Thuốc an thần liều cao ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân (BN) tâm thần phân liệt (TTPL) điều trị nội trú được kê đơn

thuốc an thần liều cao (ATLC) và mối liên quan giữa thuốc ATLC với một số đặc điểm của BN.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 196 bệnh án BN được chẩn đoán TTPL,

điều trị nội trú tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103, ra viện từ ngày 01/7/2019 - 31/12/2019.

Kết quả và kết luận: Tỷ lệ BN TTPL được kê đơn thuốc ATLC là 66,8%; trong đó 54,1% được

kê đơn liên tục và 12,7% được kê đơn khi cần thiết. Không thấy mối liên quan giữa kê đơn

thuốc ATLC với tuổi, giới, thời gian mang bệnh. BN được kê đơn thuốc ATLC có thời gian nằm

viện dài hơn BN được kê đơn thuốc an thần liều tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).="" bn="">

kê đơn nhiều thuốc an thần và đơn kết hợp Trihex có tỷ lệ thuốc ATLC cao hơn (p <>

pdf 4 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Thuốc an thần liều cao ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuốc an thần liều cao ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103

Thuốc an thần liều cao ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 37 
THUỐC AN THẦN LIỀU CAO Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN 
PHÂN LIỆT ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 
 Phạm Thị Thu1, Lê Văn Quang2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân (BN) tâm thần phân liệt (TTPL) điều trị nội trú được kê đơn 
thuốc an thần liều cao (ATLC) và mối liên quan giữa thuốc ATLC với một số đặc điểm của BN. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 196 bệnh án BN được chẩn đoán TTPL, 
điều trị nội trú tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103, ra viện từ ngày 01/7/2019 - 31/12/2019. 
Kết quả và kết luận: Tỷ lệ BN TTPL được kê đơn thuốc ATLC là 66,8%; trong đó 54,1% được 
kê đơn liên tục và 12,7% được kê đơn khi cần thiết. Không thấy mối liên quan giữa kê đơn 
thuốc ATLC với tuổi, giới, thời gian mang bệnh. BN được kê đơn thuốc ATLC có thời gian nằm 
viện dài hơn BN được kê đơn thuốc an thần liều tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). BN được 
kê đơn nhiều thuốc an thần và đơn kết hợp Trihex có tỷ lệ thuốc ATLC cao hơn (p < 0,01). 
* Từ khóa: Tâm thần phân liệt; Thuốc an thần liều cao. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kê đơn thuốc ATLC rất phổ biến. Ở Anh, 
1/3 BN TTPL điều trị nội trú được kê đơn 
thuốc ATLC. Mặc dù không có bằng 
chứng chắc chắn thuốc ATLC có hiệu quả 
hơn bất kỳ liều tiêu chuẩn nào đối với 
bệnh TTPL, kể cả điều trị giai đoạn cấp 
và phòng ngừa tái phát. Hơn nữa, phần 
lớn tác dụng phụ của thuốc an thần liên 
quan đến liều [2]. 
Thuốc ATLC là kết quả của việc kê 
đơn 1 thuốc an thần với liều cao hơn liều 
tối đa theo khuyến cáo hoặc kê đơn 2 
thuốc an thần trở lên mà tổng của liều 
hàng ngày trên liều tối đa khuyến cáo 
tương ứng của các thuốc tính theo phần 
trăm lớn hơn 100%. Thuốc ATLC có thể 
được kê đơn liên tục hoặc khi cần thiết 
(prn - as required) [2]. Tại Việt Nam, chưa 
có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
nhằm: Xác định tỷ lệ BN TTPL điều trị nội 
trú được kê đơn thuốc ATLC và mối liên 
quan giữa thuốc ATLC với một số đặc 
điểm của BN. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 196 bệnh án BN được chẩn đoán 
TTPL, điều trị nội trú tại Khoa Tâm thần, 
Bệnh viện Quân y 103, ra viện từ ngày 
01/7/2019 - 31/12/2019. Những BN điều 
trị nội trú nhiều lần trong khoảng thời gian 
nghiên cứu chỉ chọn bệnh án lần nằm viện 
đầu tiên. 
1Bộ môn-Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 
2Lữ Đoàn 126, Quân chủng Hải quân 
Người phản hồi: Phạm Thị Thu ([email protected]) 
 Ngày nhận bài: 15/6/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 23/7/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 38 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu dựa trên bệnh án 
từng trường hợp. Đánh giá thuốc ATLC 
dựa trên khuyến cáo theo BNF của 
Vương quốc Anh tháng 02/2019. 
Bảng 1: Liều tối đa theo BNF (100%). 
Thuốc 
Đường 
dùng 
Liều tối đa 
(100%) 
Chlopromazine Tiêm bắp 200 mg 
Chlopromazine Uống 1.000 mg 
Haloperidol Tiêm bắp 20 mg 
Haloperidol Uống 20 mg 
Levomepromazine Uống 1.000 mg 
Olanzapine Uống 20 mg 
Quetiapine Uống 750 mg 
Risperidone Uống 16 mg 
Sulpiride Uống 2.400 mg 
Thuốc ATLC được xác định khi [1]: 
- Kê đơn 1 thuốc an thần với liều cao 
hơn liều tối đa khuyến cáo, hoặc kê đơn 
nhiều hơn 1 thuốc an thần mà tổng của 
liều dùng hàng ngày trên liều tối đa 
khuyến cáo tương ứng của các thuốc tính 
theo phần trăm cao hơn 100%. 
- Xác định được kê đơn thuốc ATLC 
liên tục khi BN được kê đơn thuốc ATLC 
trong suốt quá trình nằm viện hoặc xác 
định được kê đơn thuốc ATLC khi cần 
thiết (prn - as required) khi BN được kê 
đơn thuốc ATLC thời gian ngắn trong quá 
trình nằm viện. 
* Xử lý số liệu: Bằng phần mềm SPSS 
20.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
BÀN LUẬN 
1. Tỷ lệ BN được kê đơn thuốc ATLC 
Thuốc ATLC liên tục: 106 BN (54,1%), 
thuốc ATLC khi cần thiết: 25 BN (12,7%), 
không thuốc ATLC: 65 BN (233,2%). 
Nghiên cứu của Carol Paton tại Anh cho 
thấy, việc kết hợp thuốc an thần và kê 
thêm thuốc an thần khi cần thiết (prn) là 
nguyên nhân chính dẫn đến kê đơn thuốc 
ATLC [4]. Mặc dù không có bằng chứng 
về việc sử dụng liều cao thuốc an thần có 
hiệu quả hơn liều tiêu chuẩn. Tuy nhiên, 
nhiều nghiên cứu cho thấy có tỷ lệ cao kê 
đơn thuốc ATLC. Ở Anh, khoảng 1/3 BN 
được kê đơn thuốc ATLC [2]. Nghiên cứu 
của Adesola AO và CS tại nước đang 
phát triển là Nigeria năm 2013, tỷ lệ BN 
được kê thuốc ATLC là 38% [5]. Nghiên 
cứu khác trên 2.399 BN TTPL điều trị nội 
trú ở 6 nước Đông Á cho thấy, 17,9% BN 
được kê đơn ATLC, phổ biến nhất là Nhật 
với 36,5%, Hàn Quốc với 20,4%, thấp 
nhất là Hồng Kông với chỉ 3,7%. Theo tác 
giả, sự khác nhau này là do sự khác nhau 
về hệ thống y tế và thói quen kê đơn [6]. 
Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN được 
kê đơn ATLC cao (66,9%), cho thấy việc 
kê đơn thuốc ATLC rất phổ biến tại 
Bệnh viện Quân y 103. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 39 
2. Mối liên quan giữa kê đơn an thần liều cao với một số đặc điểm của 
bệnh nhân 
Bảng 2: Mối liên quan giữa kê đơn ATLC với tuổi, giới. 
Đặc điểm ATLC (n, %) Không ATLC (n, %) p 
Nam (n = 132) 92 (69,7) 40 (30,3) Giới 
Nữ (n = 64) 39 (60,9) 25 (39,1) 
> 0,05 
≤ 20 (n = 38) 23 (60,5) 15 (39,5) 
21 - 39 (n = 112) 85 (75,9) 29 (24,1) 
Tuổi 
≥ 40 (n = 46) 23 (50,0) 23 (50,0) 
> 0,05 
Kết quả cho thấy, tỷ lệ BN được kê đơn ATLC không khác biệt giữa 2 giới và giữa 
các nhóm tuổi (p > 0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu tại Nigeria năm 2013 
khi không thấy có mối liên quan giữa ATLC với giới (p = 1,00) và tuổi (p = 0,913) [5]. 
Tuy nhiên, theo nghiên cứu ở 6 nước Đông Á, BN tuổi cao hơn có tỷ lệ sử dụng thuốc 
ATLC cao hơn (p = 0,001). Song điều này không đồng nhất ở cả 6 nước, ở Nhật, 
BN trẻ hơn và nam giới có tỷ lệ sử dụng thuốc ATLC cao hơn [6]. 
Bảng 3: Mối liên quan giữa ATLC với thời gian mang bệnh, thời gian nằm viện. 
Đặc điểm ATLC (n, %) Không ATLC (n, %) p 
≤ 1 năm (n = 49) 33 (67,3) 16 (32,7) 
> 1 - 5 năm (n = 78) 55 (70,5) 23 (29,5) 
Thời gian 
mang bệnh 
> 5 năm (n = 69) 43 (62,3) 26 (37,7) 
> 0,05 
24,86 ± 9,92 19,14 ± 9,31 
Thời gian nằm viện trung bình 
22,96 ± 10,07 
< 0,01 
Kết quả cho thấy, BN có thời gian mang bệnh khác nhau không khác biệt về tỷ lệ 
dùng thuốc ATLC (p > 0,05). Tuy nhiên, BN được kê đơn thuốc ATLC có thời gian nằm 
viện dài hơn BN được kê đơn liều tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Như vậy, 
thuốc ATLC không rút ngắn được thời gian nằm viện. Nghiên cứu của Sim K và CS 
(2004) cho thấy, BN có thời gian mang bệnh dài hơn và thời gian nằm viện lâu hơn có 
tỷ lệ sử dụng thuốc ATLC cao hơn (p < 0,001) [6]. 
Bảng 4: Mối liên quan giữa ATLC với số thuốc an thần, kết hợp thuốc Trihex. 
Đặc điểm ATLC (n, %) Không ATLC (n, %) p 
1 (n = 59) 3 (5,1) 56 (94,9) 
Số thuốc an thần 
> 1 (n = 137) 128 (93,4) 9 (6,6) 
< 0,01 
Có (n = 141) 120 (85,1) 21 (14,9) Trihex 
Không (n = 55) 11 (20,0) 44 (80,0) 
< 0,01 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 40 
Kết quả cho thấy, BN được sử dụng 
nhiều thuốc an thần và sử dụng thuốc 
kháng cholinergic Trihex có tỷ lệ sử dụng 
thuốc ATLC cao hơn (p < 0,01). Sử dụng 
nhiều thuốc an thần có thể do nhiều 
nguyên nhân như không đáp ứng hoặc 
đáp ứng 1 phần với đơn trị liệu, giảm tác 
dụng phụ do liều cao của 1 thuốc hoặc 
trong quá trình chuyển thuốc. Hơn nữa, 
đa trị liệu có thể do quan điểm sử dụng 
nhiều thuốc sẽ đáp ứng nhanh hơn. 
Nhiều trường hợp kê đơn thêm thuốc an 
thần để gây ngủ cũng góp phần vào mối 
liên quan giữa đa trị liệu và ATLC. Nghiên 
cứu của Daeyoung Roh và CS so sánh 
việc kết hợp nhiều thuốc an thần và kê đơn 
thuốc ATLC sau 5 năm cũng thấy việc kết 
hợp nhiều thuốc an thần có liên quan chặt 
chẽ với ATLC (OR = 18,6; p < 0,001) [7]. 
BN được kê nhiều thuốc an thần thường 
có thuốc an thần cổ điển, do đó thường 
được kê thêm Trihex để chống ngoại tháp 
[1]. Nghiên cứu tại Nigeria cũng cho thấy 
BN được kê nhiều thuốc an thần và được 
kê thuốc kháng cholinergic có tỷ lệ được 
kê thuốc ATLC nhiều hơn (p < 0,001) [5]. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ BN TTPL được kê đơn thuốc 
ATLC là 66,8%, trong đó 54,1% được kê 
đơn liên tục và 12,7% được kê đơn khi 
cần thiết. 
Không thấy mối liên quan giữa kê đơn 
thuốc ATLC với tuổi, giới, thời gian mang 
bệnh. BN được kê đơn thuốc ATLC có 
thời gian nằm viện dài hơn BN được kê 
đơn thuốc an thần liều tiêu chuẩn có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,01). BN được kê 
đơn nhiều thuốc an thần và được kê đơn 
kết hợp Trihex có tỷ lệ thuốc ATLC cao 
hơn (p < 0,01). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Quang Huy. Tâm thần phân liệt. 
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2011; 9-85. 
2. David Taylor, Thomas RE Barnes, Allan 
H Young. The Mausley prescribing guidelines 
in psychiatry 13th edition. Wiley Blackwell, 
London 2018; 16-20. 
3. Prescribing observatory for mental 
health UK. Antipsychotic dosage ready reckoner 
version 8. 2019. 
4. Carol Paton, Thomas RE Barnes, et al. 
High-dose and Combination Antipsychotic 
Prescribing in Acute Adult Wards in the UK: 
The Challenges Posed by p.r.n. Prescribing. 
Br J Psychiatry 2008; 192(6):435-439. 
5. Adesola AO, Anozie IG, Erohubie P, 
James BO. Prevalence and correlates of “High 
Dose” antipsychotic prescribing: Findings from a 
Hospital Audit. Ann Med Health Sci Res 2013; 
3(1):62-66. 
6. Sim K, Su A, et al. High dose antipsychotic 
use in schizophrenia: Finding op the REAP 
(Research on East Asia on psychotropic 
prescriptions) study. Pharmacopsychiatry 2013; 
37:175-179. 
7. Daeyoung Roh, Jhin-Goo Chang, et al. 
Antipsychotic polypharmacy and high-dose 
prescription in schizophrenia: A 5-year comparison. 
Aust N Z J Psychiatry 2014; 48(1):52-60. 

File đính kèm:

  • pdfthuoc_an_than_lieu_cao_o_benh_nhan_tam_than_phan_liet_dieu_t.pdf