Thuốc giãn phế quản trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và dự phòng đợt cấp
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu về tử vong bệnh tật trên thế giới, và gánh nặng về kinh tế, xã hội. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay BPTNMT là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 về tử vong bật tật, chỉ sau bệnh mạch vành và tai biến mạch máu não (1,2) .
Mặc dù là bệnh không thể chữa khỏi hẳn được, nhưng có thể thể phòng, điều trị làm chậm được sự tiến triển của bệnh, giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm tần suất các đợt cấp. Trong đó, giảm tần suất đợt cấp, cải thiện chất lượng cuộc sống là mục tiêu chính của các biện pháp điều trị hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Thuốc giãn phế quản trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và dự phòng đợt cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuốc giãn phế quản trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và dự phòng đợt cấp
Hướng dẫn tHực HànH 56 Hô hấp số 16/2018 Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu về tử vong bệnh tật trên thế giới, và gánh nặng về kinh tế, xã hội. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay BPTNMT là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 về tử vong bật tật, chỉ sau bệnh mạch vành và tai biến mạch máu não (1,2) . Mặc dù là bệnh không thể chữa khỏi hẳn được, nhưng có thể thể phòng, điều trị làm chậm được sự tiến triển của bệnh, giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm tần suất các đợt cấp. Trong đó, giảm tần suất đợt cấp, cải thiện chất lượng cuộc sống là mục tiêu chính của các biện pháp điều trị hiện nay (1) . Điều trị BPTNMT cần được phối hợp nhiều thành phần với nhau, bao gồm: cai thuốc lá, điều trị thuốc, tham gia chương trình phục hồi chức năng, tiêm phòng cúm, phế cầu. Đồng thời một số phương pháp điều trị mới đang được nghiên cứu áp dụng như đặt van điều trị giảm thể tích phổi, phẫu thuật cắt bỏ bóng khí hoặc phẫu thuật giảm thể tích phổi, điều trị tế bào gốc (1). Điều trị thuốc phù hợp giúp bệnh nhân giảm bớt triệu chứng, giảm tần suất và độ nặng của đợt cấp, cải thiện tình trạng sức khỏe và khả năng gắng sức. Lựa chọn thuốc điều trị loại nào dựa trên từng bệnh nhân cụ thể, đáp ứng của bệnh nhân, đồng thời cũng phải cân nhắc đến chi phí- hiệu quả. Các thuốc sử dụng điều trị BPTNMT gồm thuốc giãn phế quản (cường beta2-adrenergic, kháng cholinergic và nhóm methylxanthine); thuốc chống viêm (corticoid dạng hít-ICS, ức chế phosphodiesterase-4, nhóm kháng sinh macrolid). Trong đó, thuốc giãn phế quản là nền tảng trong kiểm soát triệu chứng, và cũng làm giảm tần suất đợt cấp khi dùng đơn độc hoặc kết hợp. Các thuốc giãn phế quản làm cải thiện luồng khí thở do sự mở rộng đường dẫn khí, giảm căng phồng phổi kể cả khi nghỉ ngơi hay vận động, hiệu quả làm tăng FEV, hoặc làm thay đổi các giá trị chức năng hô hấp, cải thiện khả năng gắng sức (1,3). THUỐC CƯỜNG BETA 2 -ADRENERGIC Các thụ thể beta 2 -adrenergic có ở tế bào cơ trơn, tế bào biểu mô phế quản. Tác dụng chủ yếu của nhóm thuốc này là làm giãn cơ trơn phế quản thông qua kích thích thụ thể beta 2 -adrenergic, tăng AMP vòng trong tế bào và sản suất các chất có khả năng kháng lại sự co thắt phế quản, và protein kinase A, ngoài vai trò kiểm soát chương lực cơ trơn đường thở, còn có còn có tác dụng chống viêm do các thụ cảm thể trên các tế bào viêm khác nhau (4). Thuốc cường beta2-adrenergic được chia ra hai loại là tác dụng ngắn (Short Acting Beta 2 - Agonist/SABA) và loại tác dụng kéo dài (Long Acting Beta 2 -Agonist/LABA). Cường beta 2 -adrenergic tác dụng ngắn: Các SABA (như salbutamol, terbutaline, fenoterol) dùng đường tại chỗ (xịt, hít hoặc khí dung) khởi phát tác dụng nhanh sau vài phút và kéo dài 4-6 giờ, được sử dụng khi cần giúp giảm nhanh triệu chứng khó thở của bệnh nhân ở các giai đoạn khác nhau của bệnh. Đối với bệnh nhân BPTNMT nhóm A, sử dụng SABA thường xuyên và khi cần, có tác dụng cải thiện FEV 1 và triệu chứng (1,5). Sử dụng liều cao SABA khi cần ở bệnh nhân đang được điều trị với thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài có thể làm tăng tác dụng phụ của thuốc, do đó không được khuyến cáo (1). THUỐC GIÃN PHẾ QUẢN TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH VÀ DỰ PHÒNG ĐỢT CẤP ThS.BS. VŨ VĂN THÀNH Khoa Bệnh phổi mạn tính, Bệnh viện Phổi Trung ương Hướng dẫn tHực HànH 57 Hô hấp số 16/2018 Cường beta 2 -adrenergic tác dụng kéo dài: Thuốc LABA dạng hít có thời gian tác dụng 12 giờ hoặc hơn, được dùng đơn độc hoặc kết hợp với nhóm kháng cholinergic để điều trị duy trì bệnh nhân BPTNMT nhóm B, C, D. Formoterol và salmeterol là hai thuốc được áp dụng điều trị phổ biến và đã được chứng minh cải thiện đáng kể FEV 1 , triệu chứng khó thở, và tình trạng sức khỏe, giảm tần suất đợt cấp, nhưng không giảm tỷ lệ tử vong và suy giảm chức năng phổi theo thời gian (6). Indacaterol là thuốc có thời gian tác dụng 24 giờ được dùng 1 lần (150 mcg hoặc 300 mcg/ngày), hiệu quả tốt hơn so với salmeterol, formoterol về giảm triệu chứng khó thở, cải thiện tình trạng sức khỏe, giảm tần suất đợt cấp, và an toàn như với giả dược, mặc dù một số bệnh nhân có triệu chứng ho (7,8). Tổng hợp từ 13 nghiên cứu gồm 9.961 bệnh nhân BPTNMT có FEV 1 từ 30%-80% giá trị dự đoán, thời gian nghiên cứu từ 12 đến 52 tuần, trong đó có 5 nghiên cứu so sánh indacaterol với 2 LABA (salmeterol hoặc formoterol), kết quả cho thấy indecaterol cải thiện FEV 1 hơn (61,7 ml, 95%CI 41,2-82,2); cải thiện tình trạng sức khỏe (SGRQ giảm -0,81; 95% CI -2,28 - 0,66); không có sự khác biệt về nguy cơ có từ 01 đợt cấp với indacaterol liều 150 mcg/ngày (OR 1,21, 95% CI 0,8-1,82) và liều 300 mcg/ngày (OR 0,9; 95% CI 0,74-1,53) (9). Hai thử nghiên cứu chính chứng minh hiệu quả indacaterol so với tiotropium (là thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài kháng cholinergic đã được chứng minh có hiệu quả và khuyến cáo trong điều trị duy trì BPTNMT). Nghiên cứu INHANCE quan sát trên 1.665 bệnh nhân, điều trị hít indacaterol liều 150 mcg và 300 mcg 01 lần/ngày, kết quả không thấy khác biệt so với tiotrpium về cải thiện FEV 1 , triệu chứng khó thở và tình trạng sức khỏe tại tuần 26 (7). Nghiên cứu INTENSITY trên 1.598 bệnh nhân, điều trị hít indacaterol 150 mg/ngày, kết quả cũng không thấy khác biệt về cải thiện FEV 1 , triệu chứng khó thở so với tiotropium (10). Cả hai nghiên cứu đều cho thấy indacaterol giảm tần suất đợt cấp như với tiotropium. Tác dụng phụ: Có thể gây nhịp nhanh xoang khi nghỉ ngơi và có thể suất hiện sớm ở những bệnh nhân nhậy cảm. Run tay là một triệu chứng có thể gặp phải ở một số bệnh nhân lớn tuổi khi dùng liều cao, do vậy tác dụng phụ này có thể hạn chế liều dung nạp. Giảm kali máu có thể gặp, nhưng ít đối đường tại chỗ, dễ xuất hiện hơn khi dùng kèm thuốc lợi tiểu thiazid (1,4). THUỐC KHÁNG CHOLINERGIC Hệ thần kinh phó giao cảm đóng vai trò chủ yếu trong điều hòa trương lực đường thở, chi phối đường thở là các nhánh suất phất từ các sợi trước hạch phó giao cảm đi đến rốn phổi, dọc theo các phế quản đi vào trong phổi. Các kích thích khác có thể gây phản xạ ngược lại thần kinh phó giao cảm, làm co thắt phế quản. Acetylcholine (Ach) là chất dẫn truyền thần kinh nội tiết tại tận cùng thần kinh, hoạt động thông qua trung gian thụ thể nicotinic và muscarinic (11). Thụ thể nicotinic gắn trên các hạch thần kinh và được hoạt hóa bở Ach, giải phóng từ các sợi thần kinh trước hạch phó giao cảm. Các thụ thể này được kích hoạt bởi các chất chủ vận nicotinic và ức chế bởi các chất ức chế nicotinic, nhưng không bị tác động từ các thuốc kháng cholinergic (12). Thụ thể muscarinic được tìm thấy đầu tiên trên các tế bào thần kinh tự động và phân bố ở các sợi thần kinh hậu hạch phó giao cảm. Có ít nhất 5 thụ thể muscarinic (M1 đến M5), và 3 trong số đó hiện diện chủ yếu tại phổi. Thụ thể M1 có ở các tế bào hạch quanh phế quản, nơi thần kinh trước hạch truyền tín hiệu đến các sợi thần kinh sau hạch. Thụ thể M2 có ở các sợi thần kinh sau hạch. Thụ thể M3 có chủ yếu ở cơ trơn, ngoài ra còn thấy ở tuyến dưới niêm mạc phế quản. Thụ thể M1, M3 là trung gian dẫn truyền thần kinh phó giao cảm, gây co thắt phế quản, và ức chế thụ thể này sẽ chống lại tình trạng trên. Thụ thể M2 Hướng dẫn tHực HànH 58 Hô hấp số 16/2018 khi được hoạt hóa sẽ ức chế giải phòng Ach và ức chế co thắt phế quản qua trung gian phó giao cảm (13). Các thuốc kháng cholinergic dựa trên thời gian tác dụng cũng được chia làm hai loại, loại tác dụng ngắn (Short Acting Muscarinic Antagonist- SAMA) và loại tác dụng kéo dài (Long Acting Muscarinic Antagonist-LAMA). Thuốc kháng cholinergic tác dụng ngắn: Ipratropium bromide là kháng cholinergic tác dụng ngắn được sử dụng đầu tiên tại Mỹ từ năm 1987 và được sử dụng điều trị rộng rãi trong BPTNMT đến nay. Thuốc có hiệu quả lâm sàng làm giảm triệu chứng khó thở ở bệnh nhân BPTNMT. Thuốc có tác dụng giãn phế quản, tăng nhịp tim, khô miệng do giảm bài tiết nước bọt. Thuốc hấp thu kém qua phổi và dạ dày ruột, không làm ức chế chức năng thanh lọc của thảm nhầy phế quản, do đó không gây ứ đọng dịch tiết phế quản. Thuốc Ipratropium bromide ở dạng bình xịt định liều pMDI (lọ 200 liều, 20 mcg/liều) hoặc dạng dung dịch phun khí dung 0,02%. Liều dùng với dạng pMDI 2 nhát xịt/lần và 4 lần/ngày có thể đến 8 lần/ngày nếu dung nạp tốt, dạng khí dung 100-200 mcg (0,5-1 ml dung dịch 0,02%)/lần có thể tăng lên 500 mcg (2,5 ml)/lần trong trường hợp cấp cứu mỗi 6 giờ/lần. Sử dụng đều đặn Ipratropium bromide làm giảm khó thở, tăng khả năng gắng sức, và cải thiện oxy máu ở bệnh nhân BPTNMT (14). So sánh với SABA ipratropium cho thấy cho kết quả tốt hơn qua một số nghiên cứu, đồng thời giảm được tác dụng phụ của cường beta 2 - adrenergic, mặc dù ít gặp với đường tại chỗ. Trong thực hành, SAMA được khuyến cáo sử dụng phối hợp với SABA. Kết hợp với nhau làm tăng hiệu quả giãn phế quản hơn dùng đơn độc, dựa trên cơ chế tác dụng khác nhau của hai nhóm này. Một nghiên cứu trên 863 bệnh nhân BPTNMT, kết quả cho thấy điều trị phối hợp albuterol và ipratropium bromid cải thiện FEV 1 hơn 24% so với albuterol và 37% so với ipratropium bromide (p < 0,001) (15). Thuốc kháng cholinergic tác dụng kéo dài: LAMA là thuốc chủ yếu được khuyến cáo điều trị duy trì bệnh nhân BPTNMT, có tác dụng chọn lọc trên thụ thể M 1 , M 3 . Thực chất, nhóm này gắn với cả 3 thụ thể M1, M 2 , M 3 , nhưng việc gắn với M 2 xảy ra thoáng qua rất nhanh nên không ảnh hưởng đến ức chế thụ thể M 1 , M 3 . - Tiotropium là thuốc được sử dụng điều trị từ nhiều năm nay, dung nạp tốt, giảm tần suất đợt cấp, giảm triệu chứng, cải thiện tình trạng sức khỏe, giảm căng phồng phổi, cải thiện tình trạng oxy máu(16). Kết quả từ một phân tích gộp gồm 22 nghiên cứu, với 23.309 bệnh nhân cho thấy tiotropium cải thiện chất lượng cuộc sống (SGRQ giảm -2,89; 95% CI 0,7-0,87), giảm tần suất đợt cấp với số cần điều trị (NNT-Number Need to Treat) là 16 cho dự phòng một đợt cấp, nhưng không giảm tỷ lệ tử vong (17). Một phân tích gộp hai nghiên cứu, so sánh tiotropium với ipratropium bromide trên 1.073 bệnh nhân BPTNMT có FEV 1 trung bình 40% giá trị ước đoán (một nghiên cứu dùng tiotropium handihaler 18 mcg/ngày trong 12 tháng; một nghiên cứu dùng tiotropium respimat 5 mcg/ngày trong 12 tuần). Kết quả cho thấy, tiotropium cải thiện chức năng phổi, giảm tần suất nhập viện vì đợt cấp (OR 0,34; 95% CI 0.15- 0.70), cải thiện chất lượng cuộc sống (SGRQ giảm -3.30; 95% CI -5.63 to -0.97), và không làm tăng biến cố tim mạch. Nghiên cứu này ủng hộ cho hướng dẫn sử dụng LAMA trong điều trị duy trì (18). - Glycopyrronium bromide: Là thuốc LAMA có thời gian tác dụng 24 giờ, dùng một lần/ngày. Nghiên cứu GLOW1 nhằm đánh giá hiệu quả, an toàn và dung nạp của NVA237 ở 822 những bệnh nhân COPD trung bình-nặng, có tiền sử hút thuốc ≥ năm 10 bao-năm. Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để điều trị mù đôi với NVA237 50 mg/lần/ ngày hoặc giả dược trong 26 tuần. Kết quả FEV 1 được cải thiện đáng kể trong nhóm NVA237 so với giả dược trong suốt khoảng thời gian 24 giờ vào ngày 1 và tuần 12 và 26, và ở tất cả các lần Hướng dẫn tHực HànH 59 Hô hấp số 16/2018 khác và thời điểm. NVA237 làm giảm đáng kể nguy cơ đợt cấp đầu tiên COPD vừa / nặng 31% (P = 0,023) (19). - Aclidinium: Thuốc có thời gian tác dụng 12 giờ, ngắn hơn tiotropium và các LAMA khác, dùng dạng bột khô 400 mcg x 2 lần/ngày. Thuốc được chứng minh cải thiện FEV 1 (128 ml; p<0,001), và tình trạng sức khỏe (SGRQ giảm – 4,6; p<0,001) so với giả dược (20). Tác dụng phụ: Thuốc kháng cholinergic hấp thu kém qua đường tiêu hóa, như vậy dùng thuốc sẽ hạn chế các tác dụng phụ toàn thân. Chỉ định rộng rãi nhóm thuốc này dạng hít với khoảng liều rộng trên lâm sàng đã được chứng minh thuốc rất an toàn. Các tác dụng phụ thường gặp là khô miệng. Mặc dù, những triệu chứng về bệnh lý tuyến tiền liệt đã được báo cáo, không có dữ liệu để chứng minh liên quan trực tiếp tới dùng kháng cholinergic. Một số bệnh nhân sử dụng ipratropium có cảm giác đắng miệng và có vị kim loại. Có sự gia tăng nhẹ các biến cố tim mạch không mong muốn ở bệnh nhân BPTNMT khi điều trị dài ngày với ipratropium bromide đã được báo cáo và cần thêm các kết quả nghiên cứu (21). Sử dụng kháng cholinergic dạng khí dung qua mặt nạ đã ghi nhận có trường hợp tăng nhãn áp cấp, có thể do tác dụng trực tiếp của dịch vào mắt (1). KẾT HỢP THUỐC KHÁNG CHOLINERGIC VỚI CƯỜNG BETA 2 TÁC DỤNG KÉO DÀI Bệnh nhân BPTNMT nhóm B, C không cải thiện với một thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài, bệnh nhân nhóm D cần phối hợp hai loại thuốc giãn phế quản, giúp tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ (22). - Indacaterol + glycopyrronium bromide: Nghiên cứu SPARK mù đôi, đa trung tâm, song song, mở trên 2.224 bệnh nhân BPTNMT từ nặng đến rất nặng, có từ 1 đợt cấp/năm, được điều trị QVA149 (indecaterol+glycopyrronium) trên 579 bệnh nhân; Glycopyrronium trên 584 bệnh nhân; Tiotropium trên 581 bệnh nhân. Kết quả cho thấy QVA149 giảm đợt cấp trung bình-nặng so với glycopyrronium là 11% (RR 0.89; 95% CI 0,77- 1,04) và so với tiotropium là 15% (RR 0.85; 95% CI 0,73-0,98) (23). Một số nghiên cứu khác điều trị kết hợp hai thuốc trên cho kết quả cải thiện FEV 1 và tình trạng sức khỏe so với điều trị một thành phần (23). - Tiotropium + olodaterol: Dùng phối hợp tiotropium + olodaterol (5 mcg/5 mcg) dạng hít hạt mịn 1 lần/ngày trong thời gian 52 tuần, được chứng minh cải thiện FEV 1 so với điều trị đơn thành phần trong một nghiên cứu trên 5.162 bệnh nhân BPTNMT (24). Trong một nghiên cứu khác trên 1.621 bệnh nhân BPTNMT trong thời gian 12 tuần, Tiotropium + olodaterol (5 mcg/5 mcg) cải thiện tình trạng sức khỏe (SGRQ: -4,56; 95% CI -6.50-2.63) so với giả dược (25). - Tiotropium + LABA (salmeterol, formoterol, hoặc indacaterol): Phân tích gộp 10 nghiên cứu, gồm 10.894 bệnh nhân BPTNMT mức độ trung bình đến nặng, mục tiêu tất cả các nghiên cứu là so sánh hiệu quả khi dùng tiotropium + LABA so với dùng tiotropium đơn thuần. Kết quả cho thấy, tiotropium + LABA cải thiện nhẹ tình trạng sức khỏe (giảm SGRQ -1,34; 95% CI -1,87 đến -0,8) và tăng nhẹ FEV 1 sau thuốc giãn phế quản so với tiotropium đơn thuần, một kết quả quan trọng là tiotropium + LABA giảm được đợt cấp tốt hơn so với tiotropium đơn thuần (OR 0,8; 95% CI 0,69- 0,93), không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong và các biến cố bất lợi (26). THUỐC METHYLXANTHIN Hiệu quả điều trị: Hiệu quả thực sự của nhóm xanthine vẫn còn gây tranh cãi. Thuốc có thể tác dụng như chất ức chế phosphodiesterase không chọn lọc nhưng cũng được báo cáo có một loạt các tác động không gây giãn phế quản (4). Theophylline là thuốc được sử dụng phổi biến nhất của methylxanthine được chuyển hóa qua cytocrome P450 dưới sự xúc tác của các chất oxy hóa. Độ thanh thải của thuốc giảm theo tuổi. Hướng dẫn tHực HànH 60 Hô hấp số 16/2018 Nhiều biến đổi sinh lý và một số thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa theophylline. Thay đổi chức năng của cơ hô hấp được ghi nhận ở bệnh nhân được điều trị với theophylline, dẫn đến những thay đổi về chức năng hô hấp. Theophylline kém hiệu quả và dung nạp kém hơn các thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài khác và không được chỉ định nếu các loại thuốc kia có sẵn và giá cả hợp lý. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy theophylline có hiệu quả giãn phế quản tốt hơn so với giả dược trong điều trị BPTNMT giai đoạn ổn định. Dùng phối hợp theophylline với salmeterol giúp cải thiện FEV 1 , giảm triệu chứng khó thở tốt hơn so với sử dụng salmeterol đơn thuần, theophylline liều thấp giúp giảm đợt cấp nhưng không cải thiện chức năng phổi (27,28). Tác dụng phụ: Ngộ độc thuốc là vấn đề cần quan tâm khi điều trị với nhóm xanthine vì khoảng cách giữa liều điều trị và liều độc là rất nhỏ và phần lớn hiệu quả của thuốc chỉ suất hiện ở liều gần liều độc. Các tác dụng phụ bao gồm rối loạn nhịp thất và trên thất, nếu nặng có thể tử vong, động kinh cơn lớn (có thể suất hiện ở người có tiền sử động kinh từ trước hoặc không. Các tác dụng phụ khác như đau đầu, mất ngủ, nôn, ợ nóng có thể suất hiện với liều điều trị. Theophylline có thể tương tác khi sử dụng đồng thời với một số thuốc như digitalis, coumadin KẾT LUẬN Thuốc giãn phế quản là thành phần cơ bản, được chỉ định sử dụng thường xuyên trong điều trị BPTNMT giúp kiểm soát triệu chứng, cải thiện tình trạng sức khỏe, cải thiện chức năng phổi, và giảm tần suất đợt cấp. Dạng dùng tại chỗ (xịt, hít, phun khí dung) được ưa chuộng sử dụng, dung nạp tốt và hạn chế tác dụng phụ toàn thân. Lựa chọn thuốc tùy thuộc vào sự sẵn có, đáp ứng của mỗi bệnh nhân, và các tác dụng phụ. Kết hợp các nhóm thuốc giãn phế quản khác nhau làm tăng hiệu quả điều trị, giảm nguy cơ xảy ra tác dụng phụ so với việc tăng liều một thuốc. Tài liệu tham khảo 1. Global strategy for diagnosis, management and prevention of chronic obstructive pulmonary disease. Update 2018. Goldcopd.org. 2. Burden of COPD. WHO report 2018. s.l. : http:// www.who.int/respiratory/copd/burden. 3. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Quyết định số 2866/QĐ- BYT ngày 08 tháng 7 năm 2015. 4. Cazzola M et al. Pharmacology and Therapeutics of Bronchodilators. s.l. : Pharmacol Rev (2012). 64:450–504. 5. Sestini P et al. Prescription bias and factors associated with improper use of inhalers. s.l. : J Aerosol Med (2006); 19: 127-36. 6. Calverley PM et al. Salmeterol and fluticasone propionate and survival in chronic obstructive pulmonary disease. s.l. : N Engl J Med (2007); 356: 775–789. 7. Donohue JF et al. Once-daily bronchodilators for chonic ostructive pulmonary disease: indecaterol versus tiotropium. s.l. : Am J Respir Crit Care Med (2010); 182: 155-62. 8. Kornmann O et al. Once-daily indecaterol versus twice-daily salmeterol for COPD: a placebo- controlled comparison. s.l. : Eur Respir J (2011): 37: 273-9. 9. Geake JB et al. Indacaterol, a once-daily beta2- agonist, versus twice-daily beta2-agonists or placebo for chronic obstructive pulmonary. s.l. : Cochrane Database of Systematic Reviews (2015), Issue 1. Art. No.: CD010139. 10. Buhl R, Dunn LJ, Disdier C, et al. Blinded 12- week comparison of once-daily indacaterol and tiotropium in COPD. s.l. : Eur Respir J (2011); 38: 797–803. 11. Richardson JB. Nerve supply to the lungs. s.l. : Am Rev Respir Dis (1979); 119:785. 12. PJ, Barnes. Cholinergic control of airway smooth muscle. s.l. : Am Rev Respir Dis (1987); 136:S42. 13. Barnes PJ. Muscarinic receptor subtypes in airways. s.l. : Life Sci (199#); 52:521. 14. Sin DD, Tu JV. Lack of association between ipratropium bromide and mortality in elderly patients with chronic obstructive airway disease. s.l. : Thorax (2000); 55:194. 15. Gross N, Tashkin D, Miller R, et al. Inhalation by Hướng dẫn tHực HànH 61 Hô hấp số 16/2018 nebulization of albuterol-ipratropium combination (Dey combination) is superior to either agent alone in the treatment of chronic obstructive pulmonary disease. Dey Combination Solution Study Group. s.l. : Respiration (1998); 65:354., 1998. 16. Tashkin DP, Celli B, Senn S, et al. A 4-year trial of tiotropium in chronic obstructive pulmonary disease. s.l. : N Engl J Med (2008); 359:1543. 17. Karner C, Chong J, Poole P. Tiotropium versus placebo for chronic obstructive pulmonary disease. s.l. : Cochrane Database Syst Rev (2014) :CD009285. 18. Cheyne L, Irvin-Sellers MJ, White J. Tiotropium versus ipratropium bromide for chronic obstructive pulmonary disease. s.l. : Cochrane Database Syst Rev (2015); CD009552. 19. D’Urzo A, Ferguson GT, van Noord JA, et al. Efficacy and safety of once-daily NVA237 in patients with moderate-to-severe COPD: the GLOW1 trial. s.l. : Respir Res (2011);12:156. 20. Jones PW, Singh D, Bateman ED, et al. Efficacy and safety of twice-daily aclidinium bromide in COPD patients: the ATTAIN study. s.l. : Eur Respir J (2012); (40):830. 21. Tashkin DP et al. Long acting anticholinergic use in chronic osbtructive pulmonary dissease: effiacy and safety. s.l. : Current opinion in pulmonary medicine (2010); 16: 97-105. 22. Management of stable chronic obstructive pulmonary disease. Uptodate 2018. 23. Wedzicha J.A et al. Analysis of chronic obstructive pulmonary disease exacerbations with the dual bronchodilator QVA149 compared with glycopyrronium and tiotropium (SPARK): a randomised, double-blind, parallel-group study. s.l. : Lancet Respir Med (2013); (1): 199-209. 24. Buhl R, Maltais F, Abrahams R, et al. Tiotropium and olodaterol fixed-dose combination versus mono-components in COPD (GOLD 2-4). s.l. : Eur Respir J (2015); 45:969. 25. Singh D, Ferguson GT, Bolitschek J, et al. Tiotropium + olodaterol shows clinically meaningful improvements in quality of life. s.l. : Respir Med (2015); 109:1312. 26. Fame HA., Cates CJ. Long-acting beta2-agonist in addition to tiotropium versus either tiotropium or long-acting beta2-agonist alone for chronic obstructive pulmonary dissease. s.l. : Cochrane Database Syst Rev 2015. 27. Zhou Y et al. Positive benefit of theophylline in a ramdomized, double-blind, paralell group, placebo controlled study of low dose, slow release theophylline in treatment COPD for 1 year. s.l. : Respirology (2006); 11: 603-10. 28. Zuwallack et al. Salmeterol plus theophylline combination therapy in treatment of COPD. s.l. : Chest (2001); 119: 1661-70.
File đính kèm:
thuoc_gian_phe_quan_trong_dieu_tri_benh_phoi_tac_nghen_man_t.pdf

