Thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của các trường đại học Nhật Bản

Tóm tắt: Nhật Bản là quốc gia có mức độ thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ

(KH&CN) cao trên thế giới nhờ phát triển chính sách thương mại hóa sản phẩm KH&CN của các

trường đại học. Trong đó, quan trọng nhất là: xây dựng các đạo luật thúc đẩy hợp tác giữa trường

đại học và khu vực công nghiệp; hỗ trợ tài chính thông qua các dự án khởi nghiệp và vườn ươm

công nghệ gắn với các trường đại học; quản lý quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) thông qua xây dựng các

đạo luật SHTT và các văn phòng quản lý quyền SHTT tại các trường đại học.

pdf 7 trang phuongnguyen 5160
Bạn đang xem tài liệu "Thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của các trường đại học Nhật Bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của các trường đại học Nhật Bản

Thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của các trường đại học Nhật Bản
23 
Thương mại hóa sản phẩm khoa học 
và công nghệ của các trường đại học Nhật Bản 
Lê Thị Ái Lâm1, Nguyễn Hồng Nga1 
1 Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: leailam@hotmail.com 
Nhận ngày 12 tháng 10 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 11 năm 2018. 
Tóm tắt: Nhật Bản là quốc gia có mức độ thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ 
(KH&CN) cao trên thế giới nhờ phát triển chính sách thương mại hóa sản phẩm KH&CN của các 
trường đại học. Trong đó, quan trọng nhất là: xây dựng các đạo luật thúc đẩy hợp tác giữa trường 
đại học và khu vực công nghiệp; hỗ trợ tài chính thông qua các dự án khởi nghiệp và vườn ươm 
công nghệ gắn với các trường đại học; quản lý quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) thông qua xây dựng các 
đạo luật SHTT và các văn phòng quản lý quyền SHTT tại các trường đại học. 
Từ khóa: Chính sách, Nhật Bản, khoa học và công nghệ, thương mại hóa sản phẩm. 
Phân loại ngành: Kinh tế học 
Abstract: Japan is a country with a high level of commercialisation of products of science and 
technology as a result of its development of the policy for commercialising such products of 
universities. That includes, most importantly, the development of laws promoting the cooperation 
between universities and industry, financial support via start-up projects and technology incubators 
linked to universities, management of intellectual property rights through the development of laws 
on intellectual property and intellectual property right management offices in universities. 
Keywords: Policy, Japan, science and technology, product commercialisation. 
Subject classification: Economics 
1. Mở đầu 
Nhật Bản là quốc gia có mức độ thương mại 
hóa sản phẩm KH&CN của các trường đại 
học cao trên thế giới. Năm 2010, theo bảng 
xếp hạng Chỉ số Quyền SHTT Quốc tế, thì 
chỉ số quyền SHTT của Hoa Kỳ đứng thứ 
nhất, Nhật Bản đứng thứ 4, Hàn Quốc đứng 
thứ 23 và Trung Quốc đứng thứ 63. Đồng 
thời, số bằng sáng chế của Đại học Tokyo là 
khoảng 105, vượt xa so với con số của các 
trường đại học hàng đầu như Viện Khoa học 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
24 
và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (51), Đại 
học Oxford (46), Đại học Quốc gia 
Singapore (24), Đại học Thanh Hoa (24) [1]. 
Để có được những thành tựu như vậy, Nhật 
Bản đã có những nỗ lực mạnh mẽ trong tạo 
dựng và phát triển chính sách thương mại 
hóa sản phẩm KH&CN của các trường đại 
học. Bài viết này phân tích các chính sách 
chủ chốt như xây dựng thể chế pháp luật, hỗ 
trợ tài chính, và quản lý quyền SHTT. 
2. Chính sách xây dựng thể chế pháp luật 
Hợp tác trường đại học và khu vực công 
nghiệp (U-I) được biết đến ở Nhật Bản từ 
khá sớm, khi Khoa Kỹ thuật thuộc Trường 
Đại học Tokyo được thành lập năm 1886 
[9]. Tuy nhiên, những hợp tác U-I ban đầu 
chủ yếu dưới hình thức phi chính thức, các 
giáo sư tư vấn cho doanh nghiệp và doanh 
nghiệp tài trợ học bổng hoặc tuyển dụng 
sinh viên từ các trường đại học. Ngoài ra, 
phần lớn các trường đại học Nhật Bản đều 
thuộc sở hữu của nhà nước. Điều này làm 
gia tăng tính quan liêu ở các trường đại học, 
kìm chế sự đổi mới, cải tổ trước những nhu 
cầu đang không ngừng vận động của thị 
trường và hạn chế khả năng gắn kết trường 
đại học với các chủ thể khác trong nền kinh 
tế, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân. 
Chính vì vậy, Nhật Bản đã xây dựng thể 
chế luật pháp với các chính sách sau. 
Một là Đạo luật về Hợp tác Nghiên cứu 
và Phát triển (1961). Mặc dù chỉ tập trung 
vào hai ngành sản xuất và khai khoáng, 
song đạo luật này đã trực tiếp mở đường 
cho các hoạt động nghiên cứu hợp tác giữa 
ba nhà: nhà nước, nhà trường (đại học) và 
nhà doanh nghiệp. Sau khi đạo luật này 
được phê chuẩn năm 1970, hệ thống nghiên 
cứu hợp đồng giữa doanh nghiệp với các 
trường đại học công lập đã ra đời, và tiếp 
theo đó, đến năm 1983 ra đời hệ thống 
nghiên cứu hợp tác, đánh dấu những hoạt 
động hợp tác U-I chính thức đầu tiên ở 
Nhật Bản [6]. 
Hai là Luật cơ bản về Khoa học và Công 
nghệ (1995). Luật này quy định trách nhiệm 
của nhà nước trong việc xây dựng và thực 
thi các chính sách thúc đẩy KH&CN, trong 
đó nhấn mạnh tới vai trò của chính phủ đối 
với hợp tác U-I giữa phòng thí nghiệm 
nghiên cứu và triển khai (R&D) quốc gia, 
các trường đại học, khối doanh nghiệp - 
đảm bảo sự cân bằng giữa nghiên cứu cơ 
bản với nghiên cứu ứng dụng. Theo đó, 
chính phủ Nhật Bản đã triển khai các kế 
hoạch cơ bản về KH&CN từ năm 1996 và 
kế hoạch lần thứ 5 giai đoạn 2016-2020, ưu 
tiên hỗ trợ tài chính cho hoạt động nghiên 
cứu, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên 
cứu, phát triển hệ thống đổi mới quốc gia 
trên cơ sở mở rộng mạng lưới nghiên cứu 
và triển khai các chính sách thúc đẩy hợp 
tác giữa U-I [10]. Đạo luật này đã tạo ra 
một bước ngoặt trong định hướng phát triển 
công nghiệp, đưa chính sách kết nối U-I trở 
thành một trong những trọng tâm chính 
sách của Nhật Bản. 
Ba là Đạo luật Xúc tiến Chuyển giao Công 
nghệ từ các trường đại học tới khối tư nhân 
(1998), (Luật TLO). Đạo luật này quy định 
trách nhiệm của nhà nước trong việc đẩy 
mạnh mối quan hệ giữa các trường đại học, 
các tổ chức nghiên cứu nhà nước với doanh 
nghiệp; đồng thời cho phép thành lập Văn 
phòng TLO trong/ngoài các trường đại học. 
Bốn là Luật Nâng cao Năng lực Công 
nghệ Công nghiệp (2000). Luật này giải 
phóng nhà nghiên cứu, nhà khoa học của 
các trường đại học và các tổ chức nghiên 
Lê Thị Ái Lâm, Nguyễn Hồng Nga 
25 
cứu khỏi tư cách một công chức nhà nước, 
để trở thành những chủ thể độc lập được tự 
do làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân. 
Đạo luật này đã cho phép các giáo sư hợp 
tác lâu dài với doanh nghiệp, từ đó giúp các 
hoạt động chuyển giao sản phẩm nghiên 
cứu và sản phẩm công nghệ diễn ra thuận 
tiện hơn. Nhờ có Đạo luật này, các giáo sư 
có thể đóng vai trò là người tư vấn cho 
doanh nghiệp, đảm nhận các vị trí quản lý 
trong doanh nghiệp, được tự do tham gia 
hội đồng quản trị của các công ty tư nhân. 
Đây được coi là chất xúc tác giúp hình 
thành và phát triển các công ty spin-off2 ở 
Nhật Bản. 
Năm là Kế hoạch Hiranuma. Kế hoạch 
này thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua 
mục tiêu thành lập 1.000 doanh nghiệp khởi 
nghiệp từ các trường đại học trong vòng 3 
năm, từ đó tạo điều kiện để chuyển giao 
công nghệ từ khu vực học thuật nghiên cứu 
sang khu vực sản xuất công nghiệp. 
Sáu là Luật Đại học Quốc gia (2004). 
Theo Luật này, Chính phủ Nhật Bản quyết 
định trao quyền tự chủ cho các trường đại 
học, theo đó các cơ sở giáo dục đại học trở 
thành các tổ chức hành chính độc lập. “Độc 
lập” ở đây được hiểu là các trường đại học 
có tư cách pháp nhân và có quyền hợp tác, 
ký kết hợp đồng với bất cứ tổ chức, cá nhân 
nào, kể cả các doanh nghiệp tư nhân, và có 
cơ hội nhận được hỗ trợ tài chính cho công 
tác giáo dục và nghiên cứu từ nhiều nguồn 
khác nhau [9]. 
Bảy là Luật cơ bản về giáo dục (2006), 
Luật Thúc đẩy R&D (2008). Các luật này 
nhấn mạnh các trường đại học phải đóng 
góp cho sự phát triển của xã hội thông qua 
việc phổ biến và ứng dụng các kết quả hoạt 
động của mình. Tuy nhiên, cũng cần chú ý 
rằng điểm khác biệt giữa Nhật Bản so với 
nhiều quốc gia khác là ở chỗ, Nhật Bản có 
một cơ chế U-I truyền thống rất chặt chẽ. 
Dù trong bất cứ thời điểm nào, dù cơ chế 
hợp tác U-I là chính thức hay phi chính 
thức, thì các giáo sư vẫn luôn giữ được mối 
quan hệ tốt với doanh nghiệp. Bằng chứng 
là, một trong những thành viên sáng lập 
công ty Toshiba hiện nay (trước là công ty 
Hakunetsh-sha) chính là giáo sư Ichisuke 
Fujioka của trường Đại học Kogakuryo. 
Hay giáo sư Kikunae Ikeda của trường Đại 
học Tokyo, người phát minh ra vị ngon 
(umami) trong bột ngọt, chính là đồng sáng 
lập của công ty Ajinomoto. Thực tế này cho 
thấy các giáo sư không chỉ là nhân tố trung 
tâm, là khối óc của các dự án nghiên cứu, 
mà còn đóng vai trò là người chủ động khởi 
xướng, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp và 
phát động các chương trình chuyển giao 
công nghệ tới doanh nghiệp. Trong khi đó, 
doanh nghiệp không chỉ đóng vai trò là đối 
tác (hợp tác nghiên cứu và tuyển dụng 
những kỹ sư có năng lực từ các trường đại 
học), mà còn hỗ trợ đắc lực về mặt tài chính 
và nhân sự cho các nhà khoa học theo đuổi 
những dự án nghiên cứu của mình [10]. 
3. Chính sách hỗ trợ tài chính 
Nâng cao năng lực nghiên cứu của các 
trường đại học là một trong những điều 
kiện tiên quyết giúp thúc đẩy cơ chế hợp tác 
U-I, bởi doanh nghiệp sẽ không sẵn sàng 
hợp tác nếu cơ sở nghiên cứu không đủ 
năng lực tạo ra được những sản phẩm 
KH&CN có chất lượng. Chính vì vậy, 
Chính phủ và các doanh nghiệp Nhật Bản 
đã hỗ trợ tài chính, đầu tư cơ sở hạ tầng, 
nâng cao năng lực nghiên cứu ở các trường 
đại học, đặc biệt là, tăng cường đầu tư cho 
các hoạt động R&D. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
26 
Chỉ tính riêng trong năm 2000, 90% 
nguồn quỹ đầu tư R&D của Chính phủ Nhật 
Bản đã được phân bổ cho các trường đại học 
công lập và các phòng thí nghiệm quốc gia 
[11]. Ngay cả trong những thời điểm phải 
cắt giảm chi tiêu, ngân sách chính phủ dành 
cho hoạt động R&D vẫn được duy trì tăng. 
Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa 
học và công nghệ (MEXT) và Bộ Kinh tế, 
Thương mại và Công nghiệp (METI) là hai 
cơ quan đảm nhiệm việc xúc tiến các 
chương trình đầu tư tài chính cũng như cơ 
sở vật chất cho các trường đại học nhằm 
đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học. 
Ví dụ, các cơ quan này đã đầu tư mở rộng 
các khoa nghiên cứu KH&CN, xây dựng 
các phòng thí nghiệm mới, tăng ngân sách 
cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, hỗ 
trợ xây dựng và cung cấp thiết bị cho các 
vườn ươm công nghệ. Trong giai đoạn 
2000-2010, METI và MEXT đã đầu tư 
khoảng 135,5 tỷ yên cho các dự án khởi 
nghiệp ở trường đại học, 175 tỷ yên để 
trang bị cho các vườn ươm công nghệ và 
66,5 tỷ yên phát triển mạng lưới nhà nghiên 
cứu và doanh nghiệp [2]. Năm 2014, gần 
70% ngân sách R&D của Nhật Bản được 
trao cho MEXT để triển khai các hoạt động 
phát triển KH&CN [3] . 
Ngoài ra, các tổ chức, các doanh nghiệp 
cũng tích cực tham gia đầu tư cho các vườn 
ươm công nghệ; không chỉ hỗ trợ về tài 
chính mà còn hỗ trợ cách thức quản lý hoạt 
động và hoạch định chiến lược phát triển. 
Ví dụ, vườn ươm Kyoto Mikuruma được 
xây dựng vào năm 2005 trong khuôn viên 
trường Đại học Kyoto. Nguồn quỹ để xây 
dựng vườn ươm này do SMRJ, một tổ chức 
của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa 
Nhật Bản, tài trợ. Đa phần các doanh 
nghiệp trong vườn ươm Kyoto Mikuruma 
đều có mối liên kết hợp tác nghiên cứu với 
các trường đại học ở Kyoto, trong đó 35% 
số doanh nghiệp đang hợp tác R&D với 
trường Đại học Kyoto hoặc trường Đại học 
Kyoto Prefecture Rika (những trung tâm 
KH&CN hàng đầu của Nhật Bản). Các 
doanh nghiệp được lựa chọn ươm tạo ở 
Kyoto Mikuruma đều phải là những công ty 
được Diễn đàn Doanh nghiệp Kyoto (KVF) 
xếp hạng A. Bên cạnh ưu đãi được cắt giảm 
50% tiền thuê đất trong vòng 3 năm, các 
thành viên của KVF cũng hỗ trợ doanh 
nghiệp công nghệ ở Kyoto Mikuruma mở 
rộng quan hệ hợp tác với các đối tác địa 
phương và các đối tác quốc tế [2]. 
Nhờ sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ 
và doanh nghiệp, chỉ trong vòng mười năm, 
số lượng các vườn ươm công nghệ ở Nhật 
Bản đã tăng gấp mười lần, từ 30 vườn ươm 
năm 2000 lên 336 năm 2010. Trong đó, 
Nhật Bản đặc biệt chú trọng đầu tư phát 
triển các vườn ươm công nghệ trong hoặc 
gần khuôn viên các trường đại học. Những 
vườn ươm này tập trung đông đúc nhất ở 
khu vực Kanto (Tokyo) và Kansai (Kyoto 
và Osaka) - nơi tập trung nhiều trường đại 
học công của Nhật. Các vườn ươm này đã 
tạo ra một môi trường giúp sản sinh và nuôi 
dưỡng hàng ngàn doanh nghiệp khởi nghiệp 
trong nhiều lĩnh vực như công nghệ thông 
tin, công nghệ môi trường và dịch vụ. Vì 
vậy, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp 
trong trường đại học đã tăng lên nhanh 
chóng từ vài trăm trong năm 2000 lên tới 
hơn 1.800 doanh nghiệp trong năm 2008 
[2]. Những doanh nghiệp này chính là cầu 
nối mang các sản phẩm nghiên cứu đến với 
thị trường một cách dễ dàng hơn. 
Bên cạnh đó, các trường đại học công lập 
như Đại học Tokyo hay Tohoku còn thành 
lập các Quỹ Đầu tư mạo hiểm hỗ trợ cho 
Lê Thị Ái Lâm, Nguyễn Hồng Nga 
27 
doanh nghiệp khởi nghiệp (doanh nghiệp sử 
dụng các thành tựu công nghệ do trường đại 
học phát minh để kinh doanh). Chính phủ 
Nhật Bản và các trường đại học rất quan 
tâm tới việc xây dựng nguồn quỹ này khi số 
vốn đầu tư liên tục tăng qua từng năm. Tính 
riêng trong năm 2014, tổng giá trị của các 
Quỹ Đầu tư mạo hiểm cho các trường đại 
học công lập ở Nhật đạt 940 triệu USD, 
trong đó Đại học Tokyo và Tohoku nhận 
được khoảng 500 triệu USD, Đại học Kyoto 
nhận được 293 triệu USD và Đại học Osaka 
nhận được gần 100 triệu USD [8]. Nhờ đó, 
số doanh nghiệp khởi nghiệp đối tác của 
các trường đại học (được sáng lập bởi một 
khoa, cựu sinh viên, giáo sư, hoặc những 
người đã từng tiến hành nghiên cứu) không 
ngừng gia tăng. Năm 2010, nếu như trường 
Đại học Tokyo chỉ có khoảng 120 doanh 
nghiệp khởi nghiệp, thì chỉ trong vòng 5 
năm sau con số này đã tăng gần gấp đôi, lên 
tới xấp xỉ 250 doanh nghiệp [7]. Điều này 
cho thấy, Nhật Bản đã tạo dựng được một 
hệ sinh thái với nhiều điều kiện thuận lợi 
cho việc chuyển giao và thương mại hóa 
các kết quả nghiên cứu. 
4. Chính sách quản lý quyền sở hữu trí tuệ 
Cùng với những cải tổ về thể chế luật pháp 
nhằm thúc đẩy cơ chế U-I, Chính phủ Nhật 
Bản cũng đưa ra những điều chỉnh pháp lý 
liên quan tới việc quản lý quyền SHTT đối 
với các phát minh, sáng chế trong trường 
đại học. Các điều chỉnh đó như sau. 
Một là Đạo luật các Biện pháp Đặc biệt 
nhằm Tái sinh ngành Công nghiệp và Đổi 
mới các hoạt động công nghiệp” (1999). 
Đây được mệnh danh là Đạo luật Bayh-
Dole của Nhật Bản. Đạo luật này cho phép 
các trường đại học đứng tên, sở hữu các 
phát minh hoặc sáng kiến ra đời từ các 
chương trình nghiên cứu được nhà nước tài 
trợ, thay vì trước đó các giáo sư là chủ thể 
duy nhất được sở hữu những kết quả nghiên 
cứu này. 
Hai là Luật TLO (1998). Luật này cho 
phép thành lập TLO trong trường đại học 
nhằm giúp các trường chủ động hơn trong 
việc quản lý SHTT và chuyển giao phát 
minh cho doanh nghiệp, tạo dựng một lộ 
trình thuận tiện và minh bạch đối với hoạt 
động thương mại hóa sản phẩm KH&CN từ 
cơ sở giáo dục đại học tới doanh nghiệp, 
cũng như thúc đẩy sự ra đời của các công ty 
khởi nguồn spin-off. Ngay sau khi đạo luật 
này được thông qua, MEXT và METI đã 
cấp phép hoạt động cho 41 TLO. Các TLO 
này có thể kết nối với một hoặc một vài 
trường đại học hay tổ chức nghiên cứu; có 
thể không nằm trong cơ cấu của một trường 
đại học (song đa phần đều được sáng lập 
bởi một khoa trong trường đại học). Các 
TLO có thể hoạt động dưới dạng công ty cổ 
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc các 
quỹ. Luật TLO quy định ba mô hình TLO ở 
Nhật gồm mô hình Nội bộ, mô hình Bên 
ngoài và Độc quyền, mô hình Bên ngoài và 
phi Độc quyền. Theo mô hình Nội bộ, Văn 
phòng Quản lý Sở hữu Trí tuệ và TLO cùng 
được đặt trong trường đại học (thường thấy 
ở các trường đại học tư nhân hoặc các 
trường đại học công lập đã thành lập TLO 
trước đó). Văn phòng Quản lý Sở hữu Trí 
tuệ có chức năng công bố các phát minh, 
sáng chế, quản lý quyền sở hữu trí tuệ đối 
với các sản phẩm nghiên cứu hợp đồng, và 
quá trình xin cấp bằng sáng chế). Còn TLO 
lại có nhiệm vụ đưa các phát minh, sáng 
chế ứng dụng vào thực tiễn như tìm kiếm 
đối tác mua các sáng chế này cũng như hỗ 
trợ việc thành lập các công ty spin-off trong 
trường đại học; Mô hình Bên ngoài và Độc 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
28 
quyền: chủ yếu xuất hiện ở các trường đại 
học công. TLO nằm ngoài cơ cấu của 
trường đại học và có chức năng thương mại 
hóa các phát minh của trường đại học. Theo 
mô hình Bên ngoài và phi Độc quyền, một 
trường đại học hợp tác hoặc liên kết với 
nhiều hơn hai TLO tùy theo chính sách và 
đặc thù của từng trường. 
Ba là Luật Đại học Quốc gia (2004). 
Luật này trao cho các trường đại học tính tự 
chủ, nghĩa là trường đại học có quyền sở 
hữu tất cả các phát minh, sáng chế mà các 
giáo sư thuộc những cơ sở này nghiên cứu, 
chế tạo ra. Nếu như trước năm 2004, quyền 
SHTT đối với phát minh, công trình nghiên 
cứu của các giáo sư thuộc về các cá nhân - 
những người sáng chế, thì sau khi Luật này 
được thông qua, quyền SHTT đối với các 
phát minh sẽ là tài sản của trường đại học. 
Chính vì thế, Đạo luật này đã thúc đẩy các 
trường đại học chủ động hơn trong việc 
thương mại hóa kết quả nghiên cứu để thu 
lợi nhuận cũng như đóng góp cho tiến trình 
đổi mới sáng tạo của quốc gia. Trước đó, 
với mục tiêu tăng cường quản lý và sử dụng 
các sản phẩm trí tuệ một cách hệ thống và 
có tầm chiến lược, năm 2003, MEXT còn 
hỗ trợ các trường đại học quốc gia và cả các 
cơ sở giáo dục đại học nguồn lực để thành 
lập các Trung tâm Sở hữu Trí tuệ. 
Về phía các trường đại học, sau khi Luật 
TLO được thông qua, quy định về quản lý 
quyền SHTT của các trường đại học của 
Nhật Bản đã được điều chỉnh. Đa phần các 
trường đều thực thi một chính sách SHTT 
chung đối với kết quả nghiên cứu là không 
bảo hộ mà nhanh chóng tiến hành chuyển 
giao các sản phẩm KH&CN để mang lại lợi 
ích cho xã hội. Đến năm 2008, 58% các 
trường đại học của Nhật Bản (92% các 
trường đại học công lập) đã thông qua 
chính sách SHTT [4, pp.97-121]. Đồng 
thời, doanh thu từ việc bán hoặc chuyển 
giao kết quả nghiên cứu sẽ được phân chia 
cho cả người phát minh (giáo sư, sinh viên), 
các phòng thí nghiệm/khoa liên quan và 
trường đại học, sau khi trừ đi chi phí phát 
sinh từ hoạt động marketing, phí đăng ký 
bản quyền... Theo đó, tiền bản quyền đối 
với các sản phẩm KH&CN của trường đại 
học sẽ được phân bổ cho các nhà phát minh 
(các nhà khoa học, các giáo sư), khoa mà các 
giáo sư trực thuộc và các trường đại học với 
tỷ lệ tương ứng là 40%, 30% và 30% [4, 
pp.97-121]. 
5. Kết luận 
Việc thiết lập một hệ thống chính sách thúc 
đẩy liên kết U-I đã hợp thức hóa mối quan 
hệ giữa các doanh nghiệp với các nhà nghiên 
cứu. Thay vì những hoạt động liên kết phi 
chính thức trước đây có thể dẫn tới việc các 
nhà nghiên cứu/trường đại học bị thiệt thòi 
(doanh nghiệp sở hữu kết quả nghiên cứu, 
nhà khoa học chỉ nhận được một khoản tiền 
hỗ trợ/bồi thường, trường đại học không có 
quyền sở hữu và không thu được lợi nhuận 
từ kết quả nghiên cứu), thì nay, với sự giúp 
sức của các TLO, kết quả nghiên cứu/công 
nghệ mới vẫn được chuyển giao cho doanh 
nghiệp, nhưng cả doanh nghiệp và nhà 
trường đều là đồng sở hữu và có doanh thu 
từ kết quả nghiên cứu. Bên cạnh đó, số 
lượng các dự án nghiên cứu hợp tác và tài 
trợ giữa các trường đại học với các doanh 
nghiệp cũng như ngân sách đầu tư và doanh 
thu từ những dự án này không ngừng tăng 
lên. Nếu như năm 1983, chỉ có khoảng 56 dự 
án hợp tác nghiên cứu, thì năm 2004, số dự 
án đã tăng lên hơn 9.000 và năm 2014 là gần 
18.000. Tương tự, số lượng bằng phát minh 
sáng chế được trao cho các trường đại học 
cũng tăng nhanh kể từ khi Luật Đại học 
Lê Thị Ái Lâm, Nguyễn Hồng Nga 
29 
Quốc gia (2004) được thông qua, từ 183 
bằng phát minh năm 2003 lên 1.103 bằng 
phát minh năm 2005 và 9.856 bằng phát 
minh năm 2013. 
Tuy nhiên, hoạt động thương mại hóa sản 
phẩm KH&CN ở Nhật cũng bộc lộ những 
khiếm khuyết. Thứ nhất, TLO của các 
trường đại học ở Nhật Bản không thể tự duy 
trì hoạt động mà phải phụ thuộc nhiều vào 
các khoản tài trợ của nhà nước, bởi chi phí 
đăng ký sở hữu trí tuệ cho các phát minh 
sáng chế quá đắt đỏ, thậm chí còn cao hơn 
cả doanh thu từ việc chuyển giao các sản 
phẩm công nghệ. Thứ hai, các chính sách 
quy định về SHTT của các trường đại học 
quá chặt chẽ làm giảm động lực thương mại 
hóa sản phẩm nghiên cứu từ các trường đại 
học và khối doanh nghiệp. Doanh nghiệp có 
xu hướng không muốn tham gia vào những 
hình thức hợp tác chính thức, mà muốn 
thông qua các liên kết phi chính thức, tự thỏa 
thuận và đàm phán với các giáo sư [10]. 
Chú thích 
2
 Công ty spin-off là một dạng công ty khởi nghiệp 
do trường đại học thành lập, nhằm thương mại hóa 
công nghệ thông qua sản xuất trực tiếp hoặc tiếp tục 
phát triển công nghệ để chuyển giao cho các doanh 
nghiệp sản xuất lớn hơn. Các công ty spin-off độc 
lập với tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học phát 
minh ra công nghệ, đồng thời nắm quyền sở hữu 
cùng với trường đại học. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Cục Thông tin KH&CN quốc gia (2018), 
Thương mại hóa nghiên cứu công: Các xu 
hướng và chiến lược mới, Hà Nội. 
[2] Aren, Ibata Kathryn (2011), Policy and 
Practice in Japan’s New Business Incubation 
Revolution: a Typology of Incubation 
Management and Emerging Hybrid Model, 
Stanford University Business School, Stanford 
Project on Japanese Entrepreneurship (STAJE) 
Working Paper November 2011. 
[3] Escoffier, Luca (2015), Japan’s Technology 
Transfer System: Challenges and 
Opportunities for European SMEs, EU-Japan 
Centre for Industrial Cooperation Report. 
[4] Kagamo, Shigeo (2015), “Innovation and 
University Entrepreneurship: Challenges 
Facing Japan Today”, Oum, S. P. 
Intarakumnerd, G. Abonyi and S. Kagami 
(eds.), Innovation, Technology Transfers, 
Finance, and Internationalization of SMEs’ 
Trade and Investment, ERIA Research Project 
Report FY2013, No.14. Jakarta: ERIA. 
[5] Kawasaki, Kazumasa (2016), “Analysis and 
Practice Applications of University-Industry 
Research Collaborations”, Advances in 
Economics and Business Vol. 4 (10). 
[6] Kazuyuki, Motohashi and Muramatsu Shingo 
(2011), Examining the University Industry 
Collaboration Policy in Japan: Patent Analysis, 
RIETI Discussion Paper Series 11-E-008. 
[7] Martin, Alexander (2015), “Japan’s Top 
University Embraces Silicon Valley Spirit”, 
The Wall Street Journal, 27 April 2015. 
[8] Nikkei (2014), “Japan's public universities to 
double as venture capitalists”, Nikkei Asian 
Review, 1 July 2014. 
[9] Takahashi, M., and Carraz, R. (2009), Academic 
patenting in Japan: Illustration from a leading 
Japanese university, Working Paper of BETA, 
Available on-line at:  
org/paper/ulpsbbeta/2009-07.html (Retrieved on 6 
February 2017). 
[10] Tantiyaswasdikul, Kallaya (2013), “Technology 
Transfer for Commercialization in Japanese 
University: A Review of the Literature”, Japanese 
Studies Journal, Vol. 31, No.1. 
[11] World Intellectual Property Organization 
(2007), Technology Transfer, Intellectual 
Property and Effective University-Industry 
Partnerships: The Experience of China, India, 
Japan, Philippines, the Republic of Korea, 
Singapore and Thailand. Available online at: 
erty/928/wipo_pub_928.pdf (Retrieved on 4 
February 2017). 

File đính kèm:

  • pdfthuong_mai_hoa_san_pham_khoa_hoc_va_cong_nghe_cua_cac_truong.pdf