Thực trạng vận động của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng vận động của người bệnh và xác định một số yếu tố liên quan đến vận động của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại khoa Chấn thương chỉnh hình – Bỏng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu gồm 149 người bệnh trên 18 tuổi sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại khoa Chấn thương chỉnh hìnhBỏng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Nghiên cứu mô tả trên 149 người bệnh sau phẫu thuật. Kết quả: Đa số người bệnh bắt đầu tập vận động vào ngày thứ 2 sau phẫu thuật. Ngày thứ 3 sau phẫu thuật có 79,2% số người bệnh tập vận động đạt yêu cầu và khi ra viện số người bệnh tập vận động đạt yêu cầu là 92,6%. Nghiên cứu bước đầu cho thấy vận động của người bệnh sau phẫu thuật mức độ đạt yêu cầu khá cao. Kết luận: Khi ra viện đa số người bệnh vận động đạt yêu cầu và tốt hơn so với ngày thứ 3 sau phẫu thuật. Phương pháp phẫu thuật, mức độ đau của người bệnh có mối tương quan với vận động của người bệnh sau phẫu thuật

pdf 10 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng vận động của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng vận động của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Thực trạng vận động của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020
61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
to sleep disturbance among patients 
undergoing orthopeadic surgery in Vietnam 
(Unpublished thesis). Burapha University, 
Chonburi, Thailand.
10. Morris B. A., Thorndike F. P., 
Ritterband L. M et al (2015), “Sleep 
disturbance in cancer patients and 
caregivers who contact telephone-based 
help services”, Support Care Cancer, 23: 
1113-1120.
11. Jonas J., Horgas A., Yoon S.J (2011), 
“Use of Complementary and Alternative 
Therapies to Manage Cancer-Related 
Symptoms in Hopitalized Patients”, Journal 
of Undergradute Research, 12(3): 1-7.
12. Hai, M. B (2015), Factors predicting 
quality of sleep among patients afe receiving 
major orthopedic surgery in Hue university 
hospital, (Unpublished thesis). Burapha 
University, Chonburi, Thailand.
13. Jin-Ping-Wang, Su-Pen Lu, Ly-Na 
Guo, Chun-Guang Ren, Zong-Wang-Zhang 
(2019), “Abstract”, Poor Preoperative 
Sleep Quality Is a Risk Factor for Severe 
Postoperative Pain After Breast Cancer 
Surgery.
THỰC TRẠNG VẬN ĐỘNG CỦA NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT KẾT HỢP 
XƯƠNG CHI DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Thùy1b, Phạm Thị Thu Hương2, 
Vũ Mạnh Độ1, Đỗ Thu Tình1b, Nguyễn Thị Dung1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
2Trường Đại học Phenikaa
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng vận động 
của người bệnh và xác định một số yếu tố 
liên quan đến vận động của người bệnh 
sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại 
khoa Chấn thương chỉnh hình – Bỏng, Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối 
tượng nghiên cứu gồm 149 người bệnh 
trên 18 tuổi sau phẫu thuật kết hợp xương 
chi dưới tại khoa Chấn thương chỉnh hình-
Bỏng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. 
Nghiên cứu mô tả trên 149 người bệnh sau 
phẫu thuật. Kết quả: Đa số người bệnh bắt 
đầu tập vận động vào ngày thứ 2 sau phẫu 
thuật. Ngày thứ 3 sau phẫu thuật có 79,2% 
số người bệnh tập vận động đạt yêu cầu 
và khi ra viện số người bệnh tập vận động 
đạt yêu cầu là 92,6%. Nghiên cứu bước 
đầu cho thấy vận động của người bệnh sau 
phẫu thuật mức độ đạt yêu cầu khá cao. 
Kết luận: Khi ra viện đa số người bệnh vận 
động đạt yêu cầu và tốt hơn so với ngày 
thứ 3 sau phẫu thuật. Phương pháp phẫu 
thuật, mức độ đau của người bệnh có mối 
tương quan với vận động của người bệnh 
sau phẫu thuật.
Từ khóa: Vận động, kết hợp xương chi 
dưới, sau phẫu thuật.
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thùy
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 12/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
62
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THE REAL SITUATION OF THE MOBILITY STATUS OF PATIENTS 
AFTER SURGERY COMBINATION OF LOWER LIMB IN THE GENERAL HOSPITAL 
IN NAM DINH IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the patient’s 
motor status and determine the movement-
related factors of the patient after lower limb 
surgery at the Department of Orthopedic 
Trauma - Burns, The general Hospital in 
Nam Đinh in 2020. Method: Research 
subjects include 149 patients after lower 
limb combined surgery at the Department 
of Orthopedic Trauma-Burns, in the 
general Hospital in Nam Dinh. Descriptive 
research on 149 patients after surgery. 
Results: Most patients start to move on 
the 2nd day after surgery. On the 3rd day 
after surgery, 79.2% of the patients had 
satisfactory exercise practice and when 
discharged from the hospital, the number 
of patients with satisfactory exercise was 
92.6%. Initial research shows that the level 
of mobility of patients after surgery is quite 
high, but still 8.4% of patients have not met 
the requirements. Conclusion: When the 
patientsl are discharged from the hospital, 
the majority of patients have satisfactory 
movements and better than the 3rd day 
after surgery. Surgical methods, the 
patient’s pain correlated with the patient’s 
movement after surgery.
Keywords: Movement, lower limb 
combination,after surgery .
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau phẫu thuật kết hợp xương: người 
bệnh sẽ ít nhiều mất cảm giác vận động. 
Để người bệnh sớm có được sự vận động 
bình thường, tránh biến dạng xương: 
người bệnh cần phải tập vận động sau 
phẫu thuật [1]. Vận động sau phẫu thuật là 
quá trình thay đổi cấu trúc cơ, tăng cường 
sức mạnh cơ, ngăn ngừa sự co cơ, ngăn 
chặn hậu quả chức năng lâu dài bằng cách 
bắt đầu vận động trong vòng 2 - 5 ngày 
sau phẫu thuật [1] và thiết lập lại khả năng 
di chuyển, duy trì một tư thế thẳng đứng, 
tăng mức độ phức tạp của các động tác 
[2]. Vận động giúp duy trì sức mạnh cơ bắp 
[3], giảm sự biến dạng trong gãy xương, 
cải thiện đau và sưng [4]. Vận động sớm 
làm giảm các biến chứng sau phẫu thuật 
chẳng hạn như huyết khối, viêm phổi, loét 
do tì đè [5], hạn chế nhiễm trùng vết mổ, 
giúp lưu thông tiêu hóa, ngăn ngừa nhiễm 
trùng tiết niệu, làm giảm mệt mỏi và nôn 
[3]. Vận động sớm ở chi phẫu thuật cải 
thiện khả năng đi lại ở người bệnh gãy 
xương chi dưới [4] và người bệnh sẽ cần 
ít sự trợ giúp hơn để di chuyển [5], giúp 
người bệnh giữ được sự độc lập và tự tin 
bình thường trong sinh hoạt, giúp người 
bệnh cảm thấy khỏe mạnh, cả về tinh thần 
và thể chất, do đó giảm thời gian nằm viện 
[3], người bệnh trở lại làm việc sớm hơn 
[5]. Tập vận động cần thực hiện: ngay 
sau phẫu thuật và tập liên tục mỗi ngày 
[6]. Ngược lại, khi người bệnh không được 
vận động thì kháng insulin tăng, cơ bắp bị 
suy yếu và trọng lượng cơ bắp giảm, suy 
giảm chức năng phổi, gây huyết khối tĩnh 
mạch [7], [8]. Với việc kéo dài thời gian 
nghỉ ngơi tại giường sẽ làm giảm trọng 
lượng cơ thể, giảm canxi, sức mạnh cơ 
bắp, và khả năng tiêu thụ oxy tối đa, nguy 
cơ gây táo bón, xẹp phổi, hạ huyết áp tư 
thế và loãng xương [9].
63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Để có số liệu phục vụ cho công tác 
chăm sóc người bệnh, đề tài: “Đánh giá 
thực trạng vận động của người bệnh sau 
phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định, năm 2020” 
được tiến hành với mục tiêu: Mô tả thực 
trạng vận động của người bệnh và xác định 
một số yếu tố liên quan đến vận động của 
người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương 
chi dưới.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Lựa chọn 
tất cả người bệnh sau phẫu thuật kết hợp 
xương chi dưới đồng ý tham gia nghiên cứu 
tại khoa Chấn thương chỉnh hình – Bỏng 
trong thời gian thu thập số liệu.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Chấn 
thương chỉnh hình – Bỏng, Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Nam Định.
- Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 
1/2020 đến tháng 3/2020.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
mô tả. 
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu: 
Sử dụng phương pháp chọn mẫu toàn bộ, 
nhóm nghiên cứu đã chọn ra 149 người 
bệnh đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu.
2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm 
SPSS 20.0
2.6. Bộ công cụ đánh giá: Công cụ thu 
thập số liệu: Thang điểm đánh giá vận động 
của người bệnh xây dựng dựa trên tài liệu 
hướng dẫn vận động sau phẫu thuật kết 
hợp xương chi dưới của địa điểm nghiên 
cứu, đánh giá hiệu quả vận động sau phẫu 
thuật theo thang điểm đánh giá mức độ 
độc lập chức năng (FIM)[10], thang điểm 
đau rút gọn (BPI) [11]. Bộ câu hỏi gồm 2 
phần:
Phần A: Thông tin chung về đối 
tượng.
Phần B: Chương trình tập vận động 
của người bệnh gồm 2 phần: Phần 1: 
thang điểm đánh giá kỹ thuật thực hành 
tập vận động gồm 13 động tác, 24 bước, 
15 bước dấu *. Đánh giá theo tiêu chí: 
(2) Khi người bệnh thực hiện đủ và 
đúng với tất cả các động tác trong mỗi 
bước và tất cả các bước trong mỗi bài 
tập; (1) khi người bệnh thực hiện đủ tất 
cả các động tác trong mỗi bước nhưng 
chưa đúng về mức độ hay thời gian thực 
hiện theo yêu cầu; (0) khi người bệnh 
không làm hay thực hiện sai 50% động 
tác trong mỗi bước; bài tập đó coi như 
sai khi người bệnh thực hiện sai một 
trong các bước được đánh dấu *, khi đó 
tất cả các bước trong bài tập đều đánh 
giá bằng: 0. Mỗi bài tập vận động được 
đánh giá là đạt yêu cầu khi người bệnh 
thực hiện đúng đủ tất cả các động tác 
có đánh dấu *. Vận động sau phẫu thuật 
của người bệnh đạt yêu cầu khi: người 
bệnh đạt yêu cầu trong mỗi bài tập vận 
động. Phần 2: Thang điểm đánh giá mức 
độ độc lập chức năng (FIM) bao gồm 18 
yếu tố: 13 yếu tố liên quan đến chức 
năng vận động, tự chăm sóc và 5 yếu 
tố liên quan đến chức năng nhận thức. 
Thang điểm đánh giá theo tiêu chí: 7 
điểm: Độc lập hoàn toàn, 6 điểm: Độc 
lập có trợ giúp, 5 điểm: Giám sát, 4 điểm: 
Trợ giúp tối thiểu, 3 điểm: Trợ giúp trung 
bình, 2 điểm: Trợ giúp tối đa, 1 điểm: Trợ 
giúp hoàn toàn. Thang điểm đau rút gọn 
(BPI) gồm 4 câu yêu cầu người bệnh tự 
đánh giá đau của mình tại 4 thời điểm 
khi người bệnh thấy “đau nhiều nhất”, 
“đau ít nhất”, “đau trung bình” và “đau 
hiện tại. Mỗi câu hỏi sử dụng thang điểm 
từ 0 đến 10 để đánh giá, 0 là không đau 
và 10 là đau nhiều.
64
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
55,7 
26,2 
18,1 
75,8 
8,7 
15,4 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Gãy cẳng chân, kết hợp 
xương nẹp vít 
Gãy cổ xương đùi, kết 
hợp xương vít xốp 
Gãy thân xương đùi, kết 
hợp xương đinh nội tủy
Vị trí gãy xương Phương pháp phẫu thuật 
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu trên 149 người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới cho 
thấy nhóm đối tượng trên 60 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (43,6%), tiếp đó là nhóm tuổi 41-60 
tuổi (26,8%), nhóm tuổi 21-40 chiếm 24,2%, thấp nhất là nhóm tuổi 18-20 chiếm 5,4%. 
Người bệnh là nam giới (62,4%) nhiều hơn nữ giới (37,6%). Người bệnh chủ yếu là nông 
dân (42,3%), công nhân chiếm 29,5%, các nghề khác chiếm 16,8% và cán bộ viên chức 
chiếm 11,4%. Trình độ học vấn của người bệnh đa số là trình độ trung học cơ sở (46,3%), 
trình độ trung học phổ thông là 19,5%, trình độ trung cấp trở lên là 17,4% và trình độ tiểu 
học trở xuống là 16,8%.
3.2. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 1. Vị trí gãy xương và phương pháp phẫu thuật
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người bệnh bị gãy xương cẳng chân và 
được phẫu thuật bằng phương pháp kết hợp xương bằng nẹp vít (54,9%).
3.3. Thực trạng vận động của người bệnh sau phẫu thuật
Từ kết quả nghiên cứu, đa số người bệnh bắt đầu được hướng dẫn tập vận động ngay 
từ ngày đầu tiên sau phẫu thuật chiếm 84,6%, ngày thứ 2 sau phẫu thuật chiếm 15,4%. 
Tuy nhiên đa số người bệnh bắt đầu tập vận động từ ngày thứ hai sau phẫu thuật chiếm 
67,8%, chỉ có 24,2% người bệnh bắt đầu tập vào ngày thứ nhất và còn 8,1% người bệnh 
bắt đầu tập vận động vào ngày thứ 3.
Trong 3 ngày đầu sau phẫu thuật người bệnh tập vận động từ trung bình 1,24 ± 0,58 
lần/ngày và thời gian mỗi lần tập vận động trung bình 12,37 ± 4,09 phút/lần. Từ ngày thứ 
4 sau phẫu thuật người bệnh tập vận động trung bình 2,06±0,38 lần/ngày và thời gian mỗi 
lần tập vận động trung bình 16,24 ± 1,85 phút/lần.
Tỷ
 lệ
65
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 1. Thực trạng tập vận động thụ động của người bệnh
Vị trí vận 
động
Thụ động Chủ động
Ngày 3 Ra viện Ngày 3 Ra viện
SL 
(TL %)
SL 
(TL %)
SL 
(TL %)
SL 
(TL %)
Gấp, duỗi 
khớp ngón 
chân
Thực hiện đúng, đủ 122 (81,9) 131 (87,9) 149 (100) 149 (100)
Thực hiện đủ, chưa đúng 27 (18,1) 18 (12,1) 0 0
Thực hiện sai, không làm 0 0 0 0
Xoay khớp 
cổ chân
Thực hiện đúng, đủ 95 (63,8) 118 (79,2) 83 (55,7) 149 (100)
Thực hiện đủ, chưa đúng 38 (25,5) 31 (20,8) 29 (19,5) 0
Thực hiện sai, không làm 16 (10,7) 0 37 (24,8) 0
Gấp, duỗi 
cổ chân
Thực hiện đúng, đủ 95 (63,8) 126 (84,6) 100 (67,1) 149 (100)
Thực hiện đủ, chưa đúng 46 (30,9) 23 (14,4) 35 (23,5) 0
Thực hiện sai, không làm 8 (5,4) 0 14 (9,4) 0
Bài tập 
cơ tứ đầu 
đùi
Thực hiện đúng, đủ 74 (49,7) 142 (95,3)
Thực hiện đủ, chưa đúng 46 (30,9) 7 (4,7)
Thực hiện sai, không làm 46 (30,9) 0
Bài tập cơ 
ụ ngồi và 
cơ mông 
lớn
Thực hiện đúng, đủ 81 (54,4) 141 (94,6)
Thực hiện đủ, chưa đúng 22 (14,8) 8 (5,4)
Thực hiện sai, không làm 46 (30,9) 0
Gấp, duỗi 
khớp gối
Thực hiện đúng, đủ 73 (49,0) 111 (74,5) 93 (62,4)
Thực hiện đủ, chưa đúng 40 (26,8) 26 (17,5) 29 (19,4)
Thực hiện sai, không làm 36 (24,2) 12 (8,1) 27 (18,1)
Dạng, 
khép khớp 
háng
Thực hiện đúng, đủ 113 (75,8) 107 (71,8)
Thực hiện đủ, chưa đúng 31 (20,8) 16 (10,7)
Thực hiện sai, không làm 5 (3,4) 26 (17,4)
Tổng 
điểm
vận động 
trung bình
Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
Ngày 3 25,04 4,79
Ra viện 43,27 5,47
Nhận xét: Theo kết quả nghiên cứu tập vận động thụ động của người bệnh tại hai thời 
điểm ngày thứ 3 và ngày ra viện: Động tác thụ động gấp duỗi ngón chân đa số người bệnh 
thực hiện đúng và đủ (81,9% và 87,9) và người bệnh đều đã tập được chủ động; Ngày thứ 
3 động tác thụ động xoay khớp cổ chân, động tác gấp duỗi khớp cổ chân, động tác gấp duỗi 
khớp gối còn có lần lượt là 10,7% ; 5,4% và còn 24,8% và 9,4% người bệnh còn chưa tập 
chủ động hoặc tập còn sai. Động tác thụ động gấp duỗi khớp gối khi ra viện vẫn còn 8,1% 
người bệnh được tập sai và chủ động còn 18,1% người bệnh tập sai. Động tác thụ động 
dạng khép khớp háng, ở ngày thứ 3 người bệnh chưa thực hiện, tại thời điểm ra viện còn 
3,4% số người bệnh chưa tập và 17,4% người bệnh tập chủ động sai hoặc chưa tập.Tại thời 
điểm ra viện người bệnh có tổng trung bình vận động cao hơn ngày thứ 3 sau phẫu thuật.
66
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Mức độ vận động sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới (n=149)
Vị trí vận 
động
Thụ động Chủ động
Ngày 3 Ra viện Ngày 3 Ra viện
Đạt 
SL 
(TL %)
Không 
đạt
SL 
(TL %)
Đạt
SL 
(TL %)
Không 
đạt
SL 
(TL %)
Đạt
SL 
(TL %)
Không
đạt
SL 
(TL %)
Đạt
SL 
(TL %)
Không 
đạt
SL 
(TL %)
Gấp, duỗi 
khớp ngón 
chân
149
(100) 0
149
(100) 0
149
(100) 0
149
(100) 0
Gấp duỗi cổ 
chân
141
(94,6)
8
(5,4)
149
(100) 0
98
(65,8)
51
(34,2)
149
(100) 0
Xoay khớp cổ 
chân
133
(89,3)
16
(10,7)
149
(100) 0
84
(56,4)
65
(43,6)
149
(100) 0
Gấp, duỗi 
khớp gối
113
(75,8)
36
(24,2)
137
(91,9
12
(8,1)
120
(80,5)
29
(19,5)
Dạng, khép 
khớp háng
144
(96,6)
5
(3,4)
115
(77,2)
34
(22,8)
Bài tập cơ tứ 
đầu đùi
74
(49,7)
75
(50,3)
139
(93,3)
10
(6,7)
Bài tập cơ ụ 
ngồi và 
cơ mông lớn
81
(54,4)
68
(45,6)
141
(94,6)
8
(5,4)
Gấp, duỗi 
khớp gối(tư 
thế nằm)
131
(87,9)
18
(12,1)
Vận động sau 
phẫu thuật
Đạt Không đạt
Ngày 3 118 (79,2) 31 (20,8)
Ra 
viện 138 (92,6) 11 (7,4)
Nhận xét: Tại thời điểm ngày thứ 3 sau phẫu thuật và ra viện: Bài tập thụ động, chủ 
động gấp duỗi khớp ngón chân có 100% số người bệnh đạt mức độ đạt yêu cầu. Bài tập 
thụ động xoay khớp cổ chân và gấp duỗi khớp cổ chân ngày thứ 3 sau phẫu thuật vẫn còn 
10,7% và 5,4% chưa đạt yêu cầu; tập chủ động còn 43,6% và 34,2% chưa đạt yêu cầu 
nhưng khi ra viện 100% số người bệnh đều đã đạt yêu cầu. Bài tập gấp duỗi khớp gối thụ 
động tại cả 2 thời điểm vẫn còn có 24,2% và 8,1% số người bệnh tập chưa đạt yêu cầu; 
khi ra viện còn 31,6% người bệnh tập chưa đạt yêu cầu. Bài tập dạng khép khớp háng thụ 
động tại thời điểm ngày thứ 3 sau phẫu thuật, người bệnh chưa được tập, khi ra viện còn 
3,4% số người bệnh chưa đạt yêu cầu, ra viện còn 22,8% người bệnh tập chủ động chưa 
đạt yêu cầu.Tuy nhiên đa số người bệnh sau phẫu thuật đến khi ra viện đều tập vận động 
đạt mức độ yêu cầu (92,6%).
67
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Thực trạng mức độ độc lập chức năng của người bệnh
Nội dung 
đánh giá
Thời điểm 
đánh giá Phạm vi Trung bình
Mức độ độc lập 
trung bình
FIM
Ngày 3 65,00 – 96,00 83,89 ± 7,89 4,66±0,43
Ra viện 70,00 – 107,00 93,53± 9,15 5,19±0,50
Tự chăm sóc
Ngày 3 14,00 – 27,00 22,71 ± 3,45 3,78±0,57
Ra viện 17,00 – 33,00 28,04 ± 3,73 4,67±0,62
Kiểm soát cơ 
tròn
Ngày 3 8,00 -14,00 10,41 ± 1,85 5,21±0,92
Ra viện 8,00 – 14,00 11,07 ± 2,01 5,54±1,01
Vận động
Ngày 3 5,00 – 14,00 8,96 ± 2,91 1,79±0,58
Ra viện 5,00 – 18,00 12,62± 4,22 2,52±8,84
Nhận thức
Ngày 3 31,00 – 35,00 34,79 ± 0,78 6,95±0,16
Ra viện 31,00 – 35,00 34,79 ± 0,79 6,96±0,16
Nhận xét: Theo kết quả nghiên cứu ở hai thời điểm ngày thứ 3 và trước khi ra viện 
của người bệnh: tổng điểm FIM trung bình là 83,89 ± 7,89 và 93,54 ± 9,15, mức độ độc 
lập trung bình lần lượt là 4,66±0,44 và 5,19±0,51; tổng điểm vận động trung bình là 8,96 
± 2,91và 12,62 ± 4,22, mức độ độc lập trung bình lần lượt là 1,79±0,583 và 2,52±8,84.
Bảng 4. Thực trạng đau của người bệnh
Mức độ đau Thời điểm đánh giá Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
Đau nhất
Ngày 3 6,12 0,646
Ra viện 4,35 0,625
Đau trung bình
Ngày 3 4,45 0,702
Ra viện 2,83 0,612
Đau nhẹ nhất
Ngày 3 3,32 0,648
Ra viện 2,34 0,665
Ngay lúc này
Ngày 3 5,15 1,012
Ra viện 2,19 0,562
Tổng điểm đau 
trung bình
Ngày 3 19,04 2,214
Ra viện 11,70 1,749
Nhận xét: Theo kết quả nghiên cứu cho thấy tại 2 thời điểm nghiên cứu ngày thứ 3 và 
trước khi ra viện: Tổng điểm đau trung bình là 19,04 ± 2,214 và 11,70 ± 1,749; Mức độ đau 
nhất 6,12 ± 0,646 và 4,35 ± 0,625; mức độ đau trung bình 4,45 ± 0,702 và 2,83 ± 0,612; 
mức độ đau nhẹ nhất 3,32 ± 0,648 và 2,34± 0,665 ; mức độ đau tại thời điểm đánh giá là 
5,15 ± 1,012 và 2,19 ± 0,562.
68
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.4 Mối tương quan giữa phương pháp phẫu thuật, mức độ đau và vận động của 
người bệnh
Bảng 5. Mối tương quan giữa phương pháp phẫu thuật 
và vận động sau phẫu thuật.
Phương pháp phẫu thuật Mean (SD) P
Ngày thứ 3
KHX bằng nẹp vít (1) 12,83 (2,26) p1-2=0,046 
p2-3=0,001
p1-3=0,018
KHX bằng đinh nội tủy (2) 12,35 (2,19)
KHX bằng vít xốp (3) 10,67 (2,91)
Ra viện
KHX bằng nẹp vít (1) 21,88 (2,61) p1-2 = 0,029
 p2-3 =0,001
p1-3 =0,01
KHX bằng đinh nội tủy (2) 23,04 (3,82)
KHX bằng vít xốp (3) 18,50 (3,04)
ANOVA Test
Nhận xét: Theo kết quả nghiên cứu, có sự tương quan giữa phương pháp phẫu thuật 
với tổng điểm vận động trung bình sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới; hệ số tương 
quan này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (kiểm định ANOVA Test). Ngày thứ 3 sau phẫu 
thuật, người bệnh phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vít có tổng điểm vận động trung 
bình cao hơn; Tuy nhiên tại thời điểm ra viện người bệnh kết hợp xương bằng đinh nội tủy 
có tổng điểm vận động cao hơn (P1: tương quan giữa phương pháp kết hợp xương bằng 
nẹp vít và đinh nội tủy, P2: tương quan giữa phương pháp kết hợp xương đinh nội tủy và 
vít xốp, P3: giữa nẹp vít và vít xốp) 
Bảng 6. Mối tương quan giữa tổng điểm đau và vận động sau phẫu thuật.
Thời gian r p
Ngày thứ 3 -0,934 0,024
Ra viện -0,659 0,032
(r) Spearman correlation
Nhận xét: Từ kết quả nghiên cứu cho thấy có sự tương quan giữa tổng điểm đau với 
tổng điểm vận động trung bình sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới, là tương quan 
nghịch, tương quan mạnh và hệ số tương quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (kiểm 
định Spearman correlation).
4. BÀN LUẬN
Người bệnh được hướng dẫn tập vận 
động ngay từ ngày đầu tiên sau phẫu thuật 
chiếm 84,6%, tuy nhiên chỉ có 24,2% người 
bệnh bắt đầu tập vận động và đa số người 
bệnh bắt đầu tập vận động từ ngày thứ hai 
sau phẫu thuật (67,8%); có sự khác biệt 
với nghiên cứu của Eda Dolgun và cộng sự 
(2017) có 84,7% (n = 111) người bệnh được 
vận động ngay từ ngày đầu sau phẫu thuật 
[2]. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả 
trên là do thời điểm nghiên cứu số lượng 
người bệnh vào viện đông, do sự thiếu hụt 
về nguồn nhân lực y tế và người bệnh đau 
nhiều nhất trong 3 ngày đầu sau phẫu thuật 
[12], người bệnh chưa tỉnh hoàn toàn, mệt 
mỏi kiệt sức sau phẫu thuật, người nhà còn 
nhiều khó khăn trong quá trình chăm sóc 
người bệnh ngày đầu sau phẫu thuật. 
69
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Trong 3 ngày đầu sau phẫu thuật người 
bệnh tập vận động trung bình 1,24 ± 0,58 
lần/ngày và trung bình 12,37 ± 4,09 phút/
lần. Từ ngày thứ 4 sau phẫu thuật người 
bệnh tập vận động trung bình 2,06±0,38 
lần/ngày và trung bình 16,24 ± 1,85 phút/
lần. Điều này có thể được lý giải rằng, giai 
đoạn 3 ngày đầu sau phẫu thuật do thời 
gian cuộc phẫu thuật kéo dài, các mô bị 
tổn thương bởi phẫu thuật, tổn thương về 
mặt giải phẫu của xương do tai nạn, ngoài 
ra do đa số trường hợp người bệnh phẫu 
thuật cấp cứu nên người bệnh mệt mỏi, 
đau nhiều hơn quá trình này sẽ giảm dần 
vào các ngày sau đó khi người bệnh được 
điều trị và chăm sóc y tế [13]. Từ ngày thứ 
4 sau phẫu thuật người bệnh tập vận động 
nhiều hơn cả về số lần tập và thời gian tập 
là do người bệnh đã được rút các ống dẫn 
lưu, đỡ đau hơn, mức độ sưng nề chi giảm 
dần, ăn uống tốt hơn, người nhà cũng 
quen dần với việc chăm sóc người bệnh 
sau phẫu thuật do đó dễ dàng hơn cho 
việc hỗ trợ người bệnh trong quá trình tập 
vận động. Khi ra viện, ở động tác gấp duỗi 
ngón chận xoay khớp cổ chân, gấp duỗi 
khớp cổ chân, người bệnh có tỉ lệ người 
bệnh tập đúng đủ thấp hơn so với tập chủ 
động. Tuy nhiên khi ra viện đa số người 
bệnh tập vận động đạt yêu cầu (92,6%). Là 
do trong thời gian nằm viện, để tăng cường 
sự linh hoạt của các khớp người bệnh vẫn 
cần phải tập thụ động cho tất cả các khớp 
và có nhiều người chăm sóc người bệnh 
nên có sự khác biệt về kết quả tập vận 
động thụ động và chủ động tại thời điểm 
ra viện. Trong thời gian nằm viện, mức độ 
độc lập chức năng của người bệnh vẫn ở 
trong mức độ cần người trợ giúp(mức độ 
độc lập trung bình lần lượt là 4,66±0,43 
và 5,19±0,50); đặc biệt là chức năng dịch 
chuyển và di chuyển người bệnh ở mức độ 
cần người trợ giúp hoàn toàn (mức độ độc 
lập trung bình tại 2 thời điểm: 1,79±0,58 và 
2,52±0,88). Là do quá trình liền xương của 
người bệnh đang ở giai đoạn 1 và 2; vết 
mổ chưa lành do đó người bệnh còn đau, 
sưng nề chi nhiều, các phản ứng viêm, các 
phản ứng tại chỗ của quá trình liền xương, 
phản ứng hóa học tại điểm kết hợp xương 
khiến người bệnh hạn chế vận động. 
Tại thời điểm ngày thứ 3 sau phẫu thuật, 
người bệnh phẫu thuật kết hợp xương 
bằng nẹp vít có tổng điểm vận động trung 
bình cao hơn các phương pháp khác; Tuy 
nhiên, tại thời điểm ra viện người bệnh kết 
hợp xương bằng đinh nội tủy có tổng điểm 
vận động trung bình cao hơn; và phương 
pháp phẫu thuật có tương quan với tập 
vận động của người bệnh (p < 0,05, kiểm 
định ANOVA Test). Kết quả như trên là do 
ngày thứ 3 sau phẫu thuật người bệnh kết 
hợp xương bằng nẹp vít có cố định vững 
chắc hơn nên được tập vận động sớm 
hơn so với các phương pháp khác nên 
người bệnh giảm đau, giảm nề nhanh hơn 
nên người bệnh có kết quả tập vận động 
tốt hơn. Tại thời điểm ra viện người bệnh 
kết hợp xương bằng đinh nội tủy lại vận 
động tốt hơn là do kết hợp xương bằng 
đinh nội tủy không phải mở vào ổ gãy, can 
thiệp vào màng xương như phương pháp 
kết hợp xương bằng nẹp vít nên người 
bệnh ít mất máu, không làm tổn thương 
thêm phần mềm và ít nhiễm trùng, sẹo 
mổ nhỏ, nhất là ít đau vết mổ hơn do đó 
người bệnh sớm phục hồi chức năng hơn. 
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, ngày 
thứ 3 sau phẫu thuật người bệnh có mức 
độ đau trung bình (19,04±2,214) cao hơn 
khi ra viện (11,70±1,749). Và mức độ đau 
của người bệnh có tương quan nghịch với 
vận động của người bệnh. Kết quả tương 
đồng với một số nghiên cứu: trong nghiên 
cứu của Eda Dolgun và cộng sự (2017): có 
20,4 % người bệnh không được vận động 
trong ngày đầu tiên do đau dữ dội [2]. Đau 
sau phẫu thuật gãy cổ xương đùi là phổ 
biến và có thể làm chậm phục hồi, hạn chế 
70
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
tham gia phục hồi chức năng [14]; nghiên 
cứu của Münter, và cộng sự (2018), đau 
liên quan đến gãy cổ xương đùi là những 
lý do thường gặp nhất khiến người người 
bệnh không đạt được mức độ vận động 
cơ bản độc lập (> 85%) hoặc không hoàn 
thành đầy đủ liệu pháp vật lý trị liệu theo kế 
hoạch (> 42%) trong cả ba ngày đầu sau 
phẫu thuật [15]. 
5. KẾT LUẬN
92,6% người bệnh tập vận động đạt yêu 
cầu ở thời điểm ra viện. Phương pháp phẫu 
thuật và mức độ đau của người bệnh: có 
tương quan với vận động của người bệnh 
sau phẫu thuật. Việc tập vận động sau 
phẫu thuật có ý nghĩa rất quan trọng đối với 
người bệnh do đó người điều dưỡng cần 
quản lý đau tốt cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alison A. Smith, et al (2018), Initiation 
of the Early Mobility Protocol in Surgical 
and Trauma ICU Patients Department of 
Surgery, Department of Surgery, Tulane 
University School of Medicine July 23, 2018
2. Dolgun, Eda, van Giersbergen, 
MeryemYavuz, and Aslan, Arzu (2017), 
”The Investigation Of Mobilization Times 
Of Patients after Surgery”, Asian Pac. J. 
Health Sci, 2017; 4(1):71-75
3. Oxford, University Hospital, Early 
mobilisation in hospital, NHS Foundation 
Trust.
4. Ngo, Anh D, et al. (2012), ”Road traffic 
related mortality in Vietnam: evidence for 
policy from a national sample mortality 
surveillance system”, BMC public health. 
12(1), p. 561. 
5. Thomas, Vimla and Sridhar, L 
(2013), ”Epidemiologic profile of Road 
traffic accident cases admitted in a tertiary 
care hospital–A retrospective study in 
Hyderabad, Andhra Pradesh”, Int J med 
pharm sci. 3(06), pp. 30-6. 
6. Trường Đại học Điều dưỡng Nam 
Định (2017), Điều dưỡng ngoại khoa, Nhà 
xuất bản giáo dục Việt Nam, tr 130. 
7. Ersoy, Eren and Gündoğdu, Haldun 
(2007), ”Cerrahi sonrası iyileşmenin 
hızlandırılması”, Turkish Journal of Surgery. 
23(1), pp. 035-040.
8. Khan, S, et al. (2009), Guidelines 
for implementation of enhanced recovery 
protocols, Issues in Professional Practice.
9. George R. Vito, D.P.M. (1990), 
Surgical rehabilitation
10. Bộ Y tế (2014), Hướng dẫn quy 
trình kỹ thuật chuyên ngành Phục hồi chức 
năng, ban hành kèm theo QĐ số: 54 /QĐ-
BYT, Hà Nội, ngày 06 tháng 01 năm 2014. 
Tr 65-120.
11. Mai Anh Dũng (2019), Thực trạng 
đau của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp 
xương chi dưới tại khoa Chấn thương Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2019, 
Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, Trường Đại 
học Điều dưỡng Nam Định
12. Nguyen Thi Thu Trang, Thosingha, 
Orapan, and Chanruangvanich, Wallada 
(2017), ”Factors Associated with Recovery 
among Patients after Abdominal Surgery”. 
J NURS SCI,Vol 35
13. Phạm Thị Minh Đức (2006), Sinh lý 
đau, NXB Y học, Hà Nội, tr. 21-22 
14. Australian Commission on Safety and 
Quality in Health Care (2016), Hip Fracture 
Care Clinical Care Standard, pp.15
15. Münter, Kristine H, et al. (2018), 
”Fatigue and pain limit independent mobility 
and physiotherapy after hip fracture 
surgery”, Disability and rehabilitation. 
40(15), pp. 1808-1816.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_van_dong_cua_nguoi_benh_sau_phau_thuat_ket_hop_xu.pdf