Tỉ lệ động kinh kháng trị và nguyên nhân trên bệnh nhân động kinh người lớn

Đặt vấn đề: Động kinh kháng trị là bài toán khó cho các nhà lâm sàng thần kinh. Động kinh kháng trị làm

giảm chất lượng cuộc sống, tăng bệnh suất và tử suất, tuy vậy phần lớn các nghiên cứu tại Việt Nam chưa đề cập

nhiều tới động kinh kháng trị.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ động kinh kháng trị, mô tả nguyên nhân và đặc điểm liên quan, đưa ra yếu tố nguy cơ kháng trị.

Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bệnh nhân động kinh 18 tuổi trở lên, theo dõi tại

bệnh viện Nguyễn Tri Phương và bệnh viện Đại học y dược từ tháng 1/2020 đến tháng 5/2020, với phương pháp

nghiên cứu cắt ngang mô tả. Bệnh nhân được thu thập thông tin theo bảng câu hỏi. Dựa trên tiêu chuẩn chẩn

đoán kháng trị của Liên Hội Chống Động Kinh Quốc Tế 2010, chúng tôi tiến hành phân tích số liệu.

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Tỉ lệ động kinh kháng trị và nguyên nhân trên bệnh nhân động kinh người lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỉ lệ động kinh kháng trị và nguyên nhân trên bệnh nhân động kinh người lớn

Tỉ lệ động kinh kháng trị và nguyên nhân trên bệnh nhân động kinh người lớn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 54
TỈ LỆ ĐỘNG KINH KHÁNG TRỊ VÀ NGUYÊN NHÂN 
TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH NGƯỜI LỚN 
Nguyễn Hoàng Uyên Phương1, Lê Văn Tuấn1,2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Động kinh kháng trị là bài toán khó cho các nhà lâm sàng thần kinh. Động kinh kháng trị làm 
giảm chất lượng cuộc sống, tăng bệnh suất và tử suất, tuy vậy phần lớn các nghiên cứu tại Việt Nam chưa đề cập 
nhiều tới động kinh kháng trị. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ động kinh kháng trị, mô tả nguyên nhân và đặc điểm liên quan, đưa ra yếu tố nguy 
cơ kháng trị. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bệnh nhân động kinh 18 tuổi trở lên, theo dõi tại 
bệnh viện Nguyễn Tri Phương và bệnh viện Đại học y dược từ tháng 1/2020 đến tháng 5/2020, với phương pháp 
nghiên cứu cắt ngang mô tả. Bệnh nhân được thu thập thông tin theo bảng câu hỏi. Dựa trên tiêu chuẩn chẩn 
đoán kháng trị của Liên Hội Chống Động Kinh Quốc Tế 2010, chúng tôi tiến hành phân tích số liệu. 
Kết quả: Với 160 ca, tỉ lệ động kinh kháng trị là 20%. Nguyên nhân ưu thế trong nhóm này là xơ chai hải 
mã 37,5%, sau đó là đột quị và loạn sản vỏ não. 53,13% ca định khu thái dương, 78,13% ca phân loại căn 
nguyên cấu trúc. Yếu tố nguy cơ của kháng trị sau phân tích hồi qui đa biến là tần suất cơn co giật trước điều trị 
cao, định khu động kinh thùy thái dương, hoàn cảnh khởi phát cơn cả ngày và đêm, đáp ứng kém với thuốc chống 
động kinh đầu tiên. 
Kết luận: Với kết quả 5 ca động kinh có 1 ca kháng trị và các yếu tố nguy cơ sẽ giúp ích hơn cho các nhà lâm 
sàng nhận diện bệnh nhân động kinh kháng trị. 
Từ khoá: động kinh, tỉ lệ, động kinh kháng trị 
ABSTRACT 
PREVALENCE OF DRUG RESISTANT EPILEPSY AND ETIOLOGY IN ADULTS WITH EPILEPSY 
Nguyen Hoang Uyen Phuong, Le Van Tuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 54 - 61 
Background: Drug resistant epilepsy (DRE) is the severe problem for the neurologists. DRE lowers the 
quality of life, increases morbidity and mortality, despite that, there are few studies of DRE in Viet Nam. 
Objective: To determine the proportion of population of adult people with epilepsy (PWE), who suffer from 
DRE; to describe the etiologies and relevant characteristics and to estimate risk factors for DRE. 
Methods: All adult PWE from 18 years old who had attended at Nguyen Tri Phuong hospital and Ho Chi 
Minh city University of Medical Center from January, 2020 to May, 2020 were profiled for drug responses 
according to the definition for DRE as specified by the International League against Epilepsy (ILAE) 2010 
consensus. This is a cross-sectional study. Data collected included demographics, characteristics of epilepsy, 
electroencephalogram, brain imaging findings and medication histories. 
Results: The prevalence rate of DRE in this study was 20% (n=160). The prominent causes of DRE are 
hippocampus sclerosis 37.5%, stroke and focal cortical dysplasia. 53.13% cases were classified as temporal 
epilepsy, and 78.13% cases had structural etiology. From multivariate analysis, high pretreatment seizure 
1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Đoàn Uyên Phương ĐT: 0768249810 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 55
frequency, temporal epilepsy, both daytime and nighttime occurrence of seizures, poor outcome of first 
antiepileptic drug increased risk for DRE. 
Conclusion: The findings may aid clinician in recognizing and caring PWE, with careful considerations 
that at any given time, 1 in 5 PWE have DRE. 
Keywords: epilepsy, prevalence, drug resistant epilepsy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động kinh là một trong những vấn đề thần 
kinh nghiêm trọng và thường gặp, được xem là 
sự phóng điện bất thường của các tế bào thần 
kinh một cách đột ngột, ngắt quãng hay liên tục 
trong một thời gian, đặc tính nặng nề và có thể 
để lại di chứng về nhiều mặt nếu không được 
điều trị kịp thời. Theo khảo sát của Tổ chức Y tế 
Thế giới (WHO), động kinh chiếm 1% gánh 
nặng y tế. Thuốc chống động kinh vẫn là 
phương thức đầu tay trong điều trị động kinh, 
bên cạnh đó, phẫu thuật động kinh trong những 
năm gần đây đã chứng minh được vai trò không 
thể thay thế trong một số trường hợp kháng trị 
đi kèm tổn thương cấu trúc. Mặc dù tính tới thời 
điểm hiện tại, đã có hơn 25 loại thuốc chống 
động kinh được ra đời, nhưng tỉ lệ đáp ứng 
thuốc vẫn chỉ khoảng 2/3 các bệnh nhân, và các 
trường hợp thất bại với 2 loại thuốc động kinh 
trở lên, được xem là kháng trị với thuốc(1). 
Động kinh kháng trị với những cơn co giật 
tần suất cao sẽ gây thay đổi và tổn thương 
mạng lưới tế bào thần kinh, phải gánh chịu tác 
dụng phụ khi sử dụng nhiều loại thuốc chống 
động kinh, vấn đề về nhận thức, giáo dục, xã 
hội, thay đổi tính tình, hành vi, tăng tử suất, 
nguy cơ SUDEP (tử vong đột ngột không dự 
đoán trước trên bệnh nhân động kinh) cao, 
tăng bệnh suất(2). Điều trị động kinh kháng trị 
ngoài nội khoa với áp dụng các thuốc thế hệ 
mới, còn có phẫu thuật động kinh, kích thích 
dây thần kinh X, chế độ ăn sinh ceton. Phẫu 
thuật động kinh được xem là phương pháp 
hiệu quả để đạt tình trạng không cơn kéo dài 
đối với nhóm bệnh nhân kháng trị căn nguyên 
cấu trúc, tuy nhiên không phải tất cả. 
Một nghiên cứu tổng quan hệ thống dựa 
trên những nghiên cứu về động kinh kháng trị 
được báo cáo từ năm 1980 đến 2015 đăng trên 
Medline và Embase, chọn lọc ra 35 nghiên cứu 
đạt tiêu chuẩn, với 13080 bệnh nhân động kinh, 
và 3941 bệnh nhân kháng trị, ghi nhận tỉ lệ lưu 
hành gộp của động kinh kháng trị qua các 
nghiên cứu trong dân số bệnh nhân động kinh là 
0,30 (0,19-0,42) và tỉ lệ phát sinh gộp là 0,15 
(0,11-0,19)(3). Về căn nguyên, trong động kinh cục 
bộ, xơ chai hải mã, loạn sản vỏ não và xuất huyết 
liên quan đến tình trạng kháng trị(4). 
Các đơn vị động kinh mới phát triển, và 
phẫu thuật động kinh ngày càng được quan tâm 
nhiều hơn, vì đem lại cơ hội kiểm soát cơn cho 
các bệnh nhân kháng trị. Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu “Tỉ lệ động kinh kháng trị và nguyên 
nhân trên bệnh nhân động kinh người lớn”. 
Nghiên cứu của chúng tôi có 3 mục tiêu chính: 
- Xác định tỉ lệ động kinh kháng trị. 
- Mô tả nguyên nhân và các đặc điểm liên quan. 
- Đưa ra các yếu tố nguy cơ của động kinh 
kháng trị. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân (BN) từ 18 tuổi trở lên, có 
chẩn đoán động kinh, đang điều trị hoặc theo 
dõi tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương và bệnh 
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn loại ra 
Bệnh nhân không tuân thủ điều trị (uống 
thuốc không đều, tự ý ngưng thuốc) và/hoặc 
bỏ tái khám. 
Bệnh nhân có bệnh nội khoa nặng gây cản 
trở việc dùng thuốc chống động kinh. 
Bệnh nhân đã được chẩn đoán động kinh 
nhưng có cơn co giật tái phát trong giai đoạn 
đang mắc các bệnh cấp tính như xuất huyết 
não, viêm màng não, viêm não, hạ đường 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 56
huyết, rối loạn điện giải. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Đây là nghiên cứu xác định tỉ lệ trong dân số 
nghiên cứu, do đó được tính theo công thức: 
Với độ tin cậy 95% và d=5%. 
Chúng tôi quyết định lấy tỉ lệ P=11,3% theo 
nghiên cứu của Mukherjee J (2016) được tiến 
hành tại Ấn độ vì sự tương đồng về mặt địa lý, 
áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán động kinh kháng 
trị theo ILAE 2010, đều là các nước đang phát 
triển, cỡ mẫu lớn với độ tin cậy tốt, thiết kế 
nghiên cứu không phải đoàn hệ tiến cứu và dân 
số nghiên cứu là các bệnh nhân động kinh tại 
bệnh viện giống với nghiên cứu của chúng tôi(5). 
Tính theo công thức trên, chúng tôi ra được kết 
quả N=154. 
Vậy cỡ mẫu ít nhất là 154 bệnh nhân (BN) 
cho nghiên cứu của chúng tôi. 
Các bước tiến hành 
Dân số nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân 
được chẩn đoán động kinh đang theo dõi ngoại 
trú hay đang điều trị tại bệnh viện Nguyễn Tri 
Phương và bệnh viện Đại học y dược từ tháng 
1/2020 đến tháng 5/2020, thỏa tiêu chuẩn chọn 
bệnh, loại các bệnh nhân nằm trong tiêu chuẩn 
loại trừ và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tất cả 
các bệnh nhân được thu 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 741/ HĐĐĐ, ngày 
12/12/2019. 
KẾT QUẢ 
Kết quả trên dân số nghiên cứu (N=160): 20% 
bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn động kinh kháng trị 
(N=32) theo định nghĩa của ILAE 2010 (N=32), 
23,75% BN động kinh kiểm soát tốt (N=38). 
Đặc điểm nguyên nhân nhóm kháng trị 
Hình 1: Định khu động kinh nhóm kháng trị 
Hình 2: Phân loại nguyên nhân nhóm kháng trị 
Dựa vào các dữ kiện lâm sàng, hình ảnh học, 
điện não đồ, động kinh thái dương chiếm tỉ lệ 
cao nhất 53,13% (17 ca) trong nhóm kháng trị, 
chúng tôi ghi nhận thêm 3 ca ngoài thái dương: 1 
ca từ thùy trán, 1 ca thùy chẩm và 1 ca từ thùy 
đính. Về nguyên nhân cụ thể thu thập được từ 
các dữ kiện lâm sàng và cận lâm sàng, trong 
nghiên cứu của chúng tôi, xơ chai hải mã là căn 
nguyên hàng đầu trong nhóm kháng trị, chiếm 
37,5%. Xếp thứ 2 và thứ 3 trong căn nguyên 
nhóm kháng trị là di chứng tai biến mạch máu 
não và loạn sản vỏ não (Hình 1, 2). 
Dựa trên bảng phân loại ILAE 2017, trong 
nhóm kháng trị của chúng tôi, căn nguyên cấu 
trúc chiếm ưu thế với 78,13% (Hình 3). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 57
Hình 3: Nguyên nhân nhóm kháng trị 
Bảng 1: So sánh các đặc điểm nhóm kháng trị và nhóm kiểm soát tốt 
Biến số Kháng trị (n=32) Kiểm soát tốt (n=38) Số P 
Tỉ lệ nam (%) 40,63% 50% 0,477
b
Tuổi (năm) 35,56± 13,53 39,71± 16,54 0,216
d
Tuổi xảy ra cơn động kinh đầu tiên 21,84 ± 17,5 29,16 ±17,22 0,065
d
Tuổi chẩn đoán động kinh 22,56 ± 18,52 30,66± 18,23 0,041
d
Khoảng thời gian không cơn tối đa 3,52 ± 6,59 tháng 37,37 ± 46,75 tháng <0,001
d
Có dấu thần kinh khu trú 9 (28,13%) 9 (23,68%) 0,672
a
Có nhiều loại cơn 4 (12,5%) 0 (0%) 0,039
c
Tần suất cơn co giật cao trước điều trị 31 (96,87%) 15 (39,47%) <0,01
a
Hoàn cảnh khởi phát bất kỳ 21 (65,63%) 11 (28,95%) 0,004
a
Phân loại cơn cục bộ 32 (100%) 23 (60,53%) <0,001
c
Xơ chai hải mã 12 (37,5%) 0 (0%) <0,001
c
Chấn thương 2 (6,25%) 5 (13,16%) 0,442
c
Đột quị 5 (15,63%) 3 (7,89%) 0,455
c
Tổn thương cấu trúc 26 (81,25%) 14 (36,84%) <0,001
a
Định khu động kinh thái dương 17 (53,13%) 3 (7,89%) <0,001
a
Hiệu quả giảm cơn với thuốc chống động kinh đầu tiên (giảm >50% 
số cơn) 
14 (43,75%) 36 (94,74%) <0,001
a
Điện não có hoạt động dạng động kinh 23 (71,88%) 6 (15,79%) 0,002
a
Bất thường hình ảnh học liên quan động kinh 22 (68,75%) 8 (21,05%) <0,001
a
a Kiểm định chi bình phương b Kiểm định t cho 2 nhóm độc lập c Kiểm định Fisher 
d Kiểm định Mann-Whitney cho 2 nhóm 
Về giới tính trong nhóm kháng trị, nam ít 
hơn nữ (Bảng 1). Tỉ số nam/nữ là 0,68. Trung 
bình độ tuổi của nhóm bệnh nhân kháng trị là 
35,56 ± 13,53 tuổi. Trong đó, số bệnh nhân trong 
2 nhóm 18-30 và 30-50 chiếm tỉ lệ cao hơn các 
nhóm tuổi còn lại, và không có ai trên 70 tuổi 
trong nghiên cứu. Tuổi khởi phát có giá trị trung 
bình là 21,84 ± 17,5 và trung vị là 16, trong khi đó 
tuổi chẩn đoán cũng có giá trị xấp xỉ gần đó là 
trung bình 22,56 và trung vị là 16,5. Về tần suất 
cơn, trước điều trị, đa phần tần suất cơn bệnh 
nhân nhóm kháng trị thuộc nhóm mỗi ngày, có 
tói 96.87% ca có tần suất cơn trước điều trị mỗi 
ngày trở lên. Có sự chuyển mình rõ rệt tần suất 
cơn trước điều trị và hiện tại, khi số ca có tần 
suất cơn >=1 tháng là 78.12%, đa phần tần suất 
các ca thuộc nhóm mỗi tháng (<1 cơn/tuần 
nhưng >=1 cơn/tháng). Có một tỉ lệ 12,5% ca 
trong nhóm kháng trị có nhiều loại cơn. Đa phần 
các cơn khởi phát bất kì lúc thức hay lúc ngủ, 
nếu cơn chỉ xảy ra hoặc lúc thức hoặc lúc ngủ thì 
số cơn chỉ xảy ra lúc thức nhiều hơn. Tất cả các 
ca kháng trị trong nghiên cứu đều có cơn cục bộ. 
Trong các bệnh nhân được thực hiện hình ảnh 
học nhóm kháng trị, đa phần được chụp MRI sọ 
não, có tới 22/24 ca được thực hiện hình ảnh học 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 58
ghi nhận bất thường liên quan động kinh. Về 
điện não đồ, hơn phân nửa số bệnh nhân kháng 
trị được thực hiện điện não video. Có tới 90,63% 
ca được ghi nhận điện não có kết quả bất 
thường, có thể là hoạt động dạng động kinh hay 
không phải dạng động kinh. Trong nhóm kháng 
trị hiện tại chỉ có 1 ca đang điều trị 1 loại thuốc, 
21 ca điều trị 2 loại thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất 
65,63%, 7 ca đang điều trị 3 loại thuốc và 3 ca 
đang điều trị 4 loại thuốc. Đáp ứng với thuốc 
chống động kinh đầu tiên và với liệu pháp dùng 
thuốc nói chung ở nhóm kháng trị dường như 
không quá chênh lệch, với tỉ lệ lần lượt là 43,74% 
và 56,25%. 
Tuổi chẩn đoán của nhóm kháng trị nhỏ hơn 
nhóm kiểm soát tốt, và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê. Nhóm kháng trị có tuổi chẩn 
đoán trung vị là 16, trong khi đó nhóm kiểm soát 
tốt có tuổi chẩn đoán trung vị là 26. Tần suất cơn 
trước và sau khi điều trị của 2 nhóm kháng trị và 
kiểm soát tốt đều khác nhau có ý nghĩa thống kê. 
Nếu phân bố tần suất cơn của nhóm kiểm soát 
tốt chủ yếu ở nhóm <1 cơn/năm và nhóm có cơn 
mỗi năm, thì nhóm kháng trị lại phân bố ở nhóm 
có cơn mỗi ngày, mỗi tuần và mỗi tháng. Về 
hoàn cảnh khởi phát cơn động kinh, nếu nhóm 
kháng trị các cơn đa phần khởi phát bất kỳ, thì 
nhóm kiểm soát tốt đa phần các cơn chỉ xuất 
hiện lúc thức. Khoảng thời gian không cơn tối đa 
trung bình của nhóm kháng trị là 3,52 tháng và 
nhóm kiểm soát tốt là 37,37 tháng, khác nhau có 
ý nghĩa thống kê. Nhóm kháng trị có 4 ca có 
nhiều hơn 1 loại cơn, nhóm kiểm soát tốt tất cả 
đều có 1 loại cơn. Số ca xơ chai hải mã, định khu 
động kinh từ thùy thái dương, hiệu quả giảm 
cơn với thuốc chống động kinh đầu tiên của 
nhóm kiểm soát tốt cao hơn nhóm kháng trị có ý 
nghĩa thống kê. Chúng tôi cũng tiến hành thực 
hiện phép kiểm so sánh kết quả hình ảnh học và 
điện não trên những bệnh nhân có ghi nhận kết 
quả, bất thường điện não với hoạt động dạng 
động kinh được ghi nhận và hình ảnh học bất 
thường liên quan động kinh khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm, tuy nhiên tỉ lệ bệnh nhân 
trong nhóm kiểm soát tốt không ghi nhận hình 
ảnh học và điện não xấp xỉ 50% nên chúng tôi 
không tiến hành phân tích hồi qui cho yếu tố 
này. Tổn thương cấu trúc cũng là một yếu tố 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm, tuy 
nhiên, nhóm kiểm soát tốt không ghi nhận kết 
quả hình ảnh học với tỉ lệ 52,6%, để kết quả hồi 
qui đưa ra yếu tố nguy cơ có ý nghĩa và trung 
thực nhất, chúng tôi không phân tích tiếp biến 
này trong hồi qui. 
Bảng 2: Phân tích hồi qui đơn biến 
 OR (KTC 95%) P 
Tuổi chẩn đoán động kinh 0,974 (0,947-1,002) 0,066 
Tần suất cơn trước điều trị 
ổn cơn> 1 năm hay <1 cơn/năm và 
=1 cơn/năm 
 0.001 
=1 cơn/tháng 23 (2,48-213,7) 0.006 
=1 cơn/tuần 46 (4,74-446,03) 0.001 
Mỗi ngày 149,5 (12,33-1812,08) <0.001 
Phân loại cơn cục bộ 42,87 (0,5-146,9) <0,001* 
Có nhiều loại cơn 12,16 (0,63-235,1) 0,04* 
Hoàn cảnh khởi phát bất kỳ (cả ngày và đêm) 4,69 (1,7-12,88) 0,003 
Xơ chai hải mã 46,95 (2,66-813,71) <0,001* 
Định khu động kinh thái dương 13,22 (3,37-51,94) <0,001 
Hiệu quả giảm cơn với thuốc chống động kinh đầu tiên (giảm >50% số cơn) 0,043 (0,01-0,21) <0,001 
*phép kiểm Haldane-Anscombe 
Trong Bảng 2, các biện phân loại cơn cục bộ, 
có nhiều loại cơn và xơ chai hải mã do chỉ ghi 
nhận trong nhóm kháng trị, chúng tôi thực hiện 
phép kiểm Haldane-Anscombe trong phép kiểm 
Chi-square để tính chỉ số chênh và khoảng tin 
cậy 95%. Ghi nhận các yếu tố nguy cơ của động 
kinh kháng trị trong mẫu nghiên cứu sau khi 
phân tích hồi qui đơn biến, so với số cơn trước 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 59
điều trị là <1 cơn/năm và có cơn mỗi năm, thì 
bệnh nhân có số cơn mỗi tháng tăng nguy cơ 
kháng trị lên 23 lần, và các cơn có tần suất cao 
hơn sẽ có nguy cơ kháng trị cao hơn nữa. Phân 
tích theo một cách khác, thì bệnh nhân có tần 
suất cơn co giật cao trước điều trị (>=1 
cơn/tháng) tăng nguy cơ kháng trị lên gấp 47,53 
lần so với tần suất thấp (<1 cơn/tháng) (Bảng 3). 
Bệnh nhân có cơn co giật bất kỳ (cả ngày và 
đêm) tăng nguy cơ kháng trị so với chỉ có cơn 
lúc thức hay ngủ là 4,69 lần. Bệnh nhân được 
chẩn đoán xơ chai hải mã có nguy cơ kháng trị 
tăng gấp 46,95 lần. Bệnh nhân được phân loại 
động kinh cơn cục bộ có nguy cơ kháng trị tăng 
gấp 42,87 lần. Định khu tổn thương từ thùy thái 
dương nguy cơ kháng trị tăng gấp 13,2 so với 
nhóm ngoài thái dương hay chưa rõ định khu. 
Hiệu quả giảm cơn >=50% có OR=0,04 so với 
nhóm hiệu quả <50%. 
Bảng 4: Phân tích hồi qui đa biến yếu tố nguy cơ 
động kinh kháng trị 
 OR (KTC 95%) P 
Tuổi chẩn đoán động kinh 1 (0,95-1,04) 0,89 
Tần suất cơn cao trước điều trị 38,6 (2,73-545,2) 0,007 
Hoàn cảnh khởi phát bất kỳ 5,7 (1,08-30,22) 0,04 
Định khu động kinh thái dương 25,26 (2,3-276,6) 0,008 
Hiệu quả giảm cơn với thuốc 
chống động kinh đầu tiên (giảm 
>50% số cơn) 
0,06 (0,01-0,61) 0,017 
Như vậy sau phân tích hồi qui đa biến, 4 yếu 
tố nguy cơ độc lập giúp tiên đoán một bệnh 
nhân kháng trị theo nghiên cứu của chúng tôi: 
tần suất cơn co giật trước điều trị cao (từ mỗi 
tháng đều có cơn trở lên), định khu động kinh từ 
thùy thái dương, hoàn cảnh khởi phát cơn cả 
ban ngày và ban đêm, đáp ứng kém với thuốc 
chống động kinh đầu tiên (giảm <50% số cơn). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 160 
bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên lấy từ 2 đơn vị 
động kinh người lớn duy nhất tại Thành phố 
Hồ Chí Minh là bệnh viện Nguyễn Tri Phương 
và bệnh viện Đại học Y dược, tỉ lệ động kinh 
kháng trị là 20% và 23,75% bệnh nhân kiểm 
soát tốt. Tỉ lệ kháng trị này tương đồng với các 
nghiên cứu Kong ST (2014) và Giussani G 
(2016)(7,8). Tỉ lệ động kinh của chúng tôi có sự 
khác biệt với một số nghiên cứu như cao hơn tỉ 
lệ của Zhang Y (2013), Mukherjee J, Farghaly 
WM (2016), hay thấp hơn của Hui ACF (2007), 
có thể được giải thích bởi một số lý do(5,8,9,10). 
Thứ nhất, dân số nghiên cứu của chúng tôi lấy 
từ các đơn vị động kinh. Trong khi đó các 
bệnh nhân đáp ứng tốt với thuốc động kinh 
đầu tiên trong cuộc đời họ thường sẽ tại khám 
tại các phòng khám thần kinh chung hay các 
tuyến cơ sở, vô hình chung làm tỉ lệ của chúng 
tôi cao hơn các nghiên cứu từ cộng đồng hay 
nhóm bệnh nhân nhập viện nói chung. Thứ 
hai, độ tuổi trong nghiên cứu từ 18 tuổi trở lên, 
như vậy chúng tôi đã loại trừ đối tượng động 
kinh trẻ em, với các hội chứng động kinh và 
căn nguyên hoàn toàn khác dân số người lớn, 
tiên lượng kháng trị cũng khác. Thứ ba, sự 
khác nhau về định nghĩa kháng trị cũng dẫn 
đến sự khác biệt về tỉ lệ kháng trị cho từng 
nghiên cứu. Thứ tư, sự khác biệt về địa lý, tình 
trạng kinh tế xã hội sẽ dẫn đến sự khác biệt về 
nguyên nhân động kinh, và các nước phát 
triển có thể tiếp cận với các thuốc chống động 
kinh thế hệ mới, chất lượng tốt thì số ca kháng 
trị có thể giảm hơn nữa. 
Tương tự nghiên cứu của Kong ST và Zhang 
Y thì nhóm chúng tôi có 81,26% có tổn thương 
cấu trúc gây ra cơn động kinh được ghi nhận, có 
thể thấy, nguyên nhân cấu trúc vẫn chiếm tỉ lệ 
cao trong nhóm nguyên nhân động kinh kháng 
trị người lớn(8,10). 2/3 trường hợp động kinh có 
căn nguyên cấu trúc, tiên lượng bệnh nhân động 
kinh tùy thuộc vào loại tổn thương, cũng như 
mức độ lan rộng của tổn thương, ví dụ như tổn 
thương xơ chai hải mã hay loạn sản vỏ não thùy 
trán sẽ tiên lượng khác một tổn thương nhuyễn 
não cũ vùng đính do chấn thương. Với kết quả 
này cũng cho thấy, với một bệnh nhân động 
kinh cục bộ, cần xem xét kĩ lưỡng tổn thương 
cấu trúc đi kèm và theo dõi quá trình điều trị tại 
các đơn vị động kinh nếu khó kiểm soát ổn cơn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, xơ chai hải 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 60
mã, đột quị và loạn sản vỏ não là 3 nguyên nhân 
chiếm tỉ lệ cao nhất, điều này có những kết quả 
tương tự của Hui ACF và Farghaly WM(9,10) Hui 
cũng đề cập ở Trung Quốc tại khu vực ông thực 
hiện nghiên cứu tỉ lệ nhiễm trùng thần kinh 
trung ương cao, dẫn đến tỉ lệ căn nguyên nhiễm 
trùng cao hơn các dân số khác(10). Với nghiên cứu 
của Mukherjee J, do đa phần bệnh nhân là trẻ 
em, phân bố nguyên nhân chiếm tỉ lệ cao nhất là 
động kinh vô căn, sau đó là bệnh não thiếu máu- 
thiếu oxy, u hạt và sau đó mới là xơ chải hãi 
mã(5). Farghaly WM (2016) ghi nhận nguyên 
nhân ngoài những nguyên nhân trên bảng còn 
có biến chứng chu sinh 12%, dị tật não bẩm sinh 
4%, u xơ củ 2%(9). Nghiên cứu cũng ủng hộ rằng 
căn nguyên động kinh đóng vai trò quan trọng 
trong tiên lượng đáp ứng thuốc. Động kinh cấu 
trúc/chuyển hóa chiếm 46% trường hợp kháng 
trị, trong khi tỉ lệ này của nhóm chứng là 12. 
Có một số giả thuyết về tiến triển của động 
kinh kháng trị. Những giả thuyết gần đây cho 
rằng, trong phần lớn các ca, tình trạng kháng trị 
có thể đã hình thành đầy đủ trước khi cơn động 
kinh đầu tiên xảy ra, và ít nhất là trước lúc bắt 
đầu cơn động kinh đầu tiên. Do đó, việc đáp 
ứng với thuốc chống động kinh đầu tiên, đặc 
biệt trên nhóm động kinh cục bộ, được xem là 
yếu tố nguy cơ cho kết cục dài hạn của bệnh 
nhân. Zhang Y (2013) ghi nhận tình trạng kháng 
trị với thuốc mới xảy ra trên 12,78% bệnh nhân, 
những bệnh nhân này có xu hướng đáp ứng 
kém với thuốc đầu tiên(11). Do đó mô hình hồi 
qui của chúng tôi có điểm mới khi đáp ứng tốt 
với thuốc chống động kinh đầu tiên là một yếu 
tố nguy cơ so với những nghiên cứu ở trên. 
Hoàn cảnh khởi phát cả ngày và đêm cũng gợi ý 
tình trạng kiểm soát cơn kém cả ngày và đêm, 
khiến các tế bào thần kinh bị tổn thương, là một 
yếu tố nguy cơ trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Các yếu tố nguy cơ sau phân tích hồi qui đa 
biến của chúng tôi cũng ghi nhận trong nghiên 
cứu của Sillanpää M 1993, một nghiên cứu đoàn 
hệ tại Finland với 178 bệnh nhân từ 23-39 tuổi, 
với định nghĩa kháng trị là có cơn hằng năm 
trong ít nhất 10 năm qua và không có hơn 1 năm 
không cơn, một tiêu chuẩn khá gắt gao, khi ghi 
nhận yếu tố nguy cơ là đáp ứng kém trong giai 
đoạn sớm với thuốc chống động kinh, tần suất 
cơn co giật cao trước điều trị, căn nguyên triệu 
chứng xa (remote symptomatic aetiology)(11). 
Ngoài ra nghiên cứu yếu tố nguy cơ sau phân 
tích hồi qui đa biến của chúng tôi còn có cơn 
động kinh từ thùy thái dương mà ít các nghiên 
cứu đề cập, cũng là nhóm thường gặp nhất của 
của động kinh căn nguyên cấu trúc trong các 
nghiên cứu về kháng trị, tuy nhiên khu trú hơn, 
phải có sự tương hợp giữa lâm sàng, điện não và 
cận lâm sàng. Trong mẫu của chúng tôi ghi nhận 
tỉ lệ cao các ca xơ chai hải mã, loạn sản vỏ não 
thái dương và đột quị với tổn thương thái dương 
gây triệu chứng trong nhóm kháng trị cao hơn 
trong nhóm kiểm soát tốt, cùng với sự ủng hộ 
của lâm sàng và điện não. 
KẾT LUẬN 
Với 160 ca, tỉ lệ động kinh kháng trị là 20%, 
nguyên nhân ưu thế trong nhóm này là xơ chai 
hải mã 37,5%, sau đó là đột quị và loạn sản vỏ 
não, 53,13% ca định khu thái dương, 78,13% ca 
phân loại căn nguyên cấu trúc, kèm các yếu tố 
nguy cơ của kháng trị sau phân tích hồi qui đa 
biến là tần suất cơn co giật trước điều trị cao, 
định khu động kinh thùy thái dương, hoàn cảnh 
khởi phát cơn cả ngày và đêm, đáp ứng kém với 
thuốc chống động kinh đầu tiên. Các kết quả ghi 
nhận được sẽ giúp ích các nhà lâm sàng trong 
nhận diện và điều trị các bệnh nhân động kinh 
kháng trị tại Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Kwan P, Sander JW (2004). The natural history of epilepsy: an 
epidemiological view, J Neurol Neurosurg Psychiatry, 75(10):1376-
81. 
2. Tang F, Hartz Ams, Bauer B (2017). Drug-Resistant Epilepsy: 
Multiple Hypotheses, Few Answers. Front Neurol, 8:301. 
3. Kalilani L, Sun X, Pelgrims B, et al (2018). The epidemiology of 
drug-resistant epilepsy: A systematic review and meta-analysis. 
Epilepsia, 59 (12):2179-2193. 
4. Blume Wt (2006). Focal seizures: intractability and semiology. 
Adv Neurol, 97:17-25. 
5. Mukherjee J, Chakraborty DP, Guha G, et al (2017). Recent Drug 
Resistant Epilepsy Spectrum in Eastern India. J Epilepsy Res, 
7(1):39-44. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 61
6. Kwan P, Arzimanoglou A, Berg AT, et al (2010). Definition of 
drug resistant epilepsy: consensus proposal by the ad hoc Task 
Force of the ILAE Commission on Therapeutic Strategies. 
Epilepsia, 51(6):1069-77. 
7. Giussani G, Canelli V, Bianchi E, et al (2016). A population-
based study of active and drug-resistant epilepsies in Northern 
Italy. Epilepsy Behav, 55:30-7. 
8. Kong ST, Ho CS, Ho PC, et al (2014). Prevalence of drug 
resistant epilepsy in adults with epilepsy attending a neurology 
clinic of a tertiary referral hospital in Singapore. Epilepsy Res, 
108(7):1253-62. 
9. Farghaly WM, El-Tallawy HN, Rageh TA, et al (2013). 
Epidemiology of uncontrolled epilepsy in the Al-Kharga 
District, New Valley, Egypt. Seizure, 22(8):611-6. 
10. Hui AC, Wong A, Wong HC, et al (2007). Refractory epilepsy in 
a Chinese population. Clin Neurol Neurosurg, 109(8):672-5. 
11. Zhang Y, Yu N, Su L, et al (2013). A prospective cohort study of 
prognosis for newly diagnosed epilepsy in east China. BMC 
Neurol, 13:116. 
12. Sillanpää M (1993). Remission of seizures and predictors of 
intractability in long-term follow-up. Epilepsia, 34(5):930-6. 
Ngày nhận bài báo: 20/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfti_le_dong_kinh_khang_tri_va_nguyen_nhan_tren_benh_nhan_dong.pdf