Thực trạng và tai biến truyền máu sớm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và tai biến truyền máu tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 825 bệnh nhi với 2309 lượt truyền máu. Kết quả: Có 5 loại chế phẩm máu đã được truyền với tổng thể tích 308.295 ml, khối hồng cầu là chế phẩm được sử dụng nhiều nhất với 227.260 ml (73,72). Tất cả chế phẩm máu đều có nhóm máu Rh (+). Nhóm máu O gặp nhiều nhất (348/825). Thalassemia là bệnh được truyền máu nhiều nhất với 145.370 ml (47,15%). Tỷ lệ tai biến truyền máu sớm là 2,25% (52/2.309), trong đó sốt: 59,62% (31/52); mẩn ngứa: 38,46% (20/52); sốc: 1,92% (1/52). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tai biến xảy ra khi truyền khối hồng cầu, khối tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh. Nhóm tuổi 6-10 gặp tai biến nhiều nhất (21/52). Không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa nam và nữ. Tai biến xảy ra nhiều nhất ở bệnh nhi truyền máu trên 2 lần: 84,62% (44/52). Kết luận: Khối hồng cầu được sử dụng nhiều nhất. Tất cả chế phẩm máu đều có nhóm máu Rh (+). Nhóm máu O được truyền nhiều nhất. Thalassemia là nguyên nhân hàng đầu trong truyền máu. Nhóm tuổi 6-10 có số ca tai biến nhiều nhất. Sốt là tai biến thường gặp nhất. Tai biến xảy ra khi truyền khối hồng cầu, khối tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh. Bệnh nhi được truyền máu trên 2 lần có tỉ lệ tai biến cao hơn

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và tai biến truyền máu sớm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và tai biến truyền máu sớm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng

Thực trạng và tai biến truyền máu sớm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng
170
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THỰC TRẠNG VÀ TAI BIẾN TRUYỀN MÁU SỚM
TẠI BỆNH VIỆN TRẺ EM HẢI PHÒNG
 Nguyễn Ngọc Sáng1, Hoàng Bảo Ngọc Cương1, 
Phạm Thị Hường3, Nguyễn Thị Hương Liễu2
1Đại học Y dược Hải Phòng,
2Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng
3Bệnh viện Mộc Châu - Sơn La
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và tai biến 
truyền máu tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 825 bệnh 
nhi với 2309 lượt truyền máu. Kết quả: Có 
5 loại chế phẩm máu đã được truyền với 
tổng thể tích 308.295 ml, khối hồng cầu 
là chế phẩm được sử dụng nhiều nhất với 
227.260 ml (73,72). Tất cả chế phẩm máu 
đều có nhóm máu Rh (+). Nhóm máu O gặp 
nhiều nhất (348/825). Thalassemia là bệnh 
được truyền máu nhiều nhất với 145.370 
ml (47,15%). Tỷ lệ tai biến truyền máu sớm 
là 2,25% (52/2.309), trong đó sốt: 59,62% 
(31/52); mẩn ngứa: 38,46% (20/52); sốc: 
1,92% (1/52). Không có sự khác biệt về tỷ 
lệ tai biến xảy ra khi truyền khối hồng cầu, 
khối tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh. 
Nhóm tuổi 6-10 gặp tai biến nhiều nhất 
(21/52). Không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa 
nam và nữ. Tai biến xảy ra nhiều nhất ở 
bệnh nhi truyền máu trên 2 lần: 84,62% 
(44/52). Kết luận: Khối hồng cầu được sử 
dụng nhiều nhất. Tất cả chế phẩm máu đều 
có nhóm máu Rh (+). Nhóm máu O được 
truyền nhiều nhất. Thalassemia là nguyên 
nhân hàng đầu trong truyền máu. Nhóm 
tuổi 6-10 có số ca tai biến nhiều nhất. Sốt là 
tai biến thường gặp nhất. Tai biến xảy ra khi 
truyền khối hồng cầu, khối tiểu cầu, huyết 
tương tươi đông lạnh. Bệnh nhi được truyền 
máu trên 2 lần có tỉ lệ tai biến cao hơn. 
Từ khóa: Truyền máu, tai biến truyền 
máu, trẻ em.
SITUATION AND EARLY COMPLICATIONS
 OF BLOOD TRANSFUSIONS AT HAIPHONG CHILDREN’S HOSPITAL 
ABSTRACT
Objective: To describe the situation 
and complications of blood transfusions 
at Haiphong Children’s Hospital. Method: 
Descriptive cross-sectional study 
including 825 patients with 2,309 blood 
transfusions. Results: There were 5 types 
of blood products transmitted, using red 
blood cells had the highest percentage 
with 73.72% (227,260ml); there was no 
case of whole blood transfusion. All blood 
products were Rh(+). Patients with blood 
type O had the highest number (348/825). 
Thalassemia was the leading cause of 
blood transfusions with a total of 145.370 
ml of blood products (47.15%). The 
rate of early complications was 2.25% 
(52/2,309), as follows: fever 59.62% 
(31/52). allergies 38.46% (20/52), shock 
1.92% (1/52). Complications occured in 
red blood cell, fresh frozen plasma, and 
platelet transfusions. The age group of 
6 to 10 years had the highest number 
of transfusion complication cases 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Ngọc Sáng
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 09/10/2020
Ngày duyệt bài: 22/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
171
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
(21/52). There was no difference in 
complications between male and female. 
Patients receiving blood transfusions 
more than twice had the higher rate of 
blood transfusion complications (44/52). 
Conclusion: Red blood cells were the 
most used product. All transfused blood 
products were Rh (+). Patients with O 
blood group were the most common. 
Thalassemia was the leading cause of 
blood transfusions. The age group from 6 
to 10 years old had the highest number of 
complication cases. Fever was the most 
common reaction. Complications occured 
in red blood cell, fresh frozen plasma, and 
platelet transfusions. Blood transfusion 
complications occur more often in patients 
receiving blood transfusions before. 
Keywords: Blood transfusions, blood 
transfusion complication, children.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền máu đóng vai trò hết sức to lớn 
trong công tác điều trị và đã cứu sống được 
nhiều người bệnh. Tuy nhiên, truyền máu 
cũng có thể gây ra các tai biến nguy hiểm, 
lây truyền các bệnh nhiễm trùng [1]. Đồng 
thời công tác dự trù máu cần được tính 
toán chính xác, đảm bảo đáp ứng đủ lượng 
máu cho cấp cứu, điều trị, đạt hiệu quả 
cao, tránh lãng phí [2]. Cho đến nay, chưa 
có nhiều nghiên cứu đánh giá nhu cầu sử 
dụng các chế phẩm máu và tai biến truyền 
máu tại các bệnh viện, đặc biệt là với đối 
tượng trẻ em. Vậy thực trạng truyền máu 
và các tai biến truyền máu tại Bệnh viện Trẻ 
em Hải Phòng là như thế nào là những câu 
hỏi rất cần được giải đáp. Do đó, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục 
tiêu sau:
- Mô tả thực trạng truyền máu tại Bệnh 
viện Trẻ em Hải Phòng từ 01/04/2018 đến 
31/03/2019. 
- Phân tích các tai biến truyền máu sớm 
và một số yếu tố liên quan.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhi được chỉ định truyền 
máu và chế phẩm máu tại Bệnh viện Trẻ 
em Hải Phòng từ 1/4/2018 đến 31/3/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả tiến cứu chọn mẫu theo phương 
pháp thuận tiện.
Thu thập thông tin bệnh nhi về chẩn đoán 
bệnh, nhóm máu hệ ABO và Rh, khoa điều 
trị, loại chế phẩm máu và thể tích sử dụng, 
các tai biến truyền máu xuất hiện trong 
vòng 24 giờ từ khi bắt đầu truyền máu, thời 
điểm xuất hiện, các triệu chứng, diễn biến.
Các xét nghiệm: 
- Kỹ thuật định nhóm máu trong ống 
nghiệm: nhóm máu hệ ABO được xác định 
nhờ sự có mặt của kháng nguyên trên bề 
mặt hồng cầu và kháng thể có trong huyết 
thanh.
- Phản ứng hòa hợp: kiểm tra sự hòa hợp 
giữa máu của người cho với người nhận.
Tính toán, xử lí số liệu: tổng thể tích các 
chế phẩm máu đã dùng, tính thể tích chế 
phẩm máu sử dụng theo các tháng, sử 
dụng chế phẩm máu theo nhóm máu, sử 
dụng chế phẩm máu theo từng nhóm bệnh.
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm 
Excel 2016, R project 3.5.
Nghiên cứu được cho phép bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học 
Trường Đại học Y Dược Hải Phòng, lãnh 
đạo bệnh viện, lãnh đạo các khoa lâm 
sàng, khoa xét nghiệm và phòng kế hoạch 
tổng hợp Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. Mọi 
thông tin thu thập được đảm bảo bí mật 
cho bệnh nhi và chỉ phục vụ cho mục đích 
nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ
3.1. Về thực trạng truyền máu
Trong khoảng thời gian tiến hành nghiên 
cứu, đã có 825 bệnh nhi được chỉ định 
truyền các chế phẩm máu, với tổng cộng 
2.309 lượt truyền.
172
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 1. Các chế phẩm máu đã được 
truyền tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng
Chế phẩm V (ml) TL %
Khối hồng cầu 227.260 73,72
Huyết tương tươi đông 
lạnh 39.945 12,96
Khối tiểu cầu 22.895 7,43
Khối hồng cầu rửa 12.045 3,91
Tủa lạnh yếu tố VIII 6.150 1,99
Tổng 308.295 100
Bảng 1 cho thấy đã có 5 loại chế phẩm 
máu được sử dụng theo thứ tự giảm dần 
về thể tích: khối hồng cầu, huyết tương tươi 
đông lạnh, khối tiểu cầu, khối hồng cầu rửa, 
tủa lạnh yếu tố VIII, không sử dụng máu 
toàn phần
Toàn bộ chế phẩm máu được sử dụng ở 
trên đều có nhóm máu Rh (+). 
Bảng 2. Phân bố truyền máu theo hệ 
nhóm máu ABO
Nhóm 
máu SL (%)
Số 
lượt 
truyền
V (ml)
A 182 (22,06) 488 71.790
B 240 (29,09) 591 70.800
AB 55 (6,67) 220 33.410
O 348 (42,18) 1.010 132.295
Tổng 825 (100) 2.309 308.295
Bảng 2 cho thấy: Trong số 825 bệnh nhi 
đã được truyền máu, bệnh nhi có nhóm 
máu O chiếm số lượng lớn nhất, sau đó 
là nhóm máu B, nhóm máu A và ít nhất là 
nhóm máu AB. Số lượng bệnh nhi nhóm 
máu B nhiều hơn, nhưng tổng thể tích các 
chế phẩm máu nhóm A lại được sử dụng 
nhiều hơn.
- Nguyên nhân gây thiếu máu cần chỉ 
định truyền máu:
Bảng 3. Sử dụng chế phẩm máu 
theo một số nhóm bệnh
Bệnh V (ml) TL %
Thalassemia 145.370 47,15
Rối loạn đông máu 
mạn tính 40.630 13,18
Thiếu máu chưa rõ 
nguyên nhân 21.525 6,98
Bệnh ngoại khoa 18.770 6,09
Thiếu máu ở trẻ sơ 
sinh 17.460 5,66
Xuất huyết nội tạng 14.910 4,84
Xuất huyết giảm 
tiểu cầu 13.060 4,24
Bạch cầu cấp 8.750 2,84
Khác 27.820 9,02
Tổng 308.295 100,00
Bảng 3 cho thấy thiếu máu do tan máu ở 
bệnh nhi Thalassemia là nguyên nhân hàng 
đầu (47,15%). Bên cạnh đó, còn nhiều 
nguyên nhân khác như các rối loạn đông 
máu mạn tính (13,18%), các chấn thương 
ngoại khoa, phẫu thuật (6,09%).
3.2. Về tai biến truyền máu sớm
Bảng 4. Tỷ lệ xuất hiện các tai biến 
truyền máu sớm
Tai biến Số lần xuất hiện TL % p
Sốt 31 59,62
< 0,05Mẩn ngứa 20 38,46
Sốc 1 1,92
Tổng 52 100
Bảng 4 cho thấy trong 2.309 lượt truyền 
máu, có 52 lần xảy ra tai biến (2,52%), ở 52 
bệnh nhi khác nhau. 
Sốt là tai biến thường gặp nhất (59,62%), 
tiếp theo là mẩn ngứa (38,46%), sốc là tai 
biến ít gặp nhất nhưng là tai biến nặng chỉ 
gặp 1 trường hợp (1,92%) nhưng được 
phát hiện và xử trí kịp thời nên bệnh nhi đã 
hồi phục.
173
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 5. Phân bố tai biến truyền máu 
theo chế phẩm máu
Chế phẩm 
máu
Số lần 
xuất hiện 
tai biến
TL % p
Khối hồng cầu
(n = 1166) 31 2,66
> 0,05
Huyết tương 
tươi đông lạnh
(n = 932)
17 1,82
Khối tiểu cầu
(n = 134) 4 2,99
Bảng 5 cho thấy tai biến xảy ra khi truyền 
khối hồng cầu, huyết tương tươi đông lạnh 
và khối tiểu cầu. Sự khác biệt về tỷ lệ tai 
biến giữa 3 chế phẩm này không có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05). Chưa phát hiện trường 
hợp tai biến của 2 chế phẩm khối hồng cầu 
rửa và tủa lạnh yếu tố VIII.
Bảng 6. Phân bố bệnh nhi có tai biến 
truyền máu theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Số ca tai biến TL %
< 2 tháng 0 0
2 đến <24 tháng 2 3,85
2 đến 5 tuổi 20 38,46
6 đến 10 tuổi 21 40,38
11 đến 15 tuổi 9 17,31
Tổng 52 100
Bảng 6 cho thấy: tai biến truyền máu xảy 
ra ở các độ tuổi khác nhau nhưng xảy ra 
nhiều hơn ở độ tuổi 2-5 và 6-10, trong đó 
nhóm trẻ 6-10 tuổi có số ca tai biến nhiều 
nhất, tiếp theo là nhóm trẻ 2-5 tuổi; đặc biệt, 
chúng tôi không phát hiện trường hợp tai 
biến nào ở trẻ dưới 2 tháng tuổi.
- Khi đánh giá tai biến theo giới tính, 
chúng tôi ghi nhận 29 trường hợp tai biến 
ở trẻ nam (55,77%) và 23 trường hợp ở trẻ 
nữ (44,23%), với p > 0,05. Điều đó cho thấy 
tai biến xảy ra ở cả trẻ nam và nữ, không có 
sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ.
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ tai biến ở 
những bệnh nhi được truyền máu nhiều lần 
và 1 lần. Tai biến xảy ra nhiều nhất ở bệnh 
nhi được truyền máu > 2 lần, chiếm 44/52 
ca tai biến (84,62%). Số trường hợp gặp 
tai biến ở ngay lần truyền máu thứ hai là 
7 (13,46%). Trường hợp tai biến xảy ra ở 
lần truyền máu đầu tiên là rất hiếm gặp, chỉ 
xuất hiện 1 lần (1,92%).
4. BÀN LUẬN
4.1. Về thực trạng truyền máu
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu, 
đã có 5 loại chế phẩm máu được sử dụng 
với tổng thể tích là 308.295 ml; trong đó, 
sử dụng khối hồng cầu chiếm tỷ lệ lớn nhất 
(73,72%) (Bảng 1). Kết quả này cũng phù 
hợp với nghiên cứu trước đây của tác giả 
Nguyễn Ngọc Sáng [3] cũng tại Bệnh viện 
Trẻ em Hải Phòng. Việc chỉ định truyền chế 
phẩm máu nào, với thể tích ra sao, phụ 
thuộc vào tình trạng bệnh mắc phải.
Nguyên nhân dẫn đến truyền các chế 
phẩm máu phụ thuộc vào mô hình bệnh tật, 
và có thể thay đổi theo từng địa phương, 
quốc gia, khu vực. Ở Bệnh viện Trẻ em Hải 
Phòng, Thalassemia là nguyên nhân hàng 
đầu (Bảng 3), kết quả của chúng tôi tương 
tự với nghiên cứu trước đây của tác giả 
Nguyễn Ngọc Sáng [3] ở cùng địa điểm. 
Với 145.370 ml chế phẩm máu đã dùng 
trong suốt thời gian nghiên cứu, chiếm đến 
47,15% tổng thể tích các chế phẩm máu, 
công tác dự trù máu phụ thuộc rất nhiều 
vào những trẻ mắc Thalassemia trong khu 
vực. Đáng chú ý là tại bệnh viện Trẻ em Hải 
Phòng, bệnh nhi mắc Thalassemia thường 
đến viện do tan máu từ từ, sau một khoảng 
thời gian, có thể là 2-3 tuần, thậm chí là 
1-2 tháng, họ lại đến viện để được truyền 
máu, phục hồi lượng máu đã mất trong thời 
gian sau lần xuất viện trước đó, bệnh nhi 
và gia đình thường có thể chủ động được 
thời gian đến khám và nhập viện; hiếm gặp 
trường hợp do tan máu cấp tính. Một số 
174
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
nguyên nhân gây mất máu cấp như chấn 
thương, bạch cầu cấp lại chiếm tỷ lệ thấp 
hơn nhiều.
Về phân loại theo hệ nhóm máu Rh, tất 
cả các chế phẩm máu đã dùng trong thời 
gian này đều có nhóm máu Rh (+). Tuy vậy, 
cũng rất cần lưu ý dự trù nhóm máu hiếm 
Rh (-) ngay cả khi người mang nhóm máu 
này ở Việt Nam có tỷ lệ rất thấp.
Về phân loại theo hệ nhóm máu ABO, 
bảng 2 cho thấy: trong số các bệnh nhi được 
truyền máu, bệnh nhi nhóm máu O chiếm tỷ 
lệ lớn nhất (42,18%), sau đó là nhóm máu 
B (29,09%), nhóm máu A (22,06%), và ít 
nhất là nhóm máu AB (6,67%). Tỷ lệ nhóm 
máu hệ ABO này phù hợp với nghiên cứu 
của Bùi Huy Tuấn [4].Tuy nhiên kết quả của 
chúng tôi khác với nghiên cứu của Pereira 
Nigel và cộng sự [5]: nhóm máu A (38,5%) 
chiếm tỷ lệ lớn hơn nhóm máu B (17,0%). 
Điều này cho thấy có sự khác biệt về phân 
bố nhóm máu hệ ABO giữa các khu vực 
trên thế giới. Do đó, để công tác dự trù máu 
theo hệ nhóm máu ABO đạt hiệu quả, cần 
lưu lại thông tin nhóm máu của các bệnh 
nhi được truyền máu trong các năm gần 
đây để có thống kê chính xác nhất.
4.2. Về tai biến truyền máu
Về tỷ lệ tai biến: kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi là 2,25%, thấp hơn nghiên cứu 
trước đây của chúng tôi [3] cũng tại Bệnh 
viện Trẻ em Hải Phòng: qua 175 lượt truyền 
máu và chế phẩm máu, có 20 lần tai biến, 
chiếm tỷ lệ 11,43%, điều này cho thấy rằng 
quá trình truyền máu đang ngày càng an 
toàn hơn. Kết quả của chúng tôi cũng thấp 
hơn so với nghiên cứu của K.K.V Anna và 
cộng sự [6], tỷ lệ tai biến là 3,8%.
Về các biểu hiện của tai biến: sốt là tai 
biến hay gặp, sốc là biểu hiện hiếm gặp, 
kết quả này tương tự với nghiên cứu của 
Nguyễn Ngọc Sáng và Trần Thị Ngọc Hòa 
[3]. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi khác 
với nghiên cứu của Gita Negi và cộng sự 
[7], tai biến thường gặp nhất là mẩn ngứa 
(33,6%), sau đó là sốt (25,7%). Sự khác 
biệt có lẽ đến từ việc trong nghiên cứu này 
có sử dụng nhiều máu toàn phần.
Về mối liên quan giữa các chế phẩm máu 
và tai biến truyền máu: kết quả cho thấy 
trong các chế phẩm máu đã được truyền, 
tai biến chỉ gặp ở khối hồng cầu, khối tiểu 
cầu, huyết tương tươi đông lạnh và không 
có sự khác nhau về tỷ lệ. Kết quả của chúng 
tôi khác với nghiên cứu của K.K.V Anna và 
cộng sự [6], chế phẩm máu có tỷ lệ tai biến 
cao nhất là khối tiểu cầu (2,4%), tiếp theo 
là khối hồng cầu (1,1%), huyết tương tươi 
đông lạnh (0,8%). Nguyên nhân có lẽ do số 
lượt sử dụng khối tiều cầu của chúng tôi 
chưa nhiều.
Về đặc điểm tuổi của bệnh nhi tai biến 
truyền máu: nhóm trẻ 6-10 tuổi có số ca tai 
biến nhiều nhất với 21 lần; tiếp theo là độ 
tuổi 2-5, có 20 lần tai biến; đặc biệt là nhóm 
trẻ dưới 2 tháng tuổi không gặp ca tai biến 
nào. Kết quả của chúng tôi phù hợp với 
nghiên cứu của K.K.V Anna và cộng sự [6] 
[8], nghiên cứu này đã ghi nhận rằng trong 
số 1.226 trẻ em được truyền máu, không có 
trẻ sơ sinh nào gặp tai biến, tai biến thường 
gặp ở trẻ lớn hơn 2 tuổi. Cơ thể trẻ sơ sinh 
chưa sản xuất ra kháng thể kháng hồng 
cầu [4], do đó tai biến truyền máu hiếm khi 
xảy ra ở nhóm trẻ này, kết quả này cần lưu 
ý để đánh giá truyền máu khác nhóm trong 
trường hợp khẩn cấp.
Về phân bố tai biến theo giới tính: kết 
quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu 
của Gita Negi và các cộng sự [7], không 
có bất kì xu hướng giới tính đáng kể nào ở 
những bệnh nhi có tai biến truyền máu.
Về mối liên quan giữa tai biến truyền 
máu và số lần truyền máu: Kết quả của 
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của 
Nguyễn Ngọc Sáng và Trần Thị Ngọc Hòa 
[3], tai biến xảy ra chủ yếu ở bệnh nhi được 
truyền máu nhiều lần. Theo cơ chế miễn 
dịch, sự tương tác giữa hệ thống miễn dịch 
của người bệnh và các kháng nguyên của 
175
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
các chế phẩm máu truyền vào sẽ tạo ra đáp 
ứng miễn dịch, tạo kháng thể và gây ra các 
phản ứng ở các lần truyền máu tiếp theo, 
do đó tỷ lệ tai biến cao hơn ở những bệnh 
nhi được truyền máu nhiều lần.
5. KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu và bàn luận nói 
trên cho phép chúng tôi rút ra nhận xét sau:
- Về thực trạng truyền máu tại Bệnh viện 
Trẻ em Hải Phòng:
+ Khối hồng cầu là chế phẩm máu được 
sử dụng nhiều nhất.
+ Tất cả các chế phẩm máu đều có nhóm 
máu Rh (+).
+ Trong số những bệnh nhi được truyền 
máu, trẻ có nhóm máu O chiếm số lượng 
lớn nhất, sau đó là nhóm máu B, nhóm máu 
A và ít nhất là nhóm máu AB.
+ Thalassemia là nguyên nhân hàng đầu 
trong truyền máu.
- Về tai biến truyền máu:
+ Tai biến truyền máu sớm là 2,25%, 
thường gặp nhất là sốt, tiếp theo là mẩn 
ngứa, sốc là tai biến nặng nhưng ít gặp.
+ Tai biến truyền máu thường xảy ra ở 
các chế phẩm khối hồng cầu, khối tiểu cầu, 
huyết tương tươi đông lạnh.
+ Về tuổi: trẻ từ 6-10 tuổi có số lần tai 
biến nhiều nhất; trẻ dưới 2 tháng tuổi không 
gặp trường hợp nào.
+ Không có sự khác biệt về tỷ lệ tai biến 
truyền máu giữa nam và nữ.
+ Tai biến xảy ra nhiều hơn ở bệnh nhi 
được truyền máu trên 2 lần.
- Cần tập huấn cho các bác sĩ và điều 
dưỡng về phương pháp truyền máu hợp lý, 
an toàn và hiệu quả.
- Cần theo dõi sát người bệnh trong và 
sau quá trình truyền máu để kịp thời phát 
hiện, xử trí các tai biến có thể xảy ra.
- Những nghiên cứu hơn nữa là cần thiết 
về các tai biến truyền máu với cỡ mẫu lớn 
hơn và các tai biến muộn sau truyền máu 
để có phân tích, nhận định chính xác hơn, 
nhằm thực hiện tốt hơn việc dự trù, bảo 
quản, sử dụng các chế phẩm máu đạt hiệu 
quả tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jessica L.Osterman, Sanjay Arora. 
(2017), Blood Product Transfusions and 
Reactions. Hematology/Oncology Clinics 
of North America, Issue 6, December 2017, 
Pages 1159-1170.
2. Transfusion Handbook 5th edition : 
January 2014. Providing safe blood/Blood 
products.
3. Nguyễn Ngọc Sáng, Trần Thị Ngọc 
Hòa (2007), Tai biến xảy ra trong thực hành 
truyền máu và các chế phẩm của máu tại 
khoa Nhi B bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. 
Tạp chí NCYH tập 51, số 4, p. 63-66.
4. Bùi Huy Tuấn (2017), Nghiên cứu tình 
hình sử dụng và tai biến truyền máu, chế 
phẩm máu tại bệnh viện 19 - 8 giai đoạn 
2016 - 2017. Luận văn chuyên khoa II, Đại 
học Y Hà Nội.
5. Pereira N, Patel H.H, Stone L.D, 
Christos P.J, Elias R.T, Spandorfer S.D, 
Rosenwaks Z. Association between ABO 
blood type and live-birth outcomes in 
single-embryo transfer cycles. Fertil Steril. 
2017 Nov;108(5):791-797.
6. Anna K.K.V. PedrosaaI; Francisco 
J.M. Pinto; Luiza D.B. Lins; Grace M. Deus 
(2012), Blood transfusion reactions in 
children: associated factors. J. Pediatr. (Rio 
J.). 2013, vol.89, n.4, pp.400-406.
7. Gita Negi, Dushyant Singh Gaur, 
Rajveer Kaur (2015), Blood transfusion 
safety: A study of adverse reactions at the 
blood bank of a tertiary care center. Adv 
Biomed Res. 2015; 4: 237.
8. Ayede A.I., Akingbola T.S. (2011), 
Pattern, indications and review of 
complications of neonatal blood transfusion 
in Ibadan, southwest Nigeria.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_tai_bien_truyen_mau_som_tai_benh_vien_tre_em_h.pdf