Thực trạng vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên

Tóm tắt:

Kế toán quản trị là công cụ hữu ích trong quản lý kinh tế của các doanh nghiệp nói chung và doanh

nghiệp sản xuất nói riêng. Mặc dù vậy, hệ thống kế toán trong các doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và

vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay mới chỉ tập trung vào mục đích lập báo cáo tài chính. Việc vận

dụng kế toán quản trị để cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và đưa ra các quyết

định trong nội bộ doanh nghiệp còn rất hạn chế, không thể cung cấp các thông tin phù hợp kịp thời và tin

cậy cho việc ra các quyết định.

Trên cơ sở khảo sát thực trạng việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ

và vừa trên địa bàn Hưng Yên hiện nay giúp cho việc đánh giá và tìm ra các nguyên nhân chưa triển khai

áp dụng vấn đề này tại các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên dịa bàn tỉnh.

Từ khóa: Kế toán quản trị, Doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa.

pdf 6 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên

Thực trạng vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017 Journal of Science and Technology 93
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT NHỎ VÀ VỪA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
Đào Thị Hương, Vũ Thị Phương Thảo, Đào Thị Thanh, 
Đỗ Thị Thảnh, Bùi Thị Minh
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 07/11/2017
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 25/11/2017
Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 05/121/2017
Tóm tắt:
Kế toán quản trị là công cụ hữu ích trong quản lý kinh tế của các doanh nghiệp nói chung và doanh 
nghiệp sản xuất nói riêng. Mặc dù vậy, hệ thống kế toán trong các doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và 
vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay mới chỉ tập trung vào mục đích lập báo cáo tài chính. Việc vận 
dụng kế toán quản trị để cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và đưa ra các quyết 
định trong nội bộ doanh nghiệp còn rất hạn chế, không thể cung cấp các thông tin phù hợp kịp thời và tin 
cậy cho việc ra các quyết định.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ 
và vừa trên địa bàn Hưng Yên hiện nay giúp cho việc đánh giá và tìm ra các nguyên nhân chưa triển khai 
áp dụng vấn đề này tại các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên dịa bàn tỉnh.
Từ khóa: Kế toán quản trị, Doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa.
1. Đặt vấn đề
Việc hội nhập thông qua các hiệp định 
thương mại tự do thế hệ mới đem lại cho các doanh 
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa 
(DNNVV) trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng 
bên cạnh cơ hội cũng song hành nhiều thách thức. 
Thách thức cho các doanh nghiệp đặt ra là quy mô 
sản xuất nhỏ, tiếp cận nguồn vốn khó khăn, sử dụng 
lao động trình độ thấp đặc biệt là chưa quen vận 
dụng các công cụ quản trị nói chung cũng như kế 
toán quản trị (KTQT) nói riêng nên các DNNVV 
gặp nhiều bất lợi khi cạnh tranh với các công ty lớn, 
các tập đoàn nước ngoài. Một khi môi trường kinh 
doanh thay đổi theo xu hướng hội nhập toàn cầu, 
một thách thức lớn đặt ra cho các nhà quản trị là 
phải vận dụng các công cụ kỹ thuật quản trị mới để 
ứng phó, nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh 
nghiệp mình. Và việc vận dụng KTQT sẽ tận dụng 
được các công cụ quản trị để giúp các nhà quản trị 
có được các thông tin kịp thời, thích hợp và hiệu 
quả nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định. 
Tuy nhiên, cho đến nay việc vận dụng KTQT 
vào hoạt động quản trị trong các DNNVV trên địa 
bàn tỉnh Hưng Yên vẫn còn nhiều vướng mắc, hệ 
quả tất yếu là trong thực tế tỷ lệ vận dụng KTQT 
trong các DNNVV nói chung còn rất thấp, các công 
cụ kỹ thuật KTQT được vận dụng hầu hết là công 
cụ kỹ thuật truyền thống và hiệu quả đóng góp cho 
công tác quản trị chưa cao.
2. Mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Thực trạng việc vận 
dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản 
xuất nhỏ và vừa tại Hưng Yên.
Đối tượng nghiên cứu: Thực tiễn về kế toán 
quản trị tại các DN sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn 
tỉnh Hưng Yên.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ 
cấp: Để thu thập dữ liệu sơ cấp, đề tài đã sử dụng 
3 phương pháp đó là: Phiếu điều tra chuyên sâu, 
phỏng vấn chuyên gia, phương pháp tiếp xúc thực 
tế và xem xét tài liệu của đơn vị khảo sát.
Phương pháp xử lý dữ liệu: nghiên cứu sử 
dụng các phương pháp kỹ thuật cụ thể như so sánh, 
đối chiếu, phân tích nội dung và các kỹ thuật của 
thống kê dựa vào phần mềm xử lý văn bản Microsoft 
Office (Word và Excel).
3. Khái quát về các doanh nghiệp sản xuất nhỏ 
và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
3.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ở Việt Nam, theo nghị định số 56/2009/
NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 30 tháng 6 
năm 2009, DNNVV được chia theo ngành bao gồm: 
nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây 
dựng; thương mại và dịch vụ. Bên cạnh đó, tiêu thức 
chủ yếu để phân loại DNNVV ở Việt Nam là số lao 
động và số vốn. Với những doanh nghiệp sản xuất 
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology94 Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017
nhỏ và vừa thì mức vốn quy định từ 20 đến dưới 100 
tỷ và có từ 10 đến 200 lao động. Trên địa bàn tỉnh 
Hưng Yên các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong 
các ngành nông công nghiệp, xây dựng, thương mại 
và dịch vụ với những đặc điểm nổi bật như:
Đa dạng về hình thức sở hữu: các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa tồn tại và phát triển dưới nhiều 
hình thức khác nhau như: có vốn đầu tư nước ngoài, 
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công 
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã. 
Hạn chế về sản phẩm, dịch vụ và năng lực 
tài chính: các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng 
sản phẩm và dịch vụ hạn chế, chủ yếu dựa vào lao 
động thủ công; các doanh nghiệp này thường kinh 
doanh các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với trình 
độ chuyên môn, kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp 
cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa có 
nguồn tài chính hạn hẹp: vốn kinh doanh của các 
doanh nghiệp này chủ yếu là vốn chủ sở hữu của 
chủ doanh nghiệp, khả năng tiếp cận vốn của các tổ 
chức tín dụng còn thấp.
Năng động và linh hoạt cao: các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa có tính năng động và linh hoạt 
cao: đầu tư ban đầu thấp, sử dụng ít lao động. Do 
đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể dễ dàng 
chuyển đổi kế hoạch sản xuất, cơ sở kinh doanh và 
hình thức doanh nghiệp.
Bộ máy quản lý thường nhỏ gọn, trình độ 
tổ chức không cao: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa 
được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa trên năng 
lực và kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp nên bộ 
máy tổ chức nhỏ gọn và nhanh chóng ra quyết định 
quản lý.
Lao động trình độ thấp và sử dụng công 
nghệ cũ: Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa có trình độ thấp và các doanh nghiệp thường sử 
dụng công nghệ cũ và lạc hậu trong quá trình sản 
xuất kinh doanh.
3.2. Vai trò của doanh nghiệp sản xuất nhỏ và 
vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
Ngày nay, cơ cấu kinh tế của tỉnh Hưng Yên 
đã có những bước chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng 
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Sản xuất công nghiệp 
tăng trưởng nhanh, giá trị sản xuất tăng, hình thành 
một số ngành sản xuất có tính động lực phát triển 
như điện tử, dệt may, cơ khí, đó là những ngành 
mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân sách của tỉnh. 
Theo số liệu của khảo sát năm 2016 trên địa 
bàn tỉnh Hưng Yên số doanh nghiệp sản xuất nhỏ 
và vừa chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số các 
doanh nghiệp.
Bảng 1. DN sản xuất quy mô nhỏ và vừa trong tổng 
số DN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
Năm Tổng số doanh 
nghiệp trên địa 
bàn tỉnh HY
Trong đó
Số DNSXNVV Chiếm tỷ 
trọng (%)
Năm 
2014
2875 1185 41,21%
Năm 
2015
2892 1219 42,15%
Năm 
2016
2915 1245 42,72%
Tỷ trọng bình quân - 42.03%
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh)
Số doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa chiếm 
tỷ trọng 42,03% trên tổng số doanh nghiệp trên toàn 
toàn tỉnh. DN lớn chiếm tỷ trọng rất ít chỉ khoảng 
4,3% dao động trong các năm từ 2014 đến 2016 còn 
lại là các doanh nghiệp siêu nhỏ. Do đặc thù của các 
doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa là phụ 
thuộc địa điểm sản xuất kinh doanh nên các doanh 
nghiệp này phân bổ khắp các địa bàn trong tỉnh.
Không chỉ tăng trưởng về số lượng, các 
doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa còn mở 
rộng về lĩnh vực kinh doanh làm doanh thu của khối 
các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Theo số liệu 
thống kê doanh thu của DN nhỏ và vừa năm 2014 
là 61.412.156 (triệu đồng), năm 2015 doanh thu 
các doanh nghiệp này 66.161.991 (triệu đồng), năm 
2016 là 73.809.093 (triệu đồng). Qua 3 năm doanh 
thu của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng liên tục 
điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của 
các doanh nghiệp này khá ổn định.
Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa 
bàn tỉnh hiện nay là phát triển kinh tế và phát triển 
xã hội.
Với vai trò phát triển kinh tế: 
Các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ 
(DNSXVVN) là:
Kênh huy động vốn trong dân cư: Với ưu 
điểm tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, dễ dàng đi sâu 
vào ngõ ngách của nền kinh tế, số vốn đầu tư ban 
đầu không nhiều, dễ dàng huy động vốn dựa trên 
quan hệ họ hàng, bạn bè. Các doanh nghiệp sản xuất 
quy mô nhỏ và vừa là một phương tiện hiệu quả 
trong việc huy động, sử dụng các khoản vay tiền 
nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản 
vốn đầu tư mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư-người 
sở hữu vốn cũng như mang lại lợi ích cho xã hội.
Tạo ra chuỗi liên kết kinh tế: Nhờ đặc tính 
dễ hình thành, khởi sự của các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa, đặc tính sản xuất linh hoạt đã giúp các doanh 
nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa cùng với các 
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017 Journal of Science and Technology 95
doanh nghiệp lớn tạo ra các mối liên kết hiệu quả. 
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan 
trọng trong việc làm vệ tinh, phụ trợ cho các doanh 
nghiệp lớn.
Đóng góp vào ngân sách Nhà nước: Các 
doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa đóng góp 
đáng kể vào ngân sách Nhà nước. Điều này càng 
khẳng định sự đóng góp và vị thế của các doanh 
nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa trong sự phát 
triển kinh tế chung của tỉnh Hưng Yên.
Vai trò phát triển xã hội:
Các DN nhỏ và vừa còn có vai trò quan trọng 
trong phát triển xã hội, đặc biệt trong việc tạo công 
ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao 
động, đặc biệt là các lao động phổ thông, lao động 
có trình độ thấp. Do tính chất phân bổ của DN sản 
xuất nhỏ và vừa thường phân tán nên họ có thể đảm 
bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng trong tỉnh và 
đối tượng lao động có trình độ thấp. Do đó, có thể 
giải quyết nạn thất nghiệp và góp phần giảm số 
người di chuyển đến các thành phố để tìm việc làm.
Bảng 2. Số lao động tại các doanh nghiệp SX nhỏ 
và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
Năm Số lao 
động ở 
tất cả các 
DN SX
Số lao 
động ở 
DNSX 
VVN
Tỷ trọng 
trên tổng 
số lao 
động (%)
Tốc độ 
tăng số 
lao động 
ở DNSX 
2014 159.102 61.334 38,55% 100,00
2015 179.318 69.240 38,61% 112,89
2016 201.067 76.007 37,80% 109,77
Bình 
quân
- - 38,32% 107,55
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Số việc làm tạo ra bởi các doanh nghiệp 
sản xuất quy mô vừa và nhỏ đều tăng hơn 100% 
hàng năm. Trong đó năm 2016 tỷ lệ này giảm so 
với năm 2015 nhưng xét trên tổng thể vẫn đều tăng 
trên 100%. Đây là bằng chứng chứng minh vai trò 
của các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trong 
nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa phân bố 
rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi 
đến miền ngược, mặc dù số lao động làm việc trong 
một doanh nghiệp nhỏ và vừa không nhiều nhưng 
tính trên tổng số doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ 
và vừa trên toàn tỉnh thì số việc làm mà các doanh 
nghiệp này tạo ra là rất lớn.
Qua đó có thể khẳng định rằng, các doanh 
nghiệp sản xuất nhỏ và vừa đóng một vai trò lớn 
trong việc phát triển kinh tế của tỉnh nên cần tập 
trung tạo điều kiện để phát triển hình thức này, góp 
phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
4. Thực trạng vận dụng kế toán quản trị trong 
các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa trên địa 
bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay
Qua khảo sát cho thấy các doanh nghiệp sản 
xuất nhỏ và vừa tại Hưng yên được hình thành từ 
nhiều loại hình doanh nghiệp, chiếm đa phần là các 
công ty TNHH, công ty cổ phần. Chế độ kế toán áp 
dụng theo QĐ 48/QĐ-BTC. Tại các doanh nghiệp 
này có đến 75% các doanh nghiệp chưa thực hiện 
kế toán quản trị. Một số doanh nghiệp khác đã xây 
dựng hệ thống kế toán quản trị nhưng chưa đầy đủ, 
chủ yếu là kế toán quản trị chi phí. Tổ chức bộ phận 
kế toán quản trị chủ yếu thuộc bộ phận kế toán. 
Nhiệm vụ của nhân viên làm công tác kế toán quản 
trị, vừa làm công tác kế toán tài chính vừa lập các 
báo cáo kế toán quản trị chiếm 90%, và chỉ làm 
công tác kế toán quản trị chiếm 10%. Nhân sự thực 
hiện kế toán quản trị không có chuyên môn về kế 
toán quản trị chiếm 85%.
Hình 1. Thực trạng áp dụng KTQT trong các doanh 
nghiệp SX nhỏ và vừa
Đa số các doanh nghiệp sản xuất được khảo 
sát có quy mô nhỏ và vừa tại Hưng Yên sử dụng 
kết hợp chứng từ, tài khoản, sổ sách của kế toán tài 
chính và kế toán quản trị chiếm 93%, còn lại 7% tổ 
chức hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách, báo cáo 
riêng cho kế toán quản trị.
Tình hình thực hiện chức năng hoạch định
Các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại 
Hưng Yên được khảo sát thường lập dự toán ngân 
sách hàng năm tĩnh, có rất ít doanh nghiệp khoảng 
8% lập dự toán linh hoạt. Dự toán liên quan đến bộ 
phận nào thì bộ phận đó lập. Các DN chỉ lập các dự 
toán tiêu thụ sản phẩm, dự toán sản xuất, dự toán 
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự toán chi phí 
nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung 
và dự toán tồn kho thành phẩm cuối kỳ, còn các dự 
toán còn lại hầu như chưa lập
Việc lập dự toán tĩnh là dự toán thể hiện tổng 
chi phí theo một mức độ hoạt động cụ thể. Như vậy 
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology96 Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017
khi mức độ hoạt động thực tế khác biệt so với dự 
toán, thì không thể so sánh để tìm ra chênh lệch. Do 
đó, việc lập dự toán không có ý nghĩa. Dự toán này 
không thể dùng để đo lường việc sử dụng chi phí ở 
mọi mức độ hoạt động. Vì vậy, cần phải lập dự toán 
linh hoạt để so sánh đánh giá về chi phí.
Tình hình thực hiện chức năng tổ chức 
điều hành
Theo khảo sát có 86% các doanh nghiệp sản 
xuất nhỏ và vừa thực hiện kế toán chi phí sản xuất 
và tính giá thành sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí 
thực tế, còn 14% dựa trên cơ sở chi phí định mức. 
Các doanh nghiệp tính giá thành cuối tháng hoặc 
quý chiếm 90%, còn lại 10% có thể tính giá thành 
bất kỳ thời điểm nào khi có yêu cầu.
Nhìn chung, kế toán chi phí sản xuất và 
tính giá thành dựa trên cơ sở chi phí thực tế, tức là 
thông tin về giá thành chỉ có được sau khi kết thúc 
quá trình sản xuất. Như vậy, thông tin về giá thành 
không kịp thời, mất tác dụng quản trị, định hướng 
sản xuất. Đối với các doanh nghiệp kế toán chi phí 
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí 
định mức sẽ giúp các nhà quản trị tìm ra chênh lệch 
giữa chi phí định mức và chi phí thực tế, để kiểm 
soát chi phí.
Tình hình thực hiện chức năng kiểm soát
Tại các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa 
chưa thực hiện kế toán quản trị thì việc phân loại 
chi phí theo công dụng hoặc theo nguồn gốc của chi 
phí là chủ yếu. Rất ít doanh nghiệp phân loại chi phí 
theo cách ứng xử của chi phí thành định phí, biến 
phí và chi phí hỗn hợp. Các trung tâm trách nhiệm 
(trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm 
lợi nhuận, trung tâm đầu tư) đã được hình thành 
tại các doanh nghiệp để đánh giá trách nhiệm quản 
lý và thành quả hoạt động của từng bộ phận, từng 
trung tâm. Song không phải doanh nghiệp sản xuất 
nhỏ và vừa nào cũng có đủ các trung tâm này.
Các doanh nghiệp được khảo sát thường lập 
định mức chi phí sản xuất gồm các định mức về: 
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công 
trực tiếp đồng thời phân tích các biến động chi phí 
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp 
và chi phí sản xuất chung, sau đó quy trách nhiệm 
cho bộ phận liên quan về chênh lệch giữa thực tế và 
định mức. Khoảng 43% doanh nghiệp còn lại chưa 
lập định mức chi phí sản xuất và không có phân tích 
chi phí sản xuất.
Đối với công tác tập hợp chi phí và tính giá 
thành hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và 
vừa tại Hưng Yên có bộ phận kế toán tài chính lập 
một số báo cáo chủ yếu phục vụ cho việc tập hợp 
chi phí để tính giá thành. Tuy nhiên, các chi phí 
gián tiếp được doanh nghiệp tính toán và phân bổ 
chưa hợp lý, không phù hợp với thực tế phát sinh 
tại doanh nghiệp, khi phân bổ chi phí không có cơ 
sở khoa học, dẫn đến việc tập hợp chi phí và tính 
giá thành sản phẩm hay đánh giá thành quả hoạt 
động của các bộ phận, trung tâm chưa chính xác. 
Các doanh nghiệp này chưa nhận diện được chi phí 
ứng xử. 
Để kế toán chi phí sản xuất trong các doanh 
nghiệp sản xuất nhỏ và vừa hoạt động có hiệu quả 
đúng vai trò chức năng của nó thì doanh nghiệp 
nên làm:
- Kế toán trưởng cùng với ban giám đốc phải 
ước tính chi phí sản xuất chung hàng năm của công 
ty. Phân loại chi phí sản xuất chung ra thành chi phí 
khả biến, bất biến và hỗn hợp.
- Số liệu ước tính hàng năm này sẽ được sử 
dụng để lập dự toán mức chi phí sản xuất chung cho 
một đơn vị dựa trên các mức độ hoạt động sản xuất 
khác nhau.
- Chọn tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất 
chung hợp lý, các tiêu thức thường chọn là số lượng 
sản phẩm sản xuất, hoặc số giờ lao động trực tiếp, 
hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, hoặc chi phí 
nhân công trực tiếp, hoặc số giờ máy hoạt động làm 
căn cứ tính tỷ lệ chi phí (hoặc đơn giá phân bổ) cho 
một đơn vị hoạt động.
- Tổ chức tính và hạch toán chi phí sản xuất 
và chi phí chênh lệch của chi phí sản xuất chung 
thực tế so với số dự toán đã phân bổ vào các tài 
khoản phù hợp.
Tình hình thực hiện chức năng ra quyết định
Các doanh nghiệp sản xuất được khảo sát 
đều lập báo cáo nội bộ tùy theo loại báo cáo và yêu 
cầu quản lý tại mỗi đơn vị. Nhưng chỉ có khoảng 
30% các đơn vị lập báo cáo kết quả kinh doanh theo 
số dư đảm phí. Việc định giá bán sản phẩm cũng 
chủ yếu theo phương pháp toàn bộ, phương pháp 
trực tiếp (Phương pháp số dư đảm phí) được rất ít 
DN quan tâm áp dụng. Như chúng ta đã biết định 
giá bán sản phẩm là một trong những vấn đề quan 
trọng trong việc ra quyết định của nhà quản trị và 
cũng hết sức nhạy cảm. Làm sao để xác định được 
một mức giá bán hợp lý là vấn đề hết sức khó khăn. 
Việc các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa định 
giá bán theo phương pháp toàn bộ nên các định phí 
và biến phí không chi tiết làm cho nhà quản trị khó 
khăn trong việc ra quyết định.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy tại các doanh 
nghiệp chưa xây dựng mô hình kế toán quản trị 
cũng có lập một số báo cáo và một số dự toán phục 
vụ yêu cầu quản lý tại doanh nghiệp. Các doanh 
nghiệp này, kế toán tài chính thực hiện một số nội 
dung kế toán chi tiết để cung cấp thông tin phục vụ 
cho nhà quản lý như: lập định mức tiêu hao nguyên 
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017 Journal of Science and Technology 97
vật liệu, lập kế hoạch sản xuất, giá thành kế hoạch, 
báo cáo sản xuất, báo cáo năng lực sản xuất và tiêu 
thụ sản phẩm
4. Đánh giá chung về thực trạng kế toán quản 
trị trong doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại 
Hưng Yên
Qua kết quả khảo sát, các doanh nghiệp sản 
xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hưng Yên tuy 
có nhận thức về tầm quan trọng của kế toán quản 
trị trong hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng đa 
số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa chưa 
xây dựng và áp dụng kế toán quản trị vào quản lý 
điều hành doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này chủ 
yếu thực hiện công tác kế toán tài chính, chưa quan 
tâm đúng mức đến kế toán quản trị. Vì vậy trong bộ 
máy kế toán chưa xây dựng được bộ phận kế toán 
quản trị. Các doanh nghiệp này có bộ phận kế toán 
kiêm nhiệm luôn các báo cáo chi tiết của một số đối 
tượng kế toán phục vụ cho công tác quản lý, như 
các báo cáo về định mức nguyên vật liệu tiêu hao, 
báo cáo kế hoạch sản xuất và tiêu thụ Mặc dù 
thấy được tính hữu ích của thông tin kế toán quản 
trị. Nhưng do thiếu nguồn nhân lực được đào tạo 
có chuyên môn về kế toán quản trị, chi phí bỏ ra 
lớn để đào tạo nhân viên kế toán thực hiện kế toán 
quản trị, hoặc phải tuyển nhân sự có chuyên môn 
để thực hiện kế toán quản trị; đồng thời Thông tư 
53/TT- BTC hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị 
trong doanh nghiệp chỉ dừng lại ở hướng dẫn chung 
chung, chưa đi sâu chi tiết, chưa đưa ra mô hình cụ 
thể cho các loại hình doanh nghiệp nên việc áp dụng 
còn nhiều hạn chế.
Một số nguyên nhân dẫn đến việc chưa 
triển khai áp dụng kế toán quản trị tại các doanh 
nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại Hưng Yên
Nguyên nhân từ phía nhà quản trị doanh 
nghiệp
Chưa nhận thức được vai trò của kế toán 
quản trị: Nhận thức là vấn đề nền tảng của hành 
động, xuất phát từ chưa nhận thức rõ được vai trò 
của kế toán quản trị nên các nhà quản trị doanh 
nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa chưa có thái độ, 
hành động rõ ràng về kế toán quản trị.
Thói quen ra quyết định kinh tế mang tính 
cảm tính là lý do quan trọng trong quan điểm của 
nhà quản trị về kế toán quản trị. Các doanh nghiệp 
sản xuất quy mô nhỏ và vừa phần lớn là các doanh 
nghiệp ngoài quốc doanh, hoạt động mang hơi 
hướng tư thương dưới dạng các công ty gia đình. 
Các doanh nghiệp này được thành lập từ một cá 
nhân hoặc một vài cá nhân góp vốn và tự quản lý 
kinh doanh, phần lớn họ làm việc dựa trên kinh 
nghiệm, trên các mối quan hệ cá nhân, sự kỳ vọng, 
sự mạo hiểm,  kiến thức về quản trị kinh doanh 
không cao. Vì thế, nhu cầu thông tin kế toán nhằm 
phục vụ việc ra quyết định của họ không nhiều.
Ngại thay đổi: “Con người tạo ra thói quen” 
nhưng sau đó “thói quen tạo ra con người”, vì thế 
phần lớn chúng ta đầu mắc phải thói “ngại thay 
đổi” điều này cũng đúng với các nhà quản trị doanh 
nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa hiện nay. “Thay 
đổi sẽ mang lại kết quả như thế nào?” là câu hỏi 
chưa có đáp án chắc chắn nhưng chi phí cho nó 
người ta có thể chắc chắc tính được (như chi phí xây 
dựng phần mềm kế toán, chi phí nhân viên, chi phí 
đào tạo, chi phí thuê tư vấn, chi phí đầu tư thiết bị 
làm việc,). “Kế toán quản trị có thực sự cần thiết 
khi hiện giờ công việc của doanh nghiệp vẫn tốt, 
doanh nghiệp vẫn đang kinh doanh có hiệu quả?”. 
Ngại thay đổi là một rào cản lớn cho việc phát triển 
kế toán quản trị ở các doanh nghiệp sản xuất quy 
mô nhỏ và vừa.
Tiết kiệm chi phí: thêm công việc sẽ phát 
sinh thêm chi phí đặc biệt khi đây là công việc đòi 
hỏi hàm lượng chất xám nhiều. Với quy mô nhỏ 
và vừa, các nhà quản trị quan niệm rằng hoạt động 
của doanh nghiệp khá đơn giản, các thông tin không 
nhiều, dễ xử lý, do đó các nhà quản trị thường tự xử 
lý, phân tích thông tin bằng các phương pháp đơn 
giản, ước tính hoặc tận dụng kế toán tài chính với 
mục đích tiết kiệm chi phí. Đây cũng là một nguyên 
nhân khá phổ biến làm hạn chế sự phát triển của kế 
toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất quy 
mô nhỏ và vừa.
Nguyên nhân từ phía người làm kế toán
Trình độ kế toán: Khoảng cách giữa lý thuyết 
và thực tế kế toán quản trị ở các doanh nghiệp là 
một hạn chế rất lớn cho việc phát triển kế toán quản 
trị ở các doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa. 
Các cơ sở đào tạo thường cung cấp cho sinh viên, 
học viên kiến thức nền tảng. Tuy nhiên, do đặc thù 
của kế toán quản trị là mang tính cá biệt hóa cao, vì 
thế khi triển khai kế toán quản trị vào doanh nghiệp 
các kế toán viên thường khá lúng túng để triển khai 
cái kiến thức cơ sở được học thành các nội dung cụ 
thể gắn với đặc thù của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, 
số lượng kế toán viên ở các doanh nghiệp sản xuất 
quy mô nhỏ và vừa khá ít, trình độ bình quân không 
cao.Với đặc điểm về trình độ bình quân và đặc thù 
của kế toán quản trị nên trình độ của kế toán viên 
ở các doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa 
chưa đáp ứng được công tác kế toán quản trị đặc 
biệt trong việc xây dựng mới hệ thống kế toán quản 
trị mới, phù hợp và hữu ích.
Mức thù lao không hấp dẫn: Kế toán quản 
trị là công việc đòi hỏi hàm lượng chất xám nhiều 
nhưng mức thù lao không tương xứng làm cho các 
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology98 Khoa học & Công nghệ - Số 16/Tháng 12 - 2017
kế toán viên không hào hứng với kế toán quản trị. 
Mức thù lao cho kế toán quản trị chỉ ở mức 5- 7triệu 
đồng/tháng, thông thường mức thù lao này không 
thường xuyên và chỉ được coi như khoản thù lao trả 
thêm cho kế toán khi công việc kế toán quản trị của 
họ khá nặng nề. Thậm chí không có nhân viên toán 
riêng cho kế toán quản trị, còn nếu nhân viên kế 
toán thông thường (kế toán tài chính) thực hiện các 
công việc kế toán quản trị thì chỉ được đánh giá như 
làm thêm công việc về chuyên môn mà không được 
trả thêm thù lao, thêm tiền lương, vì thế, thực hiện 
kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất 
quy mô nhỏ và vừa chưa phải là công việc hấp dẫn.
Tóm lại, việc áp dụng KTQT trong các DN 
sản xuất nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh hiện nay đã có 
những bước tiếp cận để phù hợp với những thay đổi 
của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hệ thống kế 
toán tại các DN này mới chỉ đáp ứng được yêu cầu 
của kế toán tài chính và hầu như không có vai trò gì 
trong việc cung cấp thông tin góp phần tăng cường 
công tác quản lý, phục vụ cho các nhà quản trị để 
ra các quyết định kinh doanh. Từ đó cần có những 
giải pháp để tổ chức kế toán quản trị được vận dụng 
vào các loại hình doanh nghiệp này giúp các doanh 
nghiệp nâng cao hiệu quả công tác quản lý sản xuất, 
kinh doanh.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ tài chính, Thông tư 53/TT-BTC hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị, NXB Tài chính.
[2]. Bộ tài chính, Thông tư 133/2016/TT-BTC chế độ kế toán áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, 
2016, NXB Tài chính.
[3]. Cục thống kê, Niên giám thống kê, 2016.
[4]. Báo cáo, sổ sách của các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa như: Công Ty TNHH May Mặc Artif 
Việt Nam, Công Ty TNHH Sản Xuất Và Xuất Nhập Khẩu Bao Bì, Công Ty TNHH Mg Plastics Việt 
Nam, Công Ty CP Nhựa Sơn Nam, Công Ty Cổ Phần May Hưng Phát T&m 
CURRENT SITUATION OF APPLYING MANAGEMENT ACCOUNTING
TO SMALL AND MEDIUM-SIZED MANUFACTURING COMPANIES
IN HUNG YEN PROVINCE
Abstract:
Management accounting is a useful tool for management in enterprises, especially in manufacturing 
companies. However, accounting systems in small and medium-sized manufacturing enterprises in Hung Yen 
area are currently focused only on the purpose of financial reporting. The use of management accounting 
systems to provide information for planning, controlling and decision making within those enterprises are 
very limited and cannot provide timely information and reliability for making decisions. 
The examination of current status of applying management accounting system in small and medium-
sized manufacturing companies in Hung Yen area provides a basis for assessing and exploring the reasons 
why management accounting is not effectively deployed in the region.
Keywords: Management accounting, Small and medium enterprises.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_van_dung_ke_toan_quan_tri_trong_cac_doanh_nghiep.pdf