Tỉ lệ bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu
Đặt vấn đề: Nạn bạo hành gia đình (BHGĐ) đã và đang là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, nó không chỉ ảnh
hưởng đến cá nhân bị bạo hành, những thành viên trong gia đình mà còn gây ra những tác động, hậu quả tiêu
cực cho xã hội.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ phụ nữ bị bạo hành gia đình do chồng hoặc bạn tình gây ra và các yếu tố liên quan ở
phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu trong năm 2013
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả
Kết quả nghiên cứu: Tình trạng bạo lực xảy ra nhiều ở phụ nữ lứa tuổi 18 – 29, đa số họ ở nhà và thiếu
kinh nghiệm trong cuộc sống hôn nhân. Phụ nữ bị bạo hành tinh thần cao hơn nhiều so với thể xác
(48,5%>14,8%). Bạo hành tình dục chỉ có 2%. Quát mắng, nạt nộ, đập phá đồ đạc, tát, ném, xô đẩy, đánh là
những hình thức bạo hành thường xảy ra. Hầu hết các tình huống dẫn đến bạo hành là do người chồng nghiện
hút, cờ bạc, uống rượu. Phụ nữ nghèo và phụ thuộc chồng có khả năng bị bạo hành cao hơn.
Kết luận: Mặc dù ở nước ta Luật Phòng, chống bạo hành gia đình đã có hiệu lực, nhưng hiện tượng bạo
hành vẫn chưa thuyên giảm, đặc biệt là bạo hành tinh thần. Tỉnh cần tạo công ăn việc làm để phụ nữ không phụ
thuộc kinh tế vào chồng và tăng cường giáo dục để mọi người hiểu biết, ý thức, và có thái độ đúng về vấn đề bình
đẳng giới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỉ lệ bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 463 TỈ LỆ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỪ 18 ĐẾN 60 TUỔI TẠI TỈNH BÀ RỊA‐VŨNG TÀU Nguyễn Tấn Thanh Tuyền*, Đỗ Văn Dũng** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nạn bạo hành gia đình (BHGĐ) đã và đang là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, nó không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bị bạo hành, những thành viên trong gia đình mà còn gây ra những tác động, hậu quả tiêu cực cho xã hội. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ phụ nữ bị bạo hành gia đình do chồng hoặc bạn tình gây ra và các yếu tố liên quan ở phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu trong năm 2013 Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả Kết quả nghiên cứu: Tình trạng bạo lực xảy ra nhiều ở phụ nữ lứa tuổi 18 – 29, đa số họ ở nhà và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống hôn nhân. Phụ nữ bị bạo hành tinh thần cao hơn nhiều so với thể xác (48,5%>14,8%). Bạo hành tình dục chỉ có 2%. Quát mắng, nạt nộ, đập phá đồ đạc, tát, ném, xô đẩy, đánh là những hình thức bạo hành thường xảy ra. Hầu hết các tình huống dẫn đến bạo hành là do người chồng nghiện hút, cờ bạc, uống rượu. Phụ nữ nghèo và phụ thuộc chồng có khả năng bị bạo hành cao hơn. Kết luận: Mặc dù ở nước ta Luật Phòng, chống bạo hành gia đình đã có hiệu lực, nhưng hiện tượng bạo hành vẫn chưa thuyên giảm, đặc biệt là bạo hành tinh thần. Tỉnh cần tạo công ăn việc làm để phụ nữ không phụ thuộc kinh tế vào chồng và tăng cường giáo dục để mọi người hiểu biết, ý thức, và có thái độ đúng về vấn đề bình đẳng giới. Từ khóa: bạo hành, gia đình, phụ nữ, Vũng Tàu SUMMARY PERCENTAGE OF DOMESTIC VIOLENCE AGAINST WOMEN AGED 18 TO 60 YEARS IN BA RIA‐ VUNG TAU PROVINCE Nguyen Tan Thanh Tuyen, Do Van Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 463 – 468 Background: Domestic violence has been aserious problem these days. It affects not only the individual sand their family members, but also causes serious consequences and negative impacts for community. Objective: To determine the percentage of women aged 18 to 60 years, living in Ba Ria‐Vung Tau in 2013 and abused by their husbands or intimate partners; and associated factors. Method: A descriptive cross‐sectional study was conducted. Results: The highest rate of violence was among women aged 18‐29 years because most of them are housewives and lack of marriage experiences. There was a much higher rate of psychological violence against women (48.5%) than physical violence (14.8%) while sexual violence is only about 2%. Domestic violence acts are usually shouting, fulminatory, smashing, slapping, throwing objects, shoving and hitting. Addiction to drugs, gambling, and alcohol of a man was a common excuse for violence. Women who have poor economic conditions remains economically dependent on their husbands/partners are at higher risk of violence. Conclusions: Although the Law on Domestic Violence Prevention and Control has promulgated, but Trung tâm CSSKSS Tỉnh BR‐VT **Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Tấn Thanh Tuyền ĐT: 01289888111 Email: [email protected] Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 464 domestic violence is still challenging, particularly in psychological violence. Hence, local authorities need to create more job opportunities for women and education campaigns about gender equity. Key word: Domesticviolence, violence, violence against women. ĐẶT VẤNĐỀ Bạo hành gia đình đối với phụ nữ đã được Chính phủ thừa nhận như là một vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam cũng như toàn thế giới. Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và chấm dứt bạo hành đối với phụ nữ thông qua việc phê chuẩn một số hiệp định quốc tế cơ bản về quyền con người, bao gồm cả những hiệp định về quyền dân sự và chính trị kinh tế, văn hóa và xã hội phân biệt chủng tộc, bình đẳng giới và quyền trẻ em(1).Tuy nhiên, các kiến thức và nhận thức về BHGĐ của người dân và những người có trách nhiệm vẫn còn hạn chế. Một trong những yếu tố góp phần vào tình trạng này là do BHGĐ vẫn bị coi là một vấn đề riêng tư mà xã hội không nên can thiệp và bạo hành được chấp nhận như một hành vi bình thường Bà Rịa ‐ Vũng Tàu là cửa ngõ phía Đông về cả đường thủy và đường bộ của miền Đông Nam Bộ, tiếp giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, với TP Hồ Chí Minh ở phía Tây, với tỉnh Bình Thuận ở phía Đông, còn phía Nam giáp Biển Đông, với diện tích 1.975,15 km2, có bờ biển dài 305,4 km. Hiện nay tỉnh có 8 đơn vị hành chính gồm 01 thành phố, 01 thị xã, 05 huyện trên đất liền và 01 huyện đảo. Dân số toàn tỉnh 1.050.000 người, số phụ nữ tuổi 15‐ 49 tuổi 256.000 người trong đó có 171.200 người có chồng. Ngành du lịch phát triển cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, hàng năm thu hút hàng chục ngàn lao động tự do, lao động thời vụ đến từ nhiều ngành trong cả nước. Năm 2012, các cơ quan chức năng trên địa bàn toàn tỉnh đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình về phòng, chống BHGĐ. Nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình về phòng, chống BHGĐ đã được tổ chức. Tuy nhiên, cho đến nay trên địa bàn toàn tỉnh vẫn chưa có nghiên cứu quy mô rộng nào được thực hiện để xác định tỉ lệ phụ nữ trên địa bàn tỉnh đã và đang gánh chịu những hành vi bạo hành do chính chồng hoặc bạn tình gây ra. Cũng như việc xác định các yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến tỉ lệ này để định hướng và có những chính sách phòng chống hợp lý. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ bị bạo hành gia đình. Xác định mối liên quan bạo hành với các đặc tính của phụ nữ. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thời gian nghiên cứu: năm 2013 Đối tượng: Tất cả các phụ nữ có chồng (bao gồm những trường hợp ly thân, ly hôn, góa), đang hoặc đã từng chung sống với bạn tình không hôn thú, độ tuổi từ 18 đến 60 tuổi tại Bà Rịa. Cỡ mẫu: Theo công thức ước lượng một tỷ lệ. Dùng kỹ thuật chọn mẫu cụm và lấy p = 0,58 là trị số ước đoán tỉ lệ phụ nữ bị bạo hành theo tổng báo cáo của Nghiên cứu quốc gia về BHGĐ đối với phụ nữ tại Việt Nam của Tổng cục thống kê, tỉ lệ phụ nữ từng bị ít nhất một trong ba loại bạo hành thể xác, tình dục và tình thần trong cuộc đời với k = 2, cỡ mẫu của nghiên cứu là 750 KẾT QUẢ Đặc tính mẫu nghiên cứu (N=750) Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi Từ 18 đến 29 tuổi 310 41,3 Từ 30 đến 39 tuổi 235 31,3 Từ 40 đến 49 tuổi 116 15,5 Từ 50 đến 60 tuổi 89 11,9 Trình độ học vấn Mù chữ 28 3,7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 465 Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) Cấp 1 137 18,3 Cấp II 238 31,7 Cấp 3 210 28,0 Trên cấp 3 137 18,3 Nghề nghiệp Nội trợ, thất nghiệp 315 42,0 Lao động chân tay 264 35,2 Lao động trí óc 171 22,8 Có phụ thuộc kinh tế vào chồng 484 64,5 Có sinh hoạt trong Hội phụ nữ 146 19,5 Độ tuổi phụ nữ còn khá trẻ, trong đó độ tuổi từ 18‐29 tuổi gần 42%. Trình độ học vấn cấp II chiếm đa số, tuy nhiên tỉ lệ phụ nữ có học vấn từ cấp 3 trở lên chiếm khá cao (46,3%). Có 23% lao động trí óc, tỉ lệ phụ nữ nội trợ, thất nghiệp và về hưu chiếm khá cao đến 42%. 65% phụ nữ vẫn còn lệ thuộc vào kinh tế của chồng. Phụ nữ có tham gia sinh hoạt trong Hội phụ nữ khá thấp chỉ khoảng 20% (Bảng 1). Tỉ lệ bạo hành gia đình Phụ nữ bị bạo hành gia đình là 381 (49,2%), trong đó, bạo hành tinh thần là 364 (48,5%), bạo hành thể xác là 111 (14,8%) và bạo hành tình dục là 15 (2%). Bạo hành thể xác (n= 111) chiếm đa số là tát hoặc ném vật gì đó với 92,5% kế đến là đẩy, xô thứ gì vào người, kéo tóc (30,2%), đánh, đấm hoặc đánh bằng vật (32,1%); gây thương tích là 22,6%. Bạo hành tinh thần (n= 364) đa số là bị quát mắng, đập phá đồ đạc với 86,6%, kế đến là sỉ nhục, lăng mạ (18,8%) và coi thường, làm bẽ mặt (10,4%), gây tổn thương tâm lý là 17,3%. Bảng 2: Mối liên quan giữa BHGĐ 12 tháng qua với đặc điểm dân số xã hội (n = 750) Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không (%) Trình độ học vấn Mù chữ và cấp 1 51 (30,9) 114 (69,1) 1 Cấp II và cấp 3 143 (31,9) 305 (68,1) 0,812 1,03 (0,79-1,34) Trên cấp 3 24 (17,5) 113 (82,5) 0,009 0,57 (0,36-0,87) Nghề nghiệp Lao động chân tay 99 (37,5) 165 (62,5) 1 Lao động trí óc 36 (21,1) 135 (78,9) 0,001 0,56 (0,40-0,78) Nội trợ, thất nghiệp 83 (26,4) 232 (73,6) 0,004 0,70 (0,55-0,89) Tình trạng hôn nhân Sống cùng chồng 205 (28,7) 509 (71,3) 1 Sống cùng bạn tình 7 (50,0) 7 (50,0) 0,043 1,74 (1,02-2,97) Ly thân, ly hôn 6 (27,3) 16 (72,7) 0,884 0,95 (0,48-1,89) Tình trạng kinh tế Nghèo 35 (47,9) 38 (52,1) 0,001 1,77 (1,35-2,32) Không nghèo 183 (27,1) 494 (72,9) Phụ thuộc kinh tế chồng Có 155 (32,0) 329 (68,0) 0,016 1,35 (1,05-1,74) Không 63 (23,7) 203 (76,3) Phụ nữ có học vấn trên cấp 3 bị BHGĐ chỉ bằng 0,57 lần phụ nữ có học vấn là mù chữ và cấp 1 (p= 0,009). Phụ nữ lao động trí óc bị BHGĐ chỉ bằng 0,56 lần phụ nữ lao động chân tay (p= 0,001). Phụ nữ sống cùng bạn tình bị BHGĐ gấp 1,74 lần phụ nữ sống cùng chồng (p=0,043). Phụ nữ nghèo bị BHGĐ gấp 1,77 lần phụ nữ không nghèo (p= 0,001). Phụ nữ phụ thuộc kinh tế chồng bị BHGĐ gấp 1,35 lần phụ nữ không phụ thuộc kinh tế (p= 0,016). Bảng 3: Mối liên quan giữa BHGĐ với đặc điểm dân số xã hội của chồng (n =750) Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không(%) Trình độ học vấn Mù chữ, Cấp 1 42 (33,3) 84 (66,7) 1 Cấp II, Cấp 3 148 (31,8) 318 (68,2) 0,735 0,95 (0,72-1,26) Trên cấp 3 28 (17,7) 130 (82,3) 0,003 0,53 (0,35-0,81) Nghề nghiệp Lao động chân tay 160 (31,8) 344 (68,2) 1 Lao động trí óc 43 (20,9) 163 (79,1) 0,005 0,66 (0,49-0,88) Nội trợ 15 (37,5) 25 (62,5) 0,437 1,18 (0,78-1,79) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 466 Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không(%) Hút thuốc lá Có 145 (33,1) 293 (66,9) Không 73 (23,4) 239 (76,6) Uống rượu, bia Có 157 (32,3) 329 (67,7) Không 61 (23,1) 203 (76,9) Nghiện hút, cờ bạc Có 23 (74,2) 8 (25,8) <0,001 2,73 (2,15-3,48) Không 195 (27,1) 524 (72,9) Có hành động bạo hành với người khác Có 154 (60,6) 100 (39,4) <0,001 4,69 (3,66-6,03) Không 64 (12,9) 432 (87,1) Chồng hút thuốc lá có BHGĐ cao hơn 1,41 lần chồng không hút thuốc lá (p=0,004). Chông nghiện hút, cờ bạc có BHGĐ cao hơn 2,73 lần chồng không nghiện hút, cờ bạc (p<0,001). Chồng có hành động bạo hành với người khác có BHGĐ cao hơn 4,69 lần chồng không không bạo hành với người khác (p<0,001). BÀN LUẬN Tỉ lệ bạo hành gia đình Kết quả này phù hợp với Nghiên cứu đa quốc gia của WHO được bắt đầu từ năm 1997 về bạo hành đối với phụ nữ, hậu quả và nguyên nhân sâu xa của bạo hành đối với phụ nữ ở các quốc gia khác biệt về văn hóa và địa lý. Nghiên cứu được triển khai chính thức từ năm 2000 đến 2005 ở 11 quốc gia.Tỉ lệ phụ nữ từng bị bạo hành thể xác hay tình dục do chồng trong cuộc đời chiếm từ 15 đến 71% ở các quốc gia tham gia nghiên cứu của WHO(1). Tại Việt Nam, tỉ lệ bị bạo hành thể xác do người chồng gây ra cho phụ nữ Việt Nam từng kết hôn là 32% bị bạo hành thể xác trong cuộc đời. Đối với bạo hành tình dục: trong số những phụ nữ từng kết hôn, tỉ lệ bạo hành trong cuộc đời 10%. Đối với bạo hành tinh thần trong cuộc đời là 54%. Có đến 58% phụ nữ từng kết hôn cho biết rằng họ đã từng bị ít nhất 1 trong 3 loại bạo hành trong cuộc đời và 27% cho biết họ từng bị cả ba loại bạo hành trên trong vòng 12 tháng trước điều tra(5). Tỉ lệ bạo hành tình dục thấp (2%).Theo nhận định của Bà Henrica A.F.M. Jansen “Mặc dù bạo hành gia đình là một hiện tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị giấu diếm nhiều”.Ðiều đáng quan tâm nữa là phụ nữ‐nạn nhân của bạo hành gia đình có tâm lý cam chịu, không muốn tố cáo, sợ “vạch áo cho người xem lưng”.Điều này có thể làm cho số liệu thống kê không đúng với tình hình thực tế, ảnh hưởng đến tầm nhìn khách quan và đánh giá tầm quan trọng của việc phòng chống bạo hành gia đình trong xã hội(5). Bạo hành về tinh thần (chửi bới, lăng mạ, xỉ nhục) không để lại vết thương trên cơ thể như bạo hành thể xác, nhưng lại làm cho người phụ nữ tê liệt về tinh thần, bị trầm cảm kéo dài, tổn hại nghiêm trọng đến thần kinh và thể xác. Không ít phụ nữ sau đó đã phải điều trị lâu dài tại các bệnh viện tâm thần, tốn kém thời gian, tiền bạc mà khả năng hoàn toàn bình phục là rất khó, khả năng tái phát bệnh là rất cao.Theo WHO, phụ nữ đã trải qua bạo hành gia đình có nguy cơ gia tăng bệnh trầm cảm và hành vi tự tử, tổn thương về thể chất, rối loạn tâm thần, mang thai ngoài ý muốn, HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục(4,6). Nguyên nhân được cho là do tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ và tính cam chịu, an phận của chị em phụ nữ. Chính quyền địa phương nên đưa việc hoà giải tại cộng đồng hay xử phạt hành chính thỏa đáng, để răn đe và nâng cao nhận thức cho người dân. Phát thanh tuyên truyền về nội dung phòng, chống bạo hành gia đình và thực hiện bình đẳng giới là điều cần thiết để ngăn chặn BHGĐ trong xã hội hiện nay. Các yếu tố liên quan đến bạo hành Bạo hành gia đình là một hiện tượng xã hội, nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau Điều dễ nhận thấy là Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 467 bạo hành trong gia đình có xu hướng phổ biến hơn ở cộng đồng có mức sống và dân trí thấp(2).Thật vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, có mối liên quan giữa bạo hành phụ nữ với trình độ học vấn của phụ nữ. Cụ thể là, những phụ nữ có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên có tỉ lệ BHGĐ 12 tháng qua chỉ bằng 0,57 lần (KTC: 0,36‐0,87) so với nhóm phụ nữ có trình độ học vấn từ cấp 1 trở xuống. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa phụ nữ bị bạo hành gia đình với nghề nghiệp của họ. Phụ nữ lao động trí óc có tỉ lệ BHGĐ 12 tháng qua chỉ bằng 0,56 lần (KTC: 0,4‐ 0,78) so với nhóm phụ nữ lao động chân tay. Theo một số đề tài khác cũng tiến hành nghiên cứu nhiều nhân tố có liên quan đến BHGĐ, và nhận thấy các hành vi bạo hành thường xảy ra trong gia đình không có mối tương quan đối với tôn giáo, nhưng lại có mối liên quan với từng loại nghề nghiệp khác nhau và trình độ học vấn(3). Phụ nữ nghèo và phụ thuộc kinh tế chồng có khả năng bị bạo lực gia đình cao hơn với p<0,001. Chính sức mạnh kinh tế làm yếu tố nền tảng của đời sống xã hội, có một sự thật rằng người chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế thì làm chủ, và do vậy để duy trì chế độ nam quyền, phụ quyền thì bất bình đẳng cũng bắt đầu xuất hiện giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Nhưng cũng không thể coi đói nghèo là yếu tố lớn nhất đẻ ra nạn bạo hành gia đình, bởi lẽ có rất nhiều cặp vợ chồng quanh năm nghèo đói nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận và đầm ấm. Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa các tệ nạn xã hội và bạo hành giới trong gia đình. Những mặt trái của quan hệ thị trường đã tác động xấu đến quan hệ giới trong gia đình, như đề cao một cách thái quá những giá trị vật chất mà coi nhẹ giá trị tình cảm, đạo đức. Những mối quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân cũng là lý do của bạo hành gia đình, với nam giới thì còn có những tác động của các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện hút, rượu). Thật vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cung cấp thêm bằng chứng để làm sáng tỏ hơn những nhận định trên. Chúng tôi đã tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ BHGĐ 12 tháng qua với việc hút thuốc lá (p=0,004), uống rượu, bia (p=0,008) và nghiện hút/cờ bạc (p<0,001), có hành động bạo hành với người khác (p<0,001) của người chồng. KẾT LUẬN Phụ nữ bị bạo hành gia đình còn cao (49,2%), đặc biệt là bạo hành tinh thần 48,5% và bạo hành thể xác 14,8%. Tình trạng bạo hành gia đình có mối liên quan với trình độ học vấn thấp, nhóm nghề nghiệp lao động chân tay, thất nghiệp, tình trạng gia đình không hôn nhân; Gia đình nghèo, phụ thuộc kinh tế vào chồng, ở nhà thuê/mướn; chồng là những người nghiện thuốc lá, rượu, bia, hút sách, cờ bạc; chồng có tính hay gây hấn và thích bạo hành. KHUYẾN NGHỊ Tạo công ăn việc làm để phụ nữ có tiếng nói hơn về mặt kinh tế xã hội. Tăng cường giáo dục để mọi người hiểu biết, ý thức, và có thái độ đúng về vấn đề bình đẳng giới; Hội phụ nữ cần quan tâm hơn đối với những gia đình có chồng nghiện rượu, bia, hút sách, cờ bạc, hoặc có tính hay gây hấn và thích bạo hành cùng với những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Garcia‐Moreno C, Jansen HA, Ellsberg M, Heise L, Watts CH; WHO Multi‐country Study on Womenʹs Health and Domestic Violence against Women Study Team (2005) WHO Multi‐country Study on Women’s Health and Domestic Violence against Women. World Health Origanization. Geneva. Pp. 77‐98. 2. Hoàng Bá Thịnh (2003) ʺBạo hành trong gia đình ‐ Thực trạng và giải phápʺ. Tạp chí lý luận chính trị. 3. 65‐69. 3. Nguyễn Thị Hoàng Mai (2008) ʺThực trạng và giải pháp giảm bạo hành gia đình đối với phụ nữ tại thành phố Đà Nẵngʺ. Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 6, Đại học Đà Nẵng.Tr. 56‐78. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 468 4. Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2007) Phòng, chống bạo hành gia đình: Hiện trạng, nhu cầu và các ưu tiên can thiệp ở Phú Thọ và Bến Tre, Việt Nam.Tr. 78‐90. 5. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010) Báo cáo tóm tắt Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về Bạo hành gia đình với phụ nữ Việt Nam. Tr. 13‐56. 6. Vung ND, Ostergren PO, Krantz G (2008) Intimate partner violence against women in rural Vietnam‐‐different socio‐ demographic factors are associated with different forms of violence: need for new intervention guidelines?. BMC Public Health, 19 (2), 178‐182. Ngày nhận bài báo: 11/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
ti_le_bao_luc_gia_dinh_doi_voi_phu_nu_tu_18_den_60_tuoi_tai.pdf