,4±0,6 0,003 2,1±0,7 0,01 2,0±0,5 0,19 2,0±0,4 0,58 2,3±0,7 0,04 2,2±0,6 0,00 2,1±0,7 0,32 
Hướng 
ngoại 
2,5±0,7 2,6±0,7 2,3±0,7 2,1±0,5 2,1±0,5 2,1±0,6 2,0±0,7 2,0±0,7 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 51
Đặc 
điểm 
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH 
Đối đầu tập trung vào vấn 
đề 
Đối đầu tập trung vào cảm 
xúc 
Lảng tránh tập trung vào 
vấn đề 
Lảng tránh tập trung vào 
cảm xúc 
Giải quyết 
vấn đề 
Cấu trúc lại 
nhận thức 
Tìm kiếm chỗ 
dựa xã hội 
Bộc lộ cảm 
xúc 
Lảng tránh 
vấn đề 
Mơ tưởng 
Cô lập bản 
thân 
Đổ lỗi cho 
bản thân 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
Năm học** 
Năm 1 2,5±0,7 0,13 2,6±0,6 0,00 2,3±0,7 0,03 2,1±0,5 0,03 2,2±0,6 0,10 2,5±0,6 0,00 2,4±0,7 0,00 2,3±0,7 0,00 
Năm 2 2,5±0,6 2,5±0,5 2,2±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,3±0,7 2,2±0,7 2,1±0,7 
Năm 3 2,4±0,6 2,4±0,6 2,0±0,8 1,9±0,6 2,0±0,4 2,0±0,8 2,1±0,7 1,9±0,8 
Năm 4 2,4±0,6 2,4±0,7 2,2±0,8 2,1±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,1±0,6 2,1±0,7 
Năm 5 2,4±0,5 2,5±0,5 2,1±0,5 2,0±0,4 2,0±0,5 2,2±0,6 2,0±0,6 1,8±0,6 
Năm 6 2,2±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 1,9±0,4 1,9±0,6 2,1±0,7 2,0±0,6 1,9±0,6 
* Independent Sample T-Test ** Anova 
Bảng 3: Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố gia đình 
Đặc 
điểm 
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH 
Đối đầu tập trung vào vấn 
đề 
Đối đầu tập trung vào 
cảm xúc 
Lảng tránh tập trung vào 
vấn đề 
Lảng tránh tập trung vào 
cảm xúc 
Giải quyết 
vấn đề 
Cấu trúc lại 
nhận thức 
Tìm kiếm 
chỗ dựa XH 
Bộc lộ cảm 
xúc 
Lảng tránh 
vấn đề 
Mơ tưởng 
Cô lập bản 
thân 
Đổ lỗi cho 
bản thân 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
Chỉ tiêu học tập do cha mẹ/người thân đặt ra* 
Có 2,4±0,6 0,45 2,4±0,6 0,61 2,3±0,6 0,09 2,1±0,5 0,29 2,1±0,5 0,14 2,4±0,7 0,04 2,3±0,7 0,01 2,2±0,7 0,00 
Không 2,4±0,6 2,5±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,2±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7 
Có người yêu* 
Có 2,4±0,6 0,86 2,5±0,6 0,94 2,2±0,7 0,51 2,0±0,5 0,23 2,0±0,5 0,35 2,1±0,7 0,04 2,0±0,6 0,00 1,9±0,7 0,04 
Không 2,4±0,6 2,5±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,3±0,6 2,1±0,7 
Cảm nhận hạnh phúc gia đình** 
Rất HP 2,5±0,6 0,04 2,5±0,7 0,58 2,2±0,7 0,56 2,0±0,6 0,69 2,1±0,6 0,46 2,2±0,7 0,36 2,2±0,7 0,21 2,1±0,7 0,14 
HP 2,3±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,3±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7 
Không 
HP 
2,5±0,5 2,5±0,5 2,1±0,5 2,1±0,4 2,1±0,6 2,3±0,7 2,4±0,7 2,2±0,8 
* Independent Sample T-Test ** Anova 
Bảng 4: Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố xã hội 
Đặc 
điểm 
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH 
Đối đầu tập trung vào vấn 
đề 
Đối đầu tập trung vào 
cảm xúc 
Lảng tránh tập trung vào 
vấn đề 
Lảng tránh tập trung vào 
cảm xúc 
Giải quyết 
vấn đề 
Cấu trúc lại 
nhận thức 
Tìm kiếm 
chỗ dựa XH 
Bộc lộ cảm 
xúc 
Lảng tránh 
vấn đề 
Mơ tưởng 
Cô lập bản 
thân 
Đổ lỗi cho 
bản thân 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
Áp lực học tập* 
Có 2,4±0,6 0,42 2,5±0,6 0,69 2,2±0,7 0,26 2,0±0,5 0,15 2,0±0,6 0,54 2,3±0,7 0,00 2,2±0,7 0,60 2,1±0,7 0,07 
Không 2,5±0,6 2,5±0,7 2,1±0,7 1,9±0,5 2,1±0,6 2,0±0,7 2,1±0,6 1,9±0,7 
Hài lòng với ngành học** 
Rất HL 2,6±0,7 0,00 2,6±0,7 0,04 2,3±0,7 0,06 2,1±0,6 0,25 1,9±0,5 0,15 2,4±0,7 0,00 2,4±0,7 0,00 2,2±0,8 0,11 
Hài lòng 2,4±0,6 2,5±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,2±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7 
Không 
HL 
2,3±0,5 2,3±0,6 2,0±0,7 1,9±0,6 2,0±0,6 2,2±0,7 2,1±0,7 1,9±0,7 
Rất 2,0±0,3 2,3±0,4 1,9±0,9 2,0±0,3 1,8±0,5 3,1±0,8 2,7±0,7 2,3±0,7 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 52
Đặc 
điểm 
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH 
Đối đầu tập trung vào vấn 
đề 
Đối đầu tập trung vào 
cảm xúc 
Lảng tránh tập trung vào 
vấn đề 
Lảng tránh tập trung vào 
cảm xúc 
Giải quyết 
vấn đề 
Cấu trúc lại 
nhận thức 
Tìm kiếm 
chỗ dựa XH 
Bộc lộ cảm 
xúc 
Lảng tránh 
vấn đề 
Mơ tưởng 
Cô lập bản 
thân 
Đổ lỗi cho 
bản thân 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
TB ± 
ĐLC 
p 
không 
HL 
Hài lòng với mối quan hệ bạn bè** 
Rất hài 
lòng 
2,5±0,6 0,51 2,6±0,7 0,12 2,4±0,8 0,00 2,0±0,6 0,36 2,0±0,5 0,28 2,3±0,6 0,83 2,1±0,7 0,38 2,1±0,8 0,59 
Hài lòng 2,4±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,2±0,7 2,2±0,6 2,0±0,7 
Không 
hài lòng 
2,4±0,4 2,4±0,5 2,0±0,7 2,0±0,4 2,2±0,5 2,3±0,7 2,2±0,6 2,2±0,6 
Rất 
không 
hài lòng 
2,4±0 3,0±0 2,6±0 2,8±0 2,6±0 2,6±0 3,2±0 2,4±0 
* Independent Sample T-Test ** Anova 
Đối với các yếu tố liên quan đến gia đình, 
những sinh viên bị cha mẹ/người thân đặt ra chỉ 
tiêu học tập thường chọn cách ứng phó “Mơ 
tưởng”, “Cô lập bản thân”, “Đổ lỗi cho bản 
thân” nhiều hơn. Các sinh viên cảm nhận gia 
đình rất hạnh phúc (HP) chọn cách ứng phó 
“Giải quyết vấn đề” (Bảng 3). 
Riêng đối với các yếu tố xã hội, các sinh viên 
không có áp lực học tập thường ít chọn cách ứng 
phó “Mơ tưởng”. Những sinh viên cảm thấy 
không hài lòng với ngành học ít chọn cách “Giải 
quyết vấn đề”, “Cấu trúc lại nhận thức” và 
thường chọn cách ứng phó “Mơ tưởng”, “Cô lập 
bản thân” nhiều hơn. Sinh viên cảm thấy hài 
lòng với mối quan hệ bạn bè chọn cách ứng phó 
“Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” nhiều hơn so với các 
sinh viên còn lại. Sinh viên không bao giờ tham 
gia các hoạt động ngoại khóa ít chọn cách ứng 
phó “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Stress là một trong những vấn đề đang được 
quan tâm không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn 
trên cả thế giới, đặc biệt là sinh viên y khoa. 
Nghiên cứu sử dụng thang đo DASS-21, một 
thang đo có tính giá trị cao đối với stress – lo âu - 
trầm cảm được sử dụng nhiều trong các nghiên 
cứu trên thế giới và Việt Nam. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy, tỉ lệ sinh viên YHDP có dấu hiệu 
stress là 45,5%. Mức độ các dấu hiệu stress nhẹ, 
vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 19,7%; 15,5%; 
7,9%; và 2,4%. Kết quả này khá tương đồng với 
kết quả nghiên cứu năm 2017 của tác giả Lê 
Hoàng Thanh Nhung được thực hiện cùng đối 
tượng và địa điểm(6). 
“Cấu trúc lại nhận thức” là chiến lược ứng 
phó được sinh viên chọn nhiều nhất tỉ lệ là 
32,0%, tiếp sau đó là “Giải quyết vấn đề” với 
26,8%. Một nghiên cứu tại Malaysia của Sami 
Abdo Radman Al-Dubai và cộng sự đưa ra kết 
quả rằng sinh viên có khuynh hướng chọn các 
chiến lược ứng phó mang tính tích cực để đối 
đầu với stress như tái định hình tôn giáo, lập kế 
hoạch đối phó với stress(7). Tại Pakistan, thể thao, 
âm nhạc, sinh hoạt với bạn bè, ngủ là các chiến 
lược ứng phó được sinh viên y sử dụng để ứng 
phó với stress(8). Khác với các nghiên cứu trên, 
các nghiên cứu tại Anh báo cáo rằng việc sử 
dụng rượu, thuốc lá, ma túy dường như là các 
chiến lược ứng phó với stress được sinh viên áp 
dụng phổ biến(9,10). Đây được xem là một kết quả 
rất tích cực khi đa số sinh viên YHDP chọn “Giải 
quyết vấn đề” và “Cấu trúc lại nhận thức” chiến 
lược ứng phó với stress, là hai chiến lược ứng 
phó nằm trong nhóm ứng phó “đối đầu tập 
trung vào vấn đề” – nhóm được xem là mang lại 
nhiều hiệu quả và làm giảm mức độ stress triệt 
để nhất(11). Hơn nữa, hệ số tương quan thuận 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 53
giữa hai chiến lược ứng phó “Giải quyết vấn đề” 
và “Cấu trúc lại nhận thức” mạnh (r=0,66 với 
p<0,001), điều đó có nghĩa rằng sinh viên khá 
đồng thuận trong việc sử dụng hai chiến lược 
ứng phó có tính hiệu quả cao này. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc lựa chọn 
các chiến lược ứng phó của sinh viên YHDP ảnh 
hưởng bởi các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội. 
So với nghiên cứu của tác giả Al-Dubai SAR và 
cộng sự, việc lựa chọn chiến lược ứng phó với 
stress của sinh viên ảnh hưởng bởi đặc điểm dân 
tộc, văn hóa, kinh tế xã hội. Kết quả phân tích 
cũng cho thấy sinh viên nữ đa số chọn chiến 
lược phó “Cấu trúc lại nhận thức”, “Tìm kiếm 
chỗ dựa xã hội” và “Lảng tránh vấn đề” nhiều 
hơn so với sinh viên nam. Nghiên cứu của Al-
Dubai SAR và cộng sự đưa ra kết quả rằng sinh 
viên nữ có khuynh hướng sử dụng các chiến 
lược ứng phó mang tính cảm xúc và né tránh 
hơn so với sinh viên nam(7). 
Đa số các sinh viên có cha mẹ/người thân đặt 
ra chỉ tiêu học tập thường xuyên chọn các chiến 
lược ứng phó tiêu cực hơn so với các sinh viên 
còn lại. Trong đó gồm có “Mơ tưởng”, “Cô lập 
bản thân” và “Đổ lỗi cho bản thân”. Chiến lược 
“Mơ tưởng” được sử dụng thường xuyên nhất. 
Đối với văn hóa Á Đông, gia đình là một trong 
những điểm tựa vững chắc cho sinh viên khi đối 
mặt với stress. Khi không đạt được sự kỳ vọng 
của gia đình, có thể sinh viên sẽ bị trách móc, bị 
tổn thương tâm lý. Khi mất đi điểm tựa vững chãi 
là gia đình, họ sẽ có xu hướng lựa chọn các chiến 
lược ứng phó với stress mang tính tiêu cực hơn. 
Nghiên cứu cũng ghi nhận được rằng, nhóm 
sinh viên hài lòng với ngành học có khuynh 
hướng thường xuyên lựa chọn các chiến lược 
ứng phó với stress mang tính tích cực hơn. Cụ 
thể là “Giải quyết vấn đề” và “Cấu trúc lại nhận 
thức” được các sinh viên hài lòng với ngành học 
thường xuyên lựa chọn nhất. Ngược lại, nhóm 
sinh viên không hài lòng với ngành học thường 
xuyên chọn những chiến lược ứng phó mang 
tiêu cực để ứng phó với stress hơn là “Mơ 
tưởng” và “Cô lập bản thân”. Tại Việt Nam, đa 
số ngành học của con cái thường được chọn bởi 
cha mẹ. Việc bị bắt buộc học ngành mình không 
thích khiến sinh viên phải chịu những tác động 
tâm lý trái chiều. Khi họ không cảm thấy thích 
thú, hài lòng với ngành mình đang học thì động 
lực và hứng thú của họ sẽ luôn ở mức thấp(12). Có 
lẽ với những sinh viên hài lòng với ngành học, 
có được một tâm lý thoải mái, lạc quan nên họ 
rất tích cực trong việc học nói riêng và các vấn 
đề trong cuộc sống nói chung, từ đó việc lựa 
chọn chiến lược ứng phó với căng thẳng, khó 
khăn cũng tích cực hơn. Mỗi khi gặp khó khăn, 
họ cấu trúc lại nhận thức và sẵn sàng đối đầu 
giải quyết vấn đề. Ngược lại, những sinh viên 
không hài lòng với ngành học, có lẽ họ cảm thấy 
không an toàn, họ thường xuyên cảm thấy thất 
vọng, không thoải mái. Lâu dần họ có xu hướng 
kỳ vọng về những điều tốt đẹp sẽ xảy ra mà 
không chú tâm vào việc giải quyết mỗi khi gặp 
khó khăn trong việc học nói riêng và các vấn đề 
trong cuộc sống nói chung, hoặc họ chọn cách cô 
lập bản thân để không phải đối mặt với những 
căng thẳng. 
KẾT LUẬN 
Hơn 45% sinh viên có dấu hiệu stress ở các 
mức độ khác nhau. Sinh viên có khuynh hướng 
lựa chọn chiến lược “Cấu trúc lại nhận thức” 
thường xuyên nhất để ứng phó với stress 
(32,02%). Có mối liên quan giữa việc lựa chọn 
các chiến lược ứng phó stress với các yếu tố như 
năm học, hướng tính cách, nơi ở, áp lực từ cha 
mẹ/người thân đối với vấn đề học tập, áp lực học 
tập của bản thân sinh viên. 
KIẾN NGHỊ 
Qua kết quả nghiên cứu, sinh viên nên xây 
dựng kế hoạch học tập ngay từ đầu bước chân 
vào môi trường học tập mới, chủ động chia sẻ 
những lo lắng, băn khoăn với bạn bè, thầy cô 
hoặc chuyên gia tâm lý khi khó khăn vượt qua 
tầm kiểm soát của bản thân. Gia đình của các em 
cũng không nên quá khắt khe trong việc đặt ra 
chỉ tiêu học tập cho con cái. Nhà trường thường 
xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa như 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 54
chương trình tình nguyện, giao lưu âm nhạc, thể 
dục thể thao để cải thiện sức khỏe thể chất và 
tâm thần cho sinh viên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Rosiek A, Rosiek-Kryszewska A, Leksowski L, Leksowski K 
(2016). Chronic Stress and Suicidal Thinking Among Medical 
Students. Int J Environ Res Public Health, 13(2):212. 
2. Kwak CW, Ickovics JR (2019). Adolescent suicide in South 
Korea: Risk factors and proposed multi-dimensional solution. 
Asian J Psychiatr, 43:150-153. 
3. Nguyễn Thị Dinh (2014). Tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan của 
sinh viên Y Học Dự Phòng ĐHYD TP. HCM. Khoa Y Tế Công 
Cộng, ĐH Y Dược TP. HCM. 
4. Đoàn Thị Thu Huyền (2015). Hiểu biết về ngành học và định 
hướng nghề nghiệp của sinh viên năm thứ nhất ngành y học dự 
phòng và y tế công cộng tại Trường đại học Y Hà Nội năm 2014. 
Y học Dự phòng, 25(166):488. 
5. Nguyễn Thanh Long, Vũ Sinh Nam (2013). Nhân lực y tế dự 
phòng: Thực trạng, thách thức và giải pháp. Y học Dự phòng, 
12(148):106-109. 
6. Lê Hoàng Thanh Nhung (2017) Stress và các yếu tố liên quan 
của sinh viên khoa Y tế Công cộng Đại học Y Dược TP. HCM 
2017. Khóa luận Tốt nghiệp Bác sĩ Y học Dự phòng, Khoa Y Tế Công 
Cộng, Đại học Y Dược TP. HCM. 
7. Al-Dubai SAR, AAl-Naggar R, Mustafa AA, Krishna GR (2011). 
Stress and Coping Strategies of Students in a Medical Faculty in 
Malaysia. Malays J Med Sci, 18(3):57–64. 
8. Shaikh BT, Kahloon A, Kazmi M, Khalid H, Nawaz K, Khan N, 
et al (2004). Students, stress and coping strategies: A case of 
Pakistani medical school. Educ Health, 17(3):346–353. 
9. Ashton CH, Kamali F (1995). Personality, lifestyles, alcohol and 
drug consumption in a sample of British medical students. Med 
Educ, 29(3):187–92. 
10. Guthrie EA, Black D, Shaw CM, Hamilton J, Creed FH, 
Tomenson B. (1995). Embarking upon a medical career: 
Psychological morbidity in first year medical students. Med 
Educ, 29(5):337–341. 
11. Tobin D (1989). The hierarchical factor structure of the coping 
strategies inventory. Cognitive Therapy and Research, 13(4):343-
361. 
12. Nguyễn Thành Trung (2017). Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm 
và các yếu tố liên quan trong sinh viên cử nhân trừờng đại học y 
tế công cộng năm 2017. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, trường 
Đại học Y tế công cộng. 
Ngày nhận bài báo: 15/11/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020 

File đính kèm:

  • pdfti_le_stress_va_chien_luoc_ung_pho_cua_sinh_vien_y_hoc_du_ph.pdf