Thuế bảo vệ môi trường: kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt Nam

Từ những năm 2000 trở lại đây, các công cụ “định hướng theo thị trường” của chính sách môi

trường (như hệ thống các loại thuế, phí môi trường; giấy phép phát thải chuyển nhượng được),

đặc biệt là các loại thuế và lệ phí đã được các nước sử dụng ngày càng nhiều. Thông qua kinh

nghiệm của các nước về thuế bảo vệ môi trường, bài viết nêu một số vấn đề cần lưu ý về chính sách

thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam.

pdf 4 trang phuongnguyen 460
Bạn đang xem tài liệu "Thuế bảo vệ môi trường: kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuế bảo vệ môi trường: kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt Nam

Thuế bảo vệ môi trường: kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt Nam
64 
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đức, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan) và nhiều quốc gia 
khác (Singapore, Trung Quốc) đều thu thuế đối 
với việc sử dụng năng lượng/nhiên liệu, trong đó 
mức thuế suất đối với xăng, dầu, than đá thường 
có phân biệt theo hàm lượng lưu huỳnh trong mỗi 
sản phẩm này. 
Thuế phương tiện: Thuế phương tiện thu đối với 
các phương tiện khi lưu hành thải ra khí CO2. Tại 
CHLB Đức, thuế được xác định căn cứ lượng khí 
CO2 thải ra và dung lượng của xe. Tuy nhiên, thuế 
phương tiện mang tính chất thuế tài sản, vì thuế 
thu mức thu cố định và thu theo năm (Mức thuế = 
mức thu cố định + mức thu phí CO2; Trong đó, mức 
thu cố định: Căn cứ dung tích xi lanh của xe; Mức 
thu tính trên lượng CO2 khí thải do sử dụng xe căn 
cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật của xe).
Thuế môi trường: Thuế môi trường thu đối với 
sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu đến môi 
trường. Thu đối với NOx (hoá chất có gốc Oxit 
Nitơric); SOx (hoá chất có gốc Oxit Sulfuaric), 
NH4, CO (được áp dụng tại CHLB Đức, Đan 
Mạch, Thụy Điển); Thu đối với hóa chất sử dụng 
trong nông nghiệp, thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm 
(tại Bỉ, Đan Mạch, Mexico); Thu đối với túi ni 
lông (tại Anh, Trung Quốc; Thu đối với máy tính, 
pin, ắc quy, chai lọ bằng thủy tinh, bao bì và các 
sản phẩm khác thải bỏ sau khi sử dụng tại các 
nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 
(OECD), Đài Loan, Hàn Quốc).
Ngoài việc thu thuế cho mục đích BVMT, các nước 
còn thực hiện chính sách phí môi trường như: Đức 
thu phí của người khai thác nước, Đan Mạch thu phí 
xử lý rác thải và phí khai thác nước; Thụy Điển thu 
phí thải khí NOx, phí ô nhiễm nước, phí đường đối 
với phương tiện hạng nặng... Phí BVMT trong khai 
Chính sách thuế bảo vệ môi trường ở một số nước
Chính sách thuế bảo vệ môi trường (BVMT) 
ở các nước thường nhằm 2 mục tiêu chủ yếu là 
khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất 
thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách 
nhà nước (NSNN) thông qua việc đưa chi phí môi 
trường vào trong giá thành sản phẩm theo nguyên 
tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Hiện nay, 
nhiều nước thu thuế liên quan đến mục đích BVMT 
đối với sản phẩm, hàng hóa khi được sử dụng sẽ 
gây tác động xấu đến môi trường.
Thuế năng lượng/nhiên liệu: Thuế năng lượng/
nhiên liệu thu đối với các sản phẩm khi sử dụng 
tạo ra khí CO2 như xăng, dầu, than đá, gas tự 
nhiên, điện. Hầu hết các quốc gia Châu Âu (CHLB 
THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ VỚI VIỆT NAM
PGS., TS. VƯƠNG THỊ THU HIỀN - Học viện Tài chính, ThS. PHẠM XUÂN THẮNG - Đại học Y Hà Nội; Email: vuongthuhienhvtc@gmail.com
Từ những năm 2000 trở lại đây, các công cụ “định hướng theo thị trường” của chính sách môi 
trường (như hệ thống các loại thuế, phí môi trường; giấy phép phát thải chuyển nhượng được), 
đặc biệt là các loại thuế và lệ phí đã được các nước sử dụng ngày càng nhiều. Thông qua kinh 
nghiệm của các nước về thuế bảo vệ môi trường, bài viết nêu một số vấn đề cần lưu ý về chính sách 
thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Từ khóa: Thuế, môi trường, bảo vệ môi trường, thuế bảo vệ môi trường
Since 2000, the “market-oriented” tools of 
environement protection policies (such as 
environmental taxes and charges; transferable 
emission permits) especially the t environmental 
axes and charges have been used intensively. 
By studying international experience in 
environmental tax, the paper presents issues of 
environment protection tax in Vietnam.
Keywords: Tax, environment, environment protection, 
environmental protection tax
Ngày nhận bài: 05/09/2017
Ngày hoàn thiện biên tập:19/9/2017 
Ngày duyệt đăng: 22/9/2017
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
65
thác khoáng sản đã được thực hiện ở nhiều quốc gia 
như: Canada, Australia, Thụy Điển, Anh, Đan Mạch, 
Cộng hòa Séc hay một số bang của Hoa Kỳ. 
Nghiên cứu thực tế chính sách thuế BVMT tại 
các quốc gia cho thấy những điểm đáng chú ý:
Thứ nhất, quan điểm, mục tiêu chủ yếu của hầu 
hết các nước khi thu thuế cho mục đích BVMT: (1) 
giải pháp kinh tế tài chính chủ yếu để giảm ô nhiễm 
môi trường; giảm phát thải khí thải; (2) Góp phần 
phát triển kinh tế - xã hội bền vững; (3) Giảm tiêu 
thụ năng lượng trên một đơn vị tăng trưởng GDP; 
(4) Ngân sách có nguồn tài chính để thực hiện phát 
triển kinh tế, xã hội.
Thứ hai, tùy điều kiện, từng quốc gia đã áp dụng 
các công cụ khác nhau để đạt mục tiêu BVMT và 
phát triển bền vững, trong đó có các loại công cụ 
được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới, đặc 
biệt là tại các nước trong khối OECD như: (1) Phí ô 
nhiễm không khí; (2) Phí ô nhiễm nước; (3) Phí rác 
thải; (4) Phí gây ồn; (5) Phí sử dụng môi trường; (6) 
Phí sản phẩm; (7) Lệ phí; (8) Thuế môi trường; (9) 
Trợ giá; (10) Hoàn trả ủy thác. 
Thứ ba, thuế cho mục đích môi trường (như 
thuế năng lượng/nhiên liệu, thuế môi trường 
hoặc thuế xanh, thuế phương tiện) là một 
trong những biện pháp kinh tế thường được các 
quốc gia sử dụng nhằm tạo nguồn thu trực tiếp 
cho NSNN. Số thu từ nhóm thuế này trung bình 
chiếm khoảng 5% GDP và dao động từ 3% - 13% 
GDP tùy thuộc vào từng quốc gia. Theo đó, Ấn 
Độ, Trung Quốc, Mexico khuyến khích phát triển 
năng lượng sạch, năng lượng tái sinh; Bỉ, Hàn 
Quốc áp thuế đối với bao bì nhằm giảm lượng 
rác thải từ các sản phẩm này. Phần Lan áp dụng 
thuế đánh vào phát thải CO2 với nhiên liệu; 
Na Uy, Đan Mạch áp dụng thuế carbon đối với 
nhiên liệu hóa thạch. Chỉ tính riêng năm 2012, số 
lượng các quốc gia áp dụng công cụ thuế carbon 
đã tăng gấp đôi, từ 20 lên 40 nước trên thế giới 
(tập trung chủ yếu ở châu Âu; lượng phát thải 
khí nhà kính ở khu vực này đã giảm 7%).
Theo dự báo đến năm 2020, ngân sách các nước 
Đông Nam Á có thể tăng từ 0,5-2% GDP nếu áp 
dụng mức thuế 20 USD/tấn CO2 phát tải. Cũng với 
mức thuế này áp dụng tại Trung Quốc (quốc gia có 
lượng phát thải lớn), có thể tạo ra nguồn thu lên tới 
2,5% GDP.
Thứ tư, các nước áp dụng nhóm thuế môi 
trường còn nhằm mục đích khuyến khích người 
gây ô nhiễm môi trường giảm lượng chất thải ra 
môi trường thông qua việc đưa chi phí sử dụng 
môi trường vào giá thành sản phẩm theo nguyên 
tắc người gây ô nhiễm/người sử dụng phải trả 
tiền. Ví dụ, ở Thụy Điển, thuế môi trường là một 
trong những công cụ kinh tế hữu hiệu của chính 
sách “thuế xanh, thuế sạch” mang lại nguồn thu lớn 
cho NSNN, giảm phát thải CO2, tăng việc sử dụng 
năng lượng có thể tái tạo được. Trong thời gian từ 
năm 1991-2009, nhờ thực hiện chính sách thuế cho 
mục đích môi trường và những chính sách khác mà 
GDP của Thụy Điển tăng khoảng 48%, lượng khí 
thải giảm 9,2%, lượng tiêu thụ năng lượng có thể 
tái tạo được tăng 25%. 
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, chính sách tài khoá 
về môi trường với các chính sách thuế cho mục đích 
môi trường đã góp phần giúp nước Đức phát triển 
kinh tế không phụ thuộc nhiều vào năng lượng, 
giảm 25% lượng khí thải theo cam kết của Công 
ước Tokyo; đồng thời có nguồn để tài trợ và cải tạo 
điện, chi cho các dự án về môi trường và giảm bớt 
đóng góp của người dân về an sinh xã hội.
Tại Đan Mạch, trong hơn 20 năm qua, nhờ chính 
sách thuế cho mục đích môi trường và các biện 
pháp hỗ trợ khác, Đan Mạch đã khuyến khích được 
người dân sử dụng nước tiết kiệm và thải rác ít, 
phát minh trong việc xử lý nước thải và rác thải 
(thu hồi vỏ chai, phân loại rác và tái chế rác thải...). 
Năm 2008, tổng số thu về thuế xanh của Đan Mạch 
là 74.552 triệu DKK, bằng 4,3% GDP và chiếm 8,7% 
tổng số thu ngân sách. 
Thứ năm, đối tượng chịu thuế BVMT gồm:
- Xăng, dầu, khí hóa lỏng, khí tự nhiên, than: 
Các mặt hàng này được áp thuế dưới những tên 
gọi khác nhau như thuế sử dụng năng lượng (Bỉ, 
Bồ Đào Nha, Ba Lan); thuế nhiên liệu (Đức, Anh, 
Canada, Mỹ, Hồng Kông); thuế đối với sản phẩm 
CO2, SO2, NOx (Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản); 
thuế đối với sản phẩm dầu mỏ (Philippines); thuế 
đánh vào phương tiện hạng nặng (Mexico) Mức 
thuế suất có phân biệt theo hàm lượng lưu huỳnh 
trong xăng, dầu, than đá.
- Thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm (Đan Mạch, 
Mexico, Congo, Malawi, Zimbabwe).
- Túi ni lông (Hồng Kông, Wales - Anh, riêng 
Trung Quốc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi ni lông 
độ dày nhỏ hơn 0,025mm).
- Thuốc trừ sâu (Mexico, Đan Mạch, Congo, 
Malawi, Zimbabwe).
- Thuốc diệt nấm (Đan Mạch).
- Thuốc lá (Estonia).
- Hóa chất (phân bón) sử dụng trong nông 
nghiệp (Bỉ).
Thứ sáu, về tổ chức thực hiện chính sách thuế 
môi trường:
66
KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
- Kê khai, nộp thuế: Để thuận tiện trong hoạt 
động quản lý thuế, các nước quy định hàng hóa 
nhập khẩu kê khai, nộp thuế tại khâu nhập khẩu, 
hàng hóa sản xuất trong nước kê khai, nộp thuế 
cùng thời điểm kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng...
- Quản lý thu thuế môi trường: Các cơ quan 
hành chính thuế và bộ tài chính các nước thực hiện 
quản lý thu. 
Bên cạnh đó, các nước đã ban hành nhiều chính 
sách và áp dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm 
thực hiện rất tốt công tác giáo dục tuyên truyền về 
việc thực hiện thuế cho mục đích BVMT. Tại Đức, 
các chiến dịch tuyên truyền nhằm giáo dục ý thức 
người dân và doanh nghiệp trong việc nộp thuế 
BVMT cũng như những vai trò của thuế BVMT 
được diễn ra liên tiếp trên quy mô rộng như: Các áp 
phích và tranh ảnh quảng cáo gồm những hình ảnh 
nói về những lợi ích của thuế BVMT được dán tại 
các khu trung tâm mua sắm để thu hút sự chú ý của 
người dân; Quảng cáo trên tờ rơi với tên gọi “Thuế 
sinh thái”; Cung cấp trên mạng thông tin Internet 
các đoạn phim trên, các chiến lược, khẩu hiệu, tờ rơi 
giáo dục về thuế BVMT... 
Nhờ triển khai và thực hiện có hiệu quả các biện 
pháp nâng cao nhận thức về BVMT nói chung và 
thuế cho mục đích BVMT nói riêng, ý thức của các 
doanh nghiệp và người dân các nước về các chính 
sách thuế cho mục đích BVMT được nâng cao, giúp 
việc thu thuế trở nên dễ dàng hơn và chính sách 
thuế được triển khai hiệu quả hơn. 
Một vài khuyến nghị đối với 
chính sách thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về 
thuế BVMT, cùng với những đánh giá về chính sách 
thuế BVMT hiện hành ở Việt Nam, một số vấn đề 
về chính sách thuế BVMT ở Việt Nam cần lưu ý 
trong thời gian tới:
Một là, về đối tượng chịu thuế: Thuế BVMT thu 
vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động 
xấu đến môi trường. Trên thực tế, tại Việt Nam, còn 
có nhiều sản phẩm, hàng hoá chưa được quy định 
thuộc đối tượng chịu thuế BVMT mà khi đưa vào 
sử dụng có mức độ gây ô nhiễm trên diện rộng, 
tác động xấu đến môi trường sinh thái và sức khỏe 
con người cần được nghiên cứu để bổ sung vào đối 
tượng chịu thuế BVMT:
- Sản phẩm phân bón hóa học: Phân bón hóa 
học là sản phẩm đầu vào thiết yếu của ngành sản 
xuất nông nghiệp. Sử dụng phân bón sẽ để lại một 
lượng không nhỏ dư lượng do không được cây 
trồng hấp thụ, sẽ có tác động tiêu cực đến chính 
hệ sinh thái nông nghiệp cũng như làm ô nhiễm 
nguồn nước, ô nhiễm đất và có thể gây đột biến 
gen đối với một số loại cây trồng. Kinh nghiệm 
quốc tế cho thấy, nhiều nước đang thu thuế môi 
trường với hóa chất sử dụng trong nông nghiệp 
(phân bón hóa học); Một số nước châu Âu dự kiến 
đưa sản phẩm phân bón hóa học vào diện chịu 
thuế BVMT.
- Chất tẩy rửa: Trong chất tẩy rửa đều có chứa 
các hóa chất tổng hợp và các hóa chất này đều có 
thể gây hại cho sức khỏe con người cũng như gây 
ô nhiêm không khí khi sử dụng. Mức độ gây hại 
nhiều hay ít tùy theo hàm lượng nồng độ của hóa 
chất trong dung dịch hóa chất. Hàm lượng, nồng độ 
càng cao thì tác hại đến sức khỏe con người cùng 
như môi trường càng nguy hiểm. 
- Chất kích thích tăng trưởng: Chất kích thích 
tăng trưởng dùng cho thực vật bao gồm các hoạt 
chất như NAA, Gibberellin, Xytokinin dưới nhiều 
tên gọi thương mại khác nhau được sử dụng trong 
nông nghiệp làm biến đổi gen giúp cây tăng tỷ lệ 
nẩy mầm, đổi màu hoa, tạo trái không hạt, kích 
thích cây mọc khỏe và nhanh. Chất kích thích tăng 
trưởng gây ra những biến đổi không bình thường 
cho cơ thể con người. Hiện nay, châu Âu đã tẩy chay 
các loại trái cây có sử dụng hóa chất tăng trưởng.
- Khí than, khí thiên nhiên: 
+ Khí than có nguồn gốc từ than đá. Thành phần 
chủ yếu trong khí than là khí metan (CH4), thường 
chiếm khoảng 94 - 95%, phần còn lại gồm etan, 
propan, butan, pentan, nitơ, cacbonđioxit, một ít 
lưu huỳnh (hoặc có thể không chứa lưu huỳnh). 
Các chất này cũng gây tác hại môi trường và sức 
khỏe con người.
+ Khí tự nhiên (khí thiên nhiên) là hỗn hợp chất 
khí cháy được, bao gồm phần lớn là các hydrocarbon 
(hợp chất hóa học chứa cacbon và hyđrô). Khí tự 
nhiên là nhiên liệu hóa thạch. Các chất có trong khí 
tự nhiên đều gây tác hại đến môi trường và sức 
khỏe con người.
Trên thế giới, một số nước như: CHLB Đức, Bỉ 
thu cả thuế BVMT và phí BVMT đối với khí than, 
khí thiên nhiên.
Hai là, mức thuế suất đối với một số sản phẩm, 
hàng hóa: Mức thuế BVMT thể hiện mức độ điều 
tiết của Nhà nước đối với những hàng hóa khi sử 
dụng gây tác động xấu đến môi trường. Luật Thuế 
BVMT của Việt Nam quy định Biểu khung thuế 
BVMT với mức thuế tuyệt đối tối thiểu, tối đa (tính 
trên một đơn vị hàng hóa) và được xây dựng trên 
nguyên tắc: 
(i) Căn cứ vào mức độ gây tác động xấu đến 
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
67
môi trường của hàng hóa chịu thuế (mức thuế 
được điều tiết cao đối với những hàng hóa, sản 
phẩm chịu thuế có mức độ gây ô nhiễm lớn cho 
môi trường và ngược lại mức thuế suất thấp hơn 
đối những hàng hóa, sản phẩm chịu thuế gây ô 
nhiễm môi trường ít hơn);
(ii) Mức thuế đối với hàng hóa chịu thuế phù 
hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của 
Nhà nước trong từng thời kỳ.
Qua rà soát và đánh giá tình hình thực tế thì 
quy định về mức thuế BVMT hiện hành của Việt 
Nam đối với một số sản phẩm, hàng hóa thuộc đối 
tượng chịu thuế (có tỷ trọng số thu thuế BVMT lớn) 
cần được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với 
những lý do cụ thể như sau: 
- Xăng, dầu, mỡ nhờn: Xăng dầu là sản phẩm 
chứa các chất hóa học, gây ảnh hưởng xấu đến 
môi trường ở diện rộng. Theo Luật Thuế BVMT 
hiện hành thì xăng dầu thuộc đối tượng chịu thuế 
với khung thuế từ 1.000-4.000 đồng/lít. Mức thuế 
BVMT hiện hành đối với đối với xăng 3.000 đồng/
lít (gần bằng mức tối đa trong khung thuế); đối với 
nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít (đã bằng mức tối đa 
trong khung thuế). Hiện nay, giá bán lẻ xăng dầu 
ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước 
có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước 
khác trong khu vực ASEAN. Việc điều chỉnh tăng 
thuế BVMT đối với xăng dầu sẽ góp phần đảm bảo 
giá bán lẻ xăng dầu trong nước phù hợp với giá bán 
lẻ xăng dầu của các nước trong khu vực, góp phần 
hạn chế buôn lậu xăng dầu.
Để góp phần khuyến khích người dân sử dụng 
nhiên liệu sinh học, bên cạnh các giải pháp tài 
chính khác (như quy định mức thuế TTĐB đối với 
xăng E5, E10 thấp hơn xăng khoáng; điều chỉnh 
mức thuế xuất khẩu đối với sắn lát và các sản 
phẩm từ sắn - là nguyên liệu sản xuất xăng E5) thì 
việc tăng mức thuế BVMT đối với xăng dầu là một 
giải pháp có tính khả thi cao. Đồng thời, đây cũng 
là cách thức đảm bảo nguồn thu NSNN trong điều 
kiện thực hiện Lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu 
theo các cam kết quốc tế và giá dầu thô trên thị 
trường thế giới giảm.
- Than đá: Than là một trong những sản phẩm 
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khi sử dụng 
(than khi đốt cháy sẽ thải vào môi trường các loại 
khí như CO2, SO2 - là các chất khí có ảnh hưởng xấu 
đến không khí và sức khỏe con người). Tuy nhiên, 
hiện nay mức thuế tuyệt đối cho than đá là rất thấp 
(10.000 đ/tấn) - thậm chí thấp hơn nhiều so với một 
số nước ở châu Á khác (Trung Quốc thu khoảng từ 
8 - 38 NDT/tấn, Philippines thu ở mức 10 peso/tấn). 
Vì vậy, mức thuế tuyệt đối của than đá cần được 
điều chỉnh tăng với mục tiêu giới hạn việc sử dụng 
nguyên liệu hóa thạch, đóng góp tới BVMT.
Ngoài ra, tương tự như xăng dầu, quy định 
hiện hành về mức thuế BVMT đối với than chưa 
có sự phân biệt theo hàm lượng lưu huỳnh trong 
than. Như vậy là chưa phù hợp với nguyên tắc 
quy định mức thuế suất cụ thể thuế BVMT và 
thông lệ quốc tế. 
- Túi ni lông thuộc đối tượng chịu thuế: Túi ni 
lông có đặc điểm là phải trải qua thời gian rất lâu 
để có thể phân huỷ (có thể tới hàng trăm năm) 
hoặc không thể tự phân huỷ được, từ đó gây ra 
suy thoái môi trường, nhất là các loại túi ni lông 
mỏng được phát miễn phí tại các siêu thị, chợ. Do 
đó, để thay đổi hành vi của người sử dụng, hạn 
chế việc phát miễn phí túi ni lông, từ đó, giảm 
dần và thay đổi hành vi, thói quen sử dụng túi 
ni lông của người tiêu dùng (khuyến khích người 
tiêu dùng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay 
thế thân thiện với môi trường hơn) thì cần đánh 
thuế cao đối với túi ni lông.
Biểu khung thuế BVMT và mức thuế BVMT cụ 
thể đang áp dụng đối với túi ni lông là thấp (với 
mức thuế hiện hành là 40.000 đồng/kg - tương 
đương khoảng 200% giá bán hiện hành nhưng 1kg 
túi nhựa xốp thì chứa đến 200 túi) nên trên thực tế, 
thuế BVMT chưa có tác động nhiều tới hạn chế việc 
sản xuất, sử dụng túi ni lông.
Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới đang áp 
dụng mức thuế BVMT cao hoặc cấm sản xuất, bán, 
sử dụng túi ni lông. Cụ thể như ở Anh đang áp 
dụng mức thuế: 15 cent/túi, tương đương 4.500đ/
túi; Ailen: 15 cent/túi, tương đương 4.500đ/túi; 
Hồng Kông: 0,05USD/túi, tương đương 1.050đ/túi... 
Một số nước khác còn cấm sản xuất, bán, sử dụng 
túi ni lông mỏng (Ví dụ như Trung Quốc cấm sản 
xuất, bán, sử dụng túi ni lông có độ dày nhỏ hơn 
0,025mm). Do đó, biểu khung thuế suất tuyệt đối 
đối với túi ni lông thuộc diện chịu thuế cũng như 
mức thuế suất đang áp dụng cần được xem xét điều 
chỉnh để đảm bảo mục tiêu giảm dần việc sử dụng 
túi ni lông khó phân hủy trong tiêu dùng và phù 
hợp với thông lệ quốc tế. 
Tài liệu tham khảo:
1. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế Bảo vệ môi trường;
2. Hội thảo “Hoàn thiện chính sách thuế, phí BVMT”, Viện Chiến lược và Chính 
sách Tài chính, Vụ Chính sách Thuế, Trường Đại học Tài chính - Marketing, 
TP. Hồ Chí Minh, ngày 14/7/2017;
3. Luật BVMT năm 2014;
4. Luật số 57/2010/QH12 của Quốc hội: Luật Thuế BVMT.

File đính kèm:

  • pdfthue_bao_ve_moi_truong_kinh_nghiem_quoc_te_va_nhung_khuyen_n.pdf