Thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái, năm 2016
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái từ tháng 12/2015 đến tháng 5/2016.
Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích trên 96 trường hợp vận chuyển cấp cứu
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái, năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái, năm 2016
81 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG SỐ 39- Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỰC TRẠNG VẬN CHUYỂN AN TOÀN Ở CÁC TRƯỜNG HỢP VẬN CHUYỂN CẤP CỨU BỆNH NHI TỪ Y TẾ TUYẾN XÃ, TUYẾN HUYỆN ĐẾN BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH YÊN BÁI, NĂM 2016 Đỗ Mạnh Hùng1, Lê Thanh Hải1, Phạm Ngọc Toàn1 1. Bệnh viện Nhi Trung ương. Tác giả: Đỗ Mạnh Hùng. ĐT: 0913.304.075 - Email: [email protected] Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 23/03/2017 Ngày duyệt đăng: 10/05/2017 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái từ tháng 12/2015 đến tháng 5/2016. Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích trên 96 trường hợp vận chuyển cấp cứu. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy vận chuyển không an toàn 48,96%%; vận chuyển an toàn 51,04%, một số nguy cơ không an toàn trong vận chuyển cấp cứu nhi như sau: - Đặc điểm nhân khẩu học: Nhóm ≤ 1 tuổi so >1 tuổi OR = 4,77 (95%CI 1,91-11,95), p<0,001; nhóm sơ sinh so với nhóm >1 tháng tuổi OR = 5,57 (95%CI 1,13-27,31), p=0,026. - Nhóm tiền sử đẻ non so với nhóm bình thường OR=9,85 (95%CI 1,18-82,14), p=0,0145. - Các yếu tố trước vận chuyển: Nhóm chuyển viện do bệnh nặng so với ý kiến của gia đình, OR=3,32 (95%CI 1,23-8,94); khoảng cách >30km so với <30km, OR=3,14 (95%CI 1,35-7,30), p=0,0069; không được ổn định trước vận chuyển so với ổn định trước vận chuyển OR= 4,13 (95%CI 1,36-12,51), p=0,0088. Từ khóa: Vận chuyển an toàn, tiền sử đẻ non, trước vận chuyển. ABSTRACT REALITY OF SAFE PATIENT TRANSPORT IN REFERRAL CASES TRANSPORTED FROM COMMUNE AND DISTRICT MEDICAL CENTERS TO YEN BAI GENERAL HOSPITAL IN 2016 Objective: Evaluate safe patient transport in cases that are transported from commune medical centers and district hospital to Yen Bai general hosptail from December 2015 to May 2016. Method: A cross-sectional study was performed on 96 cases of patient transport. Result: The result shows that unsafe patient transport in 48,96%%; safe transport 51,04%, some risks of unsafe transport as below: - Demographic features: Group≤ 1 year old vs group > 1 year old OR=4,77 (95%CI 1,91-11,95), p<0,001; neonate vs infants above 1 month old OR=5,57 (95%CI 1,13-27,31), p=0,026. - Premature group vs normal group OR = 9,85 (95%CI 1,18-82,14), p = 0,0145. - Factors before transport: Transport due to severity vs transport due to parents’ desire, OR=3,32 (95%CI 1,23-8,94); distance > 30km vs <30km, OR=3,14 (95%CI 1,35-7,30), p=0,0069; unstable condition vs stable condition OR=4,13 (95%CI 1,36-12,51), p=0,0088. Keywords: Safe patient transport, premature, before transport. I. ĐẶT VẤN ĐỀ An toàn trong vận chuyển cấp cứu là không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra lúc chuyển viện [1][2][3]. Theo Lê Thanh Hải, hầu hết các trường hợp vận chuyển cấp cứu là không an toàn: không liên hệ trước khi chuyển, cán bộ y tế vận chuyển còn thiếu về số lượng, kiến thức thực hành cấp cứu nhi khoa thiếu, trang thiết bị cấp cứu trên xe cứu thương chưa đầy đủ, còn để bệnh nhân tử vong trên đường vận chuyển và đến khoa cấp cứu trong tình trạng các dấu hiệu sống không ổn định [3]. Theo Hoàng Trọng Kim và cộng sự kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Nhi đồng I, 72,2% chuyển viện an toàn (không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra lúc chuyển viện); 27,8% chuyển viện không an toàn [2]. Nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương của Lê Bá Tuần và cộng sự (2015) cũng cho thấy tỷ lệ vận chuyển không an toàn là 34,6%. [1] Vận chuyển không an toàn là yếu tố nguy cơ gây ra các trường hợp tử SỐ 39 - Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn82 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE vong trong 24 giờ đầu nhập viện và các trường hợp biến chứng theo các nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Nhi Đồng I [1][2]. Yên Bái là tỉnh cách thủ đô Hà Nội khoảng 150km, là tỉnh miền núi nên khoảng cách từ trạm y tế xã đến các bệnh viện tuyến huyện và lên bệnh viện tuyến tỉnh khá xa do đó hệ thống y tế còn gặp nhiều khó khăn, quá trình vận chuyển cấp cứu gặp nhiều rủi ro do quãng đường xa. Yên Bái là tỉnh nghèo, trang thiết bị, nhân lực trong vận chuyển cấp cứu nhi còn hạn chế, do vậy quá trình vận chuyển có thể xảy ra các biến cố có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng bệnh nhân. Nhằm tìm hiểu thực trạng tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu, qua đó tìm ra các đề xuất can thiệp hiệu quả, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng vận chuyển an toàn ở các trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái năm 2016” II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG NGHIÊN CỨU Thời gian, địa điểm: Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 12/2015 - tháng 5/2016 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái. Đối tượng nghiên cứu: - Tất cả các bệnh nhi nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp cứu từ các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh đến khoa cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái. - Cán bộ y tế tham gia vận chuyển: Là bác sỹ, điều dưỡng viên, hoặc nữ hộ sinh; Có giấy tờ hợp lệ chứng minh là vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các các cở y tế Trung tâm y tế, bệnh viện huyện. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát mô tả cắt ngang có phân tích, nghiên cứu định lượng. Cỡ mẫu nghiên cứu Z2 (1-α/2) x p (1-p)*N n = --------------------------------- d2 (N-1) + Z2 (1-α/2) x p (1-p) N = 1032: Kích thước quần thể nghiên cứu tham khảo trong 6 tháng trước thời điểm nghiên cứu có 1.032 trường hợp dưới 18 tuổi cấp cứu tại bệnh viện. p = 34,6% = 0,346 là tỷ lệ vận chuyển không an toàn, tham khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013 [1]. Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z). d = 0,1 là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,1. n = 81: Cỡ mẫu cần nghiên cứu là 81 trường hợp, thực tế chúng tôi thu thập được 96 trường hợp cấp cứu. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Biểu 1.Tỷ lệ an toàn của vận chuyển cấp cứu An toàn, 51.04 Không an toàn, 48.96 Kết quả nghiên cứu có 47 trường hợp vận chuyển không an toàn chiếm tỷ lệ 48,96%, số vận chuyển an toàn là 49 bệnh nhi chiếm 51,04%. Bảng 1. Tính an toàn vận chuyển cấp cứu theo đặc điểm nhân khẩu học Phân loại An toàn vận chuyển p OR (95%CI) Không An toàn SL TL SL TL Tuổi ≤ 1 tuổi 38 80,85 23 46,94 <0,001 4,77 (1,91-11,95)> 1 tuổi 9 19,15 26 53,06 Sơ sinh Có 9 19,15 2 4,08 0,026* 5,57 (1,13-27,31)Không 38 80,85 47 95,92 Giới tính Nam 32 68,09 26 53,06 0,1324 1,89 (0,82-4,33)Nữ 15 31,91 23 46,94 Dân tộc Khác 11 23,40 6 12,24 0,1522 2,19 (0,74-6,51)Kinh 36 76,60 43 87,76 TỔNG 47 100,00 49 100,00 (Kiểm định Fisher’s exact) 83 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG SỐ 39- Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Kết quả nghiên cứu cho thấy các đặc điểm tuổi, trẻ sơ sinh, trẻ có tiền sử đẻ non, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với an toàn trong vận chuyển cấp cứu (p<0,05). Như vây tiền sử đẻ non có ảnh hưởng đến tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu nhi (p<0,05), trong khi nhẹ cân sau sinh không ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển cấp cứu nhi (p>0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy lý do chuyển tuyến, khoảng cách vận chuyển, và sự ổn định trước vận chuyển ảnh hưởng đến an toàn trong vận chuyển cấp cứu (p<0,05). IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ vận chuyển không an toàn Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ kệ vận chuyển không an toàn chiếm tỷ lệ 48,96%%, số vận chuyển an toàn chiếm 51,04%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Lê Bá Tuấn ở các trường hợp cấp cứu nhi khoa từ tuyến dưới lên BV Nhi Trung ương, trong đó vận chuyển không an toàn chiếm tỷ lệ 34,6%, số vận chuyển an toàn chiếm 65,4% [1]. Mặc dù vậy, nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn khi so sánh với kết quả nghiên cứu của Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] tại Bệnh viện Nhi đồng I đối với các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu trên 701 bệnh nhi từ tháng 3.2001 đến tháng 2.2004 cho thấy có 506 trường hợp chiếm 72,2% chuyển viện an toàn (không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra lúc chuyển viện), có 195 trường hợp chiếm 27,8% chuyển viện không an toàn. Theo Lê Thanh Hải và cộng sự [3] đánh giá 2 đợt, đợt 1 tháng 11/2007-3/2008, đợt 2 từ tháng 8/2009- 1/2010 đã đưa ra nhận định là hầu hết các trường hợp vận chuyển từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu BV Nhi Trung ương là không an toàn: Không liên hệ trước khi chuyển, cán bộ y tế vận chuyển còn thiếu về số lượng, kiến thức thực hành cấp cứu nhi khoa thiếu, trang thiết bị cấp cứu trên xe cứu thương chưa đầy đủ, còn để bệnh nhân tử vong trên đường vận chuyển và đến khoa cấp cứu trong tình trạng các dấu hiệu sống không ổn định. Thực tế vận chuyển cấp cứu không an toàn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhân lực vận chuyển, trang thiết bị Bảng 3.7. Tính an toàn vận chuyển cấp cứu theo tiền sử bệnh nhi Bảng 2. Tính an toàn vận chuyển cấp cứu theo yếu tố trước vận chuyển Phân loại An toàn vận chuyển p OR (95%CI) Không An toàn SL TL SL TL Tiền sử đẻ non Có 8 17,02 1 2,04 0,0145* 9,85 (1,18-82,14)Không 39 82,98 48 97,96 Nhẹ cân sau sinh Có 6 12,77 2 4,08 0,1547* 3,44 (0,66-17,98)Không 41 87,23 47 95,92 TỔNG 47 100,00 49 100,00 (Kiểm định Fisher’s exact) Phân loại An toàn vận chuyển p OR (95%CI) Không An toàn SL TL SL TL Lý do chuyển tuyến Bệnh nặng 40 85,11 31 63,27 0,0148 9,85 (1,18-82,14)Ý kiến GĐ 7 14,89 18 36,73 Khoảng cách vận chuyển >30km 33 70,21 21 42,86 0,0069 3,44 (0,66-17,98)< 30km 14 29,79 28 57,14 Ổn định trước vận chuyển Không 15 31,91 5 10,20 0,0088 4,13 (1,36-12,51)Có 32 68,09 44 89,80 TỔNG 47 100 49 100 (Kiểm định Fisher’s exact) SỐ 39 - Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn84 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE và tình trạng sức khỏe của bệnh nhi. Trong khi đó, hầu hết các bệnh nhi khi chuyển tuyến là những bệnh nhi mà các bệnh viện tuyến dưới không có đủ trang thiết bị, kỹ thuật điều trị hoặc người thân của bệnh nhi không tin tưởng. Đặc biệt là tỉnh Yên Bái là tỉnh còn nghèo, đây là tỉnh có nhiều nơi ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn. Nhất là đối với một số đồng bào dân tộc thiểu số trên các địa bàn như huyện Mù Căng Trải. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cần có sự giảm thiểu tỷ lệ vận chuyển không an toàn. Ảnh hưởng đặc điểm BN đến tính an toàn VCCC: Trong nghiên cứu của chúng tôi các yếu tố tuổi, trẻ sơ sinh tiền sử đẻ non có ảnh hưởng đến vận chuyển an toàn trong cấp cứu (p<0,001). Trong đó trẻ dưới 1 tuổi nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 4,77 lần so với trẻ trên 1 tuổi (95%CI 1,91-11,95), trẻ sơ sinh có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 5,57 lần so với trẻ trên 1 tháng tuổi (95%CI 1,13-27,31), tiền sử đẻ non có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 9,85 (1,18-82,14). Mặc dù vậy các yếu tố giới tính, dân tộc nhẹ cân sau sinh không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với VCCC không an toàn ở bệnh nhi. Nghiên cứu của chúng tôi tương tự khi so sánh với Lê Bá Tuấn ở các trường hợp cấp cứu đến Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy yếu tố thuộc về đặc điểm cá nhân của trẻ ảnh hưởng đến vận chuyển không an toàn là tuổi, trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh, địa dư (p < 0,05). Các yếu tố giới tính, tiền sử đẻ non không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi [1]. Cũng theo Lê Bá Tuấn nguy cơ vận chuyển chuyển tuyến không an toàn từ dưới 1 tuổi (tỷ lệ 39,5%) cao gấp 1,80 lần trẻ trên 1 tuổi (tỷ lệ 25,7%); nguy cơ chuyển tuyến không an toàn ở nhóm trẻ sơ sinh (tỷ lệ 84,1%) cao gấp 13,14 lần trẻ không phải là sơ sinh (tỷ lệ 28,7%); Nguy cơ vận chuyển không an toàn ở nhóm trẻ có tiền sử nhẹ cân sau sinh (tỷ lệ 56,3%) cao gấp 2,63 lần nhóm trẻ không nhẹ cân sau sinh [1]. Tương tự nghiên cứu về chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng I của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự cũng cho thấy chuyển viện không an toàn ở lứa tuổi dưới 1 tuổi chiếm 35,7%, chuyển viện trên 1 tuổi không an toàn là 20,5%; OR = 2.14, p < 0,001 [2]. Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy để tăng tỷ lệ vận chuyển an toàn, giảm tỷ lệ vận chuyển không an toàn thì cần thiết trong việc can thiệp đặc biệt là các nhóm đối tượng dưới 1 tuổi đặc biệt là trẻ sơ sinh, nhẹ cân sau sinh. Để trẻ sơ sinh có sức khỏe tốt, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong thì cần phải can thiệp trước, trong và sau sinh, mặt khác cần đảm bảo các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại tuyến y tế cơ sở, đầu tư các khoa sản tuyến tỉnh. Các đơn vị cần cứu cần có các trang thiết bị như máy ủ ấm, lồng ấp, các thiết bị hỗ trợ hô hấp, dịch truyền phù hợp với trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 tuổi. Ảnh hưởng yếu tố trước vận chuyển đến an toàn VCCC: Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lý do chuyển tuyến, khoảng cách vận chuyển, và sự ổn định trước vận chuyển ảnh hưởng đến an toàn trong VCCC (p<0,05). Nguy cơ vận chuyển do bệnh nhân nặng cao gấp 3,32 lần so với ý kiến gia đình (95%CI 1,23-8,94), nguy cơ vận chuyển không an toàn với khoảng cách từ trên 30km cao gấp 3,14 lần so với dưới 30km (95%CI 1,35-7,30); bệnh nhi không được ổn định trước vận chuyển có nguy cơ vận chuyển không an toàn cao gấp 4,13 lần bệnh nhi được ổn định trước vận chuyển (95%CI 1,36-12,51). Kết quả của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Lê Bá Tuấn nguy cơ vận chuyển không an toàn ở nhóm trẻ thời gian vận chuyển từ 3 giờ trở lên (tỷ lệ 43,1%) cao gấp 1,76 lần nhóm trẻ thời gian vận chuyển dưới 3 giờ (tỷ lệ 30,1%); Nguy cơ vận chuyển không an toàn ở nhóm trẻ không được ổn định trước khi chuyển (tỷ lệ 80,6%) cao gấp 16,43 lần nhóm trẻ ổn định trước khi vận chuyển [1]. Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] cũng cho thấy chuyển viện không an toàn ở lứa tuổi dưới 1 tuổi chiếm 35,7%, chuyển viện trên 1 tuổi không an toàn là 20,5%; OR = 2.14, p < 0,001. Chuyển viện không an toàn ở các tỉnh ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh chiếm 30,3%; nội thành chiếm 21,6%; OR = 1,57, p = 0,01; chuyển viện không an toàn do vượt quá khả năng CSYT chiếm 29,6% so với tỷ lệ không an toàn do gia đình xin chuyển chiếm 2,17%, OR = 1,52, p = 0,03. Vận chuyển bệnh an toàn nhân ở nhóm bệnh nhân không ổn định là 77,4% so với nhóm bệnh nhân ổn định là 12,2%; OR = 24,6; p < 0,001 [2]. Như vậy, khi vậy chuyển cấp cứu cần quan tâm đến khoảng cách vận chuyển, tình trạng bệnh nhi và cần ổn định bệnh nhi trước vận chuyển. Điều đó sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu an toàn khi vận chuyển và giảm tử vong ở trẻ. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 96 trường hợp vận chuyển cấp cứu bệnh nhi từ y tế tuyến xã, tuyến huyện đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vận chuyển không an toàn 48,96%; vận chuyển an toàn 51,04%, các yếu tố là nguy cơ vận chuyển không
File đính kèm:
thuc_trang_van_chuyen_an_toan_o_cac_truong_hop_van_chuyen_ca.pdf

