Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Nam Định. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với sự tham gia của 170 điều dưỡng trực tiếp chăm sóc người bệnh tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Tiêu chuẩn lựa chọn các điều dưỡng là người trực tiếp chăm sóc người bệnh tại các khoa lâm sàng của Bệnh viện có thời gian làm việc từ 1 năm trở lên. Đánh giá kiến thức của điều dưỡng về dự phòng nguy cơ người bệnh té ngã bằng bộ công cụ “Fall prevention knowledge tests” của tác giả Patricia C. Dykes (2019). Kết quả: Kiến thức về đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng còn hạn chế. Trong số 170 điều dưỡng được đánh gái, 1,2% điều dưỡng đạt mức độ kiến thức tốt, 75,9% điều dưỡng có mức độ kiến thức kém. Tuổi, thâm niên công tác, cập nhật kiến thức và nhu cầu đào tạo có liên quan đến kiến thức đánh giá nguy cơ té ngã của điều dưỡng. Kết luận: Kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tham gia nghiên cứu rất hạn chế. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cân thiết phải tổ chức các lớp tập huấn liên quan đến dự phòng té ngã cho người bệnh

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020
120
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI 
KIẾN THỨC ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ NGƯỜI BỆNH TÉ NGÃ CỦA ĐIỀU DƯỠNG 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Đinh Thị Thu Hằng1b, Nguyễn Thị Minh Chính1, 
Phạm Thị Bích Ngọc1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Đinh Thị Thu Hằng
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 08/10/2020
Ngày duyệt bài: 12/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định 
một số yếu tố liên quan tới kiến thức đánh 
giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều 
dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Nam 
Định. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với sự 
tham gia của 170 điều dưỡng trực tiếp chăm 
sóc người bệnh tại các khoa lâm sàng Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Tiêu chuẩn lựa 
chọn các điều dưỡng là người trực tiếp chăm 
sóc người bệnh tại các khoa lâm sàng của 
Bệnh viện có thời gian làm việc từ 1 năm trở 
lên. Đánh giá kiến thức của điều dưỡng về 
dự phòng nguy cơ người bệnh té ngã bằng 
bộ công cụ “Fall prevention knowledge 
tests” của tác giả Patricia C. Dykes (2019). 
Kết quả: Kiến thức về đánh giá nguy cơ 
người bệnh té ngã của điều dưỡng còn hạn 
chế. Trong số 170 điều dưỡng được đánh 
gái, 1,2% điều dưỡng đạt mức độ kiến thức 
tốt, 75,9% điều dưỡng có mức độ kiến thức 
kém. Tuổi, thâm niên công tác, cập nhật 
kiến thức và nhu cầu đào tạo có liên quan 
đến kiến thức đánh giá nguy cơ té ngã của 
điều dưỡng. Kết luận: Kiến thức đánh giá 
nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng 
tham gia nghiên cứu rất hạn chế. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy sự cân thiết phải tổ 
chức các lớp tập huấn liên quan đến dự 
phòng té ngã cho người bệnh.
Từ khóa: Đánh giá nguy cơ té ngã, kiến 
thức, yếu tố liên quan.
CURRENT KNOWLEDGE OF ASSESSING PATIENT FALL RISKS AND RELATED 
FACTORS AMONG NURSES IN NAM DINH GENERAL HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the knowledge of 
assessing patient fall risks and to determine 
related factors among nurses in Nam Dinh 
General Hospital in 2020. Method: The 
cross-sectional descriptive study was 
conducted among 170 clinical nurses who 
had been working in Nam Dinh General 
Hospital at least for more than one year. 
All nurses participated to the study were 
interviewed directly by a self-completed 
questionnaire regarding to patient risks of 
falls. Using the “Fall prevention knowledge 
tests” by Patricia C. Dykes (2019) to assess 
the nurses’ knowledge. Results: The 
results showed that 75.9% of nurses in the 
study had the poor level of knowledge and 
only 1.2% of nurses had the good level of 
knowledge to assess risks of patient falls. 
Age of nurses and their working experience, 
their updated knowledge as well as 
participated training courses with contents 
regarding to fall prevention showed certain 
relations to the nurses’ knowledge of fall 
risk assessment. Conclusion: This study 
121
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
indicated the limited nurses’ knowledge 
of assessing patient fall risks and the 
necessary of training sessions on patient 
fall risks for nurses within the study. 
Keywords: Knowledge of assessment, 
patient fall risk, related factors.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Té ngã là một trong sáu sự cố y khoa 
được phân loại dựa vào đặc điểm chuyên 
môn theo Hiệp hội An toàn người bệnh Thế 
giới. Té ngã có thể có nhiều kết quả khác 
nhau, từ không có thương tích hoặc chấn 
thương nhẹ, đến thương tích nghiêm trọng 
hoặc tử vong. Chấn thương vật lý có thể 
bao gồm: đau đớn, bầm tím, vết trầy xước 
và vết thương nhẹ khác, khối máu tụ, vết 
rách, gãy xương, chảy máu nội sọ. Ngay cả 
té ngã không dẫn đến chấn thương thể chất 
có thể gây ra nỗi sợ bị ngã. Điều này có thể 
dẫn đến tự giới hạn hoạt động, bắt đầu một 
chu kỳ giảm khả năng chức năng của cơ 
thể. Mỗi năm có khoảng 37,3 triệu ca té ngã 
cần đến sự chăm sóc y tế, dẫn đến 646.000 
ca tử vong do té ngã trên toàn cầu. Té ngã 
là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tử 
vong do thương tích không chủ ý sau tai 
nạn giao thông đường bộ và thường gặp 
ở những người từ 65 tuổi trở lên [1]. Tại 
Việt Nam, chưa có số liệu thống kê cụ thể 
nhưng ước tính mỗi năm có khoảng 2 triệu 
người trên 65 tuổi té ngã [2]. Các tai nạn do 
té ngã chiếm khoảng 4,6% sự cố thường 
gặp. Tai nạn té ngã dẫn đến tử vong đứng 
thứ hạng cao trong danh mục sự cố thường 
gặp. Theo một thống kê tại Bệnh viện Đại 
học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh năm 
2017, té ngã chiếm 92,31% trong các sự cố 
y khoa thường có trong bệnh viện [3].
Mặc dù té ngã thường gặp trong sinh 
hoạt tại cộng đồng nhưng tại các cơ sở y 
tế việc đánh giá nguy cơ té ngã cho người 
bệnh là hoạt động không thể thiếu. Việc 
đảm bảo an toàn cho người bệnh nói chung 
và đánh giá nguy cơ té ngã cho người bệnh 
nói riêng là nhiệm vụ quan trọng. Thông tư 
số 19/2013/TT-BYT của Bộ Y tế về hướng 
dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ 
khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện quy 
định về triển khai các biện pháp bảo đảm 
an toàn người bệnh và nhân viên y tế, đánh 
giá nguy cơ té ngã người bệnh là một trong 
những nội dung khi thiết lập chương trình 
và xây dựng các quy định cụ thể bảo đảm 
an toàn người bệnh và nhân viên y tế [4]. 
Với đặc thù nghề nghiệp của mình, người 
điều dưỡng có thời gian chăm sóc người 
bệnh so với các đối tượng khác cao hơn do 
đó điều dưỡng đóng vai trò hết sức quan 
trọng trong công tác này. 
Trong những năm qua, ngành Y tế Nam 
Định đã thực hiện các giải pháp nhằm nâng 
cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh. 
Tuy nhiên, các đánh giá về công tác đánh 
giá nguy cơ người bệnh té ngã tại các bệnh 
viện nói chung và tại Bệnh viện Đa khoa 
tỉnh Nam Định nói riêng và đặc biệt đánh 
giá về thực trạng kiến thức của điều dưỡng 
còn chưa nhiều. Để có thêm các bằng 
chứng về công tác phòng ngừa nguy cơ 
người bệnh té ngã của điều dưỡng cũng 
như các hoạt động đảm bảo an toàn người 
bệnh tại Bệnh viện, chúng tôi muốn tìm hiểu 
về kiến thức và một số yếu tố liên quan đến 
kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té 
ngã của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa 
Tỉnh Nam Định.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Các điều 
dưỡng đang công tác tại các khoa lâm sàng 
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Điều dưỡng trực 
tiếp chăm sóc người bệnh có thời gian làm 
việc từ 1 năm trở lên
Tiêu chuẩn loại trừ: Điều dưỡng vắng 
mặt trong khoảng thời gian thu thập số liệu 
và không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 
12/2019 đến 6/2020.
122
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
 - Địa điểm: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam 
Định.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Chọn mẫu toàn bộ: Chọn toàn bộ điều 
dưỡng đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu. Theo 
danh sách, các điều dưỡng đủ tiêu chuẩn 
tham gia nghiên cứu gồm 170 điều dưỡng.
2.5. Công cụ và phương pháp thu 
thập
Sử dụng phương pháp tự điền phiếu 
để thu thập thông tin của đối tượng nghiên 
cứu.
Phiếu điều tra bao gồm:
+ Phần A: Thông tin chung về đối tượng 
nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu các 
thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu 
+ Phần B: Kiến thức về dự phòng té ngã 
Bộ công cụ đánh giá kiến thức về dự 
phòng té ngã gồm 24 câu hỏi với các đáp 
án đúng và sai. Bộ công cụ này được xây 
dựng dựa trên công cụ “Fall prevention 
knowledge tests” của tác giả Patricia C. 
Dykes và các cộng sự công bố năm 2019 
[5]. Các kết quả kiểm định cho thấy đây là 
một thang đo khá tốt để đánh giá kiến thức 
về té ngã của điều dưỡng. Bộ công cụ sau 
khi chuyển ngữ tiếp tục được kiểm tra độ 
tin cậy bằng phương pháp test và retest. 
Phỏng vấn trực tiếp 30 điều dưỡng bằng bộ 
công cụ 2 lần, mỗi lần cách nhau một tuần. 
Kết quả phân tích tương quan cho thấy hệ 
số tương quan giữa hai lần phỏng vấn > 0.7 
(đủ điều kiện sử dụng).
2.6. Tiến trình thu thập 
Tổ chức thu thập số liệu trong một lần 
đánh giá tại mỗi khoa. Gặp gỡ đối tượng 
nghiên cứu, điều tra viên giải thích rõ nội 
dung nghiên cứu và phát phiếu điều tra 
cho từng điều dưỡng tự điền. Điều tra viên 
giám sát để đảm bảo điều dưỡng không 
trao đổi thông tin trong quá trình điền phiếu, 
sau đó thu lại phiếu điều tra, kiểm tra sự 
phù hợp của các câu trả lời và đề nghị điều 
chỉnh ngay khi cần. Thực hiện giám sát quá 
trình thu thập số liệu để đảm bảo bộ công 
cụ được đầy đủ, chính xác và khách quan 
cho nghiên cứu. Các điều dưỡng không thể 
tham gia trả lời tập trung do phải thực hiện 
nhiệm vụ, điều tra viên gửi phiếu để đối 
tượng tự điền vào thời gian thích hợp.
2.7. Tiêu chí đánh giá trong nghiên 
cứu
Sử dụng phương pháp gán điểm để 
đánh giá kiến thức của đối tượng, trả lời 
mỗi ý đúng là 1 điểm, sai 0 điểm. Tổng số 
ý trả lời đúng là 24 tương ứng với tổng số 
điểm là 24. Tham khảo một số nghiên cứu 
trước [6], [7], [8] kiến thức của điều dưỡng 
được phân thành các nhóm với các mức 
độ như sau: < 7 điểm ở mức độ chưa có 
kiến thức, 7 - < 13 điểm ở mức độ kiến thức 
kém, 13 - < 19 điểm ở mức độ kiến thức 
trung bình và 19 – 24 điểm ở mức độ kiến 
thức tốt.
2.8. Xử lý và phân tích số liệu: 
Số liệu sau khi được thu thập sẽ được 
phân tích dựa trên phần mềm SPSS 22.0. 
3. KẾT QUẢ 
3.1. Một số thông tin chung về đối 
tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của điều 
dưỡng tham gia nghiên cứu (n=170)
Đặc điểm SL TL %
Tuổi
(năm)
< 31 51 30,0
31 – 45 105 61,7
> 45 14 8,3
Thâm niên 
công tác
(năm)
< 10 88 51,8
10 – 20 73 43,0
> 20 9 5,2
Số người bệnh 
chăm sóc 
trong 1 ngày
≤ 10 100 58,8
> 10 70 41,2
Lớp đào tạo về 
té ngã
Đã tham gia 111 65,3
Chưa tham 
gia 59 34,7
123
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Kết quả bảng 1 cho thấy nhóm tuổi đời của điều dưỡng viên tham gia nghiên cứu từ 
31- 45 tuổi cao nhất (61,7%), ở nhóm tuổi dưới 31 có tỷ lệ nữ giới cao nhất (86,3%). Điều 
dưỡng có thâm niên công tác dưới 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (51,8 %), > 20 năm chiếm 
tỉ lệ thấp nhất (5,2%). Số người bệnh phải chăm sóc trung bình/ ngày dưới 10 người bệnh 
là (58,8%), trên 10 người bệnh/ ngày (41,2%). Còn 34,7 % điều dưỡng chưa tham gia các 
lớp đào tạo về phòng ngừa té ngã.
3.2. Thực trạng kiến thức đánh giá nguy cơ té ngã người bệnh của điều dưỡng
Bảng 2. Kiến thức của điều dưỡng về đánh giá nguy cơ
 người bệnh té ngã (n=170)
Nội dung
Trả lời đúng
SL TL %
Điều dưỡng có khả năng đánh giá nguy cơ té ngã của người bệnh 
tốt hơn so với các thang điểm sàng lọc nguy cơ ngã. 70 41,2
Thang điểm sàng lọc nguy cơ ngã dự đoán bệnh nhân có khả năng 
ngã vì các vấn đề sinh lý. 112 65,9
Các bệnh viện nên phát triển các mẫu đánh giá rủi ro té ngã phù 
hợp của riêng mình. 15 8,8
Tất cả bệnh nhân sử dụng thiết bị hỗ trợ đều bị rối loạn dáng đi và 
cần được đánh giá nguy cơ 41 24,1
Mục đích của sàng lọc rủi ro té ngã là xác định những bệnh nhân 
cần có kế hoạch phòng ngừa té ngã. 141 82,9
17,6 
48,8 
27,1 
5,3 
1,2 
0
10
20
30
40
50
60
1 2 3 4 5
T
ỷ
 l
ệ
Biểu đồ 1. Số nội dung kiến thức được điều dưỡng 
đánh giá đúng cùng lúc (n=170)
Đa số đối tượng mới chỉ liệt kê được 2/5 nội dung kiến thức về đánh giá yếu tố nguy cơ 
người bệnh té ngã và đặc biệt vẫn còn tới 17,6% mới chỉ liệt kê được 1 nội dung.
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Biểu đồ 2. Phân loại mức độ kiến thức của điều dưỡng về đánh giá nguy cơ 
người bệnh té ngã trong bệnh viện (n=107)
Với tổng 24 điểm của thang đo, trong số 170 điều dưỡng có 1,2% đạt kiến thức mức 
tốt, phần lớn (75,9 %) ở mức kiến thức kém.
3.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã 
của điều dưỡng
Bảng 3. Mối liên quan giữa một số đặc điểm nhân khẩu học của điều dưỡng với 
kiến thức về đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã (n=170)
Biến số Đặc tính
Kiến thức đạt Kiến thức không đạt Chi - square 
Test
SL TL % SL TL %
Nhóm tuổi
≤ 30 20 39,2 31 60,8
χ2 = 9,19;
p = 0,01
31-45 66 62,9 39 37,1
≥ 46 10 71,4 4 28,6
Thâm niên công tác
< 10 43 48,9 45 51,1
χ2 = 8,24;
p = 0,016
10-20 50 68,5 23 31,5
> 20 3 33,3 6 66,7
Khi xét mối liên quan giữa một số yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học của điều dưỡng 
với kiến thức về đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã, chúng tôi nhận thấy có hai yếu tố 
ảnh hưởng cớ ý nghĩa thống kê với kiến thức đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của 
điều dưỡng là nhóm tuổi và thâm niên công tác (p<0,05). Tuổi càng cao kiến thức càng tốt.
%
75,9% 
5,3 % 
%
Chưa có kiến thức (< 7 điểm) 
Kém (7-< 13 điểm) 
Trung bình (13 - 19 điểm) 
Tốt (19-24 điểm) 
1,2
17,6
125
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 4. Mối liên quan giữa một số đặc điểm chuyên môn của điều dưỡng với 
kiến thức về đánh giá nguy cơ té ngã (n=170)
Biến số Đặc tính
Kiến thức đạt Kiến thức không đạt Chi - square 
Test
SL TL % SL TL %
Số bệnh nhân 
chăm sóc/ngày
> 10 41 58,6 29 41,4 χ2 = 0,24; 
p = 0,644 
OR = 0,24≤ 10 55 55,0 45 45,0
Đã học về phòng 
té ngã
Có 56 60,2 37 39,8 χ2 = 1,17; 
p = 0,279
OR = 1,4Không 40 51,9 37 48,1
Có cập nhật kiến 
thức về té ngã
Có 56 50,5 55 49,5 χ2 = 4,71;
 p = 0,03 
OR = 0,48Không 40 67,8 19 32,2
Có nhu cầu tập 
huấn về té ngã
Có 83 53,2 73 46,8 χ2 = 8,217; 
p = 0,004
OR = 0,087Không 13 92,9 1 7,1
Trong số các yếu tố về đặc điểm chuyên môn được đưa vào mô hình để tìm hiểu yếu 
tố liên quan đến kiến thức về đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng thì chỉ 
có 02 yếu tố có liên quan: cập nhật kiến thức về té ngã và nhu cầu tập huấn về té ngã.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng 
Đa phần đối tượng trong là nữ giới 
(78,2%) cao gấp gần 4 lần so với đối tượng 
nam giới (21,8%). Về tuổi đời, tỷ lệ điều 
dưỡng có tuổi đời từ 31-45 chiếm tỷ lệ cao 
nhất là 61,7%. Điều dưỡng có thời gian 
công tác < 10 năm là 51,8%. Kết quả này 
có sự tương đồng với nghiên cứu năm 2019 
của Nguyễn Thị Thúy (2019) về thực trạng 
kiến thức và thực hành về phòng ngừa té 
ngã cho người bệnh của điều dưỡng tại 
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam [6].
Số người bệnh chăm sóc trung bình 
trong một ngày phản ánh mức độ công 
việc của điều dưỡng cũng như mô hình 
phân công chăm sóc của các cơ sở y tế 
[3]. Nghiên cứu chỉ ra điều dưỡng chăm 
sóc dưới 10 người bệnh/ngày chiếm tỷ lệ 
58,8%, thấp hơn so với nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Thúy (2019) [6]. Số lượng y 
lệnh phải thực hiện cho một người bệnh 
cùng với các công việc gián tiếp như thủ 
tục hành chính, ghi ghi hồ sơ bệnh án, vào 
vật tư tiêu hao, công khai thuốc khiến 
cho người điều dưỡng không đủ thời gian 
thực hiện các hoạt động chăm sóc khác 
cho người bệnh. Do đó công tác đảm bảo 
an toàn cho người bệnh nói chùng và việc 
đánh giá nguy cơ té ngã người bệnh nói 
riêng cũng bị ảnh hưởng
Khi được hỏi về việc có được tham gia 
các lớp đào tạo về té ngã không thì 65,3% 
điều dưỡng cho biết đã được đào tạo. Các 
điều dưỡng được đào tạo về quy trình đánh 
giá nguy cơ người bệnh té ngã hoặc các 
vấn đề liên quan hoặc đã có hiểu biết về 
đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã có xu 
hướng thực hành tốt hơn so với các điều 
dưỡng chưa được tham gia các lớp đào tạo 
nào về té ngã [10]. Tuy nhiên trong nghiên 
cứu vẫn còn 34,7% điều dưỡng chưa được 
tham gia đào tạo về đánh giá nguy cơ người 
bệnh té ngã.
126
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
4.2. Kiến thức của điều dưỡng trong 
công tác đánh giá nguy cơ người bệnh 
té ngã
Đội ngũ điều dưỡng có vai trò đặc biệt 
quan trọng trong việc giảm thiểu sự cố y 
khoa bởi các lý do sau: (1) Dịch vụ do điều 
dưỡng, hộ sinh cung cấp được WHO đánh 
giá là một trong những trụ cột của hệ thống 
cung cấp dịch vụ y tế; (2) Hầu hết các chỉ 
định của bác sĩ điều trị đều thông qua người 
điều dưỡng để thực hiện trên người bệnh; 
(3) Công việc chuyên môn của điều dưỡng 
luôn diễn ra trước và sau công tác điều trị 
và bảo đảm cho công tác điều trị an toàn 
[2]. Chính vì vậy vai trò của điều dưỡng 
trong công tác phòng ngừa té ngã được quy 
định cụ thể tại Điều 4 Thông tư số 07/2011/
TT-BYT hướng dẫn công tác điều dưỡng 
về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện: 
“Bảo đảm an toàn và phòng ngừa sai sót 
chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc người 
bệnh” [9] và điều 7 Thông tư số 19/2013/ 
TT-BYT hướng dẫn thực hiện quản lý chất 
lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại 
bệnh viện “Triển khai các biện pháp bảo 
đảm an toàn người bệnh và NVYT” [2], 
trong đó người điều dưỡng cần phải có 
kiến thức về đánh giá nguy cơ người bệnh 
té ngã. Kiến thức đánh giá nguy cơ người 
bệnh té ngã gồm 5 nội dung, kết quả khảo 
sát số lượng nội dung kiến thức đúng về 
đánh giá nguy cơ té ngã mà điều dưỡng có 
thể cùng lúc trả lời được đúng cả 5 câu chỉ 
có 1,2%, đa số điều dưỡng nêu được đúng 
2/5 câu, chiếm 48,8%. Cụ thể 82,9% người 
điều dưỡng cho rằng mục đích của sàng 
lọc rủi ro té ngã là xác định những người 
bệnh cần có kế hoạch phòng ngừa té ngã 
và 65,9% điều dưỡng biết thang điểm sàng 
lọc nguy cơ ngã dự đoán người bệnh có 
khả năng ngã vì các vấn đề sinh lý.
Nguy cơ người bệnh té ngã có thể do môi 
trường chăm sóc hoặc do bản thân người 
bệnh [3]. Trong đó nguy cơ té ngã có thể 
do môi trường chăm sóc bao gồm những 
thiết kế cơ sở vật chất, vật dụng không 
phù hợp cho người bệnh. Chỉ có 8,8% điều 
dưỡng trong nghiên cứu trả lời các bệnh 
viện nên phát triển các mẫu đánh giá rủi 
ro té ngã phù hợp của riêng mình. Như thế 
số người bệnh có nguy cơ té ngã có thể đã 
bị bỏ qua không được đánh giá nguy cơ té 
ngã và sẽ không được phòng ngừa té ngã 
trong kế hoạch chăm sóc người bệnh nói 
chung. Bên cạnh đó, nguy cơ người bệnh 
té ngã có thể do môi trường chăm sóc hoặc 
do bản thân người bệnh. Nguy cơ do bản 
thân người bệnh bao gồm có tiền sử té ngã 
trước đó, khiếm khuyết về cảm giác và thính 
giác, suy nhược thần kinh, bị xúc động suy 
nhược thăng bằng hoặc vận động, các vấn 
đề về cơ xương, các bệnh mãn tính, rối 
loạn tiểu tiện, các vấn đề về dinh dưỡng, và 
việc sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau. 
Người điều dưỡng cần phải trao đổi với 
gia đình người bệnh và những người quan 
trọng khác việc đánh giá toàn diện nguy cơ 
té ngã. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chỉ 
ra rằng có 24,1% điều dưỡng trả lời tất cả 
người bệnh sử dụng thiết bị hỗ trợ đều bị 
rối loạn dáng đi và cần đánh giá nguy cơ.
Phân loại kiến thức đánh giá nguy cơ 
người bệnh té ngã của điều dưỡng theo 
mức độ, có 17,6% điều dưỡng chưa có 
kiến thức và 5,3% điều dưỡng có kiến thức 
trung bình. Điều này có thể giải thích do 
vẫn có tỷ lệ 34,7% điều dưỡng của Bệnh 
viện chưa được tham gia các lớp đào tạo 
về đánh giá nguy cơ người bệnh té ngã 
dẫn tới họ chưa có kiến thức hoặc thiếu hụt 
trong công tác này. Tuy nhiên nghiên cứu 
chỉ ra có tới 75,9% điều dưỡng đạt mức 
kiến thức kém. Cần có sự chú trọng hơn 
công tác đánh giá nguy cơ người bệnh té 
ngã của chính điều dưỡng trong quá trình 
chăm sóc để đảm bảo an toàn người bệnh.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến 
thức đánh giá nguy cơ người bệnh té 
ngã của điều dưỡng
Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra 
rằng tuổi đời là một trong những yếu tố có 
liên quan đến kiến thức của con người. Kết 
127
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng không 
phải là ngoại lệ. Theo đó kiến thức về đánh 
giá nguy cơ té ngã có xu hướng gia tăng 
theo tuổi dời. Cụ thể ở nhóm tuổi ≤ 30 tỷ lệ 
kiến thức đạt chỉ chiếm 39,2%, tuy nhiên 
con số này đã tăng lên 62,9% ở nhóm 30-
45 tuổi và cao nhất ở nhóm > 45 với tỷ lệ 
đạt ngưỡng 71,4%. Các tác động liên quan 
đến tuổi tác đối với nhận thức dường như 
bị giảm đi ở những người có trình độ hiểu 
biết cao bởi vì mọi người có xu hướng di 
chuyển đến các nhóm kiến thức cao hơn 
với độ tuổi tăng dần [10].
Một yếu tố khác cũng có liên quan đến 
kiến thức của đối tượng nghiên cứu là thâm 
niên công tác. Chúng tôi quan sát thấy 
kiến thức cao nhất ở nhóm có kinh nghiệm 
làm việc từ 10-20 năm. Đây không phải 
là một phát hiện mới của nghiên cứu này. 
Kết quả này cũng đã được tìm thấy trong 
nhiều nghiên cứu trước đây ở các lĩnh vực 
khác nhau. Về lý thuyết khi thời gian công 
tác càng nhiều, cơ hội được tham gia các 
chương trình đào tạo liên tục có liên quan 
đến chuyên môn công tác càng nhiều. Một lý 
do khác đó là lý thuyết “tự trưởng thành” khi 
con người đã có kiến thức nền tảng về một 
vấn đề nào đó thì kiến thức này có thể được 
mở rộng thông qua quá trình làm việc [11]. 
Ngoài ra tuổi đời và tuổi nghề là hai biến số 
có mối quan hệ tuyến tính thuận chiều. Do 
vậy thâm niên công tác có liên quan kiến 
thức chuyên môn là điều hoàn toàn dễ hiểu. 
Theo logic những người được tập huấn 
về đánh giá nguy cơ té ngã thông thường sẽ 
có kiến thức về vấn đề này tốt hơn những 
người không được tập huấn. Tuy nhiên 
phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi lại 
đi ngược lại với logic trên. Theo đó số tỷ lệ 
điều dưỡng có kiến thức đạt ở nhóm được 
tập huấn lại thấp hơn so với nhóm không 
được tập huấn. Nghịch lý này có thể được 
giải thích bởi một số lý do sau: Thứ nhất khi 
phân tích bảng chéo mối liên quan giữa tuổi 
đời, tuổi nghề với tình trạng được tham gia 
các lớp tập huấn cho thấy những người lớn 
tuổi và có thâm niên công tác nhiều năm 
được tham gia các lớp tập huấn hiểu hơn 
có ý nghĩa thống kê so với những người 
không được tập huấn. Mà kiến thức lại liên 
quan thuận chiều với tuổi đời và tuổi nghề. 
Do vậy mối liên quan giữa đã được tham 
gia tập huấn và kiến thức về đánh giá nguy 
cơ người bệnh té ngã của điều dưỡng bị tác 
động bởi hai yếu tố là tuổi đời và tuổi nghề. 
Thứ hai có thể do thời gian tham gia lớp 
tập huấn đã cách thời gian hiện tại khá xa. 
Khả năng nhớ và lưu giữ kiến thức được 
chứng minh là giảm dần theo thời gian, 
thông thường người học nhớ được 75% 
những gì đã học vào lúc kết thúc việc học 
và lưu giữ được không quá 10% ở 30 ngày 
sau, nghĩa là hơn 90% những gì đã học sẽ 
bị quên đi sau 30 ngày. Mặt khác, khả năng 
lưu giữ kiến thức phụ thuộc nhiều yếu tố, 
trong đó phương pháp học có vai trò quan 
trọng, người học có thể nhớ được 75% kiến 
thức đã học nếu kiến thức được áp dụng 
vào thực hành và nhớ được 90% nếu kiến 
thức đó được dạy lại cho người khác [12]. 
Thứ ba có thể là do nhu cầu công việc cần 
phải có kiến thức để thực hiện nhiệm vụ 
và hoặc người điều dưỡng nhận thức được 
tầm quan trọng của vấn đề nên họ tự học, 
tự trang bị các kiến thức về té ngã qua các 
kênh khác nhau mà không cần phải tham 
gia các lớp tập huấn nào. Với sự phát triển 
của công nghệ thông tin hiện nay thì việc 
tìm kiếm các tài liệu về đánh giá nguy cơ 
té ngã là không quá khó khăn. Một lý do 
cuối cùng có thể đề cập ở đây là do cỡ mẫu 
trong nghiên cứu này là tương đối nhỏ (170 
người) để có thể đảm bảo đầy đủ các giả 
định của phân tích thống kê suy luận.
Trong nghiên cứu này, một mối liên quan 
khác thuộc đặc điểm chuyên môn của điều 
dưỡng cũng được tìm thấy có mối liên quan 
với kiến thức về đánh giá nguy cơ người 
bệnh té ngã đó là nhu cầu tập huấn về nội 
dung này. Phát hiện này hoàn toàn phù hợp 
vì theo lý thuyết thông thường những ai thiếu 
thông tin thì sẽ có nhu cầu cần thông tin. 
128
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Những người thiếu thông tin thông thường 
sẽ có kiến thức chưa tốt bằng những người 
đã có nhiều thông tin. Khi phân tích sâu 
hơn về mối liên quan giữa các biến số cho 
thấy hầu hết những người có nhu cầu tập 
huấn đều là những người trẻ và có thâm 
niên công tác < 5 năm. Điều này một lần 
nữa khẳng định trong mối liên quan giữa 
kiến thức với các biến độc lập luôn có sự 
tương tác giữa các biến độc lập với nhau.
5. KẾT LUẬN
Đa phần đối tượng trong nghiên cứu là 
nữ giới (78,2%), có tuổi đời từ 31-45 chiếm 
tỷ lệ cao nhất là 61,7%. 51,8% điều dưỡng 
có thời gian công tác < 10 năm, chủ yếu 
chăm sóc dưới 10 người bệnh/ngày. Trong 
đó có 34,7% điều dưỡng chưa được tham 
gia đào tạo về đánh giá nguy cơ người 
bệnh té ngã.
Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đánh giá 
nguy cơ người bệnh té ngã thấp, chỉ có 1,2 
% điều dưỡng đạt ở mức độ kiến thức tốt, có 
tới 75,9% điều dưỡng mức độ kiến thức kém.
Hai yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học 
của đối tượng liên quan đến kiến thức là 
nhóm tuổi và thâm niên công tác. Hai yếu 
tố thuộc về đặc điểm chuyên môn của điều 
dưỡng là cập nhật kiến thức và nhu cầu 
đào tạo có liên quan đến kiến thức. 
Vì vậy cần tăng cường tổ chức các lớp 
tập huấn đánh giá phòng ngừa người bệnh 
té ngã cho điều dưỡng đồng thời nâng cao 
chất lượng giám sát việc thực hiện công tác 
phòng ngừa té ngã của bệnh viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHO (2018), Falls - Key facts, truy 
cập ngày 12/10-2019, tại trang web http://
www.who.int/en/news-room/fact-sheets/
detail/falls.
2. Đặng Văn Cường (2019), Thay đổi 
kiến thức về phòng té ngã cho người bệnh 
của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Lạng Sơn sau can thiệp năm 2019, Luận 
văn thạc sỹ điều dưỡng, Trường Đại học 
Điều dưỡng Nam Định.
3. Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố 
Hồ Chí Minh (2017), An toàn người bệnh, 
Bản tin An toàn người bệnh, Thành Phố Hồ 
Chí Minh.
4. Bộ Y tế (2015), Thông tư số 19/2013/
TT-BYT ngày 12/07/2013 của Bộ Y tế về 
Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng 
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại Bệnh 
viện.
5. Dykes P. C. et al (2019), “Development 
and Validation of a Fall Prevention 
Knowledge Test”, J Am Geriatr Soc. 67(1), 
page. 133-138.
6. Nguyễn Thị Thúy (2019), Thay đổi 
kiến thức, thực hành về phòng ngừa té ngã 
cho người bệnh của Điều dưỡng viên tại 
một số khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa 
tỉnh Hà Nam năm 2019, Luận văn Thạc sỹ, 
Đại học Điều dưỡng Nam Định.
7. Hussein H. A. E. and Mohamed M. M. 
(2018), “Factors affecting nurses application 
of environmental safety measures to 
prevent falls among geriatric patients in 
four hospitals in alexandria”, The Malaysian 
Journal of Nursing. 9(4).
8. Jose R. C L. và Cay D. R T. (2014), 
“Extent of knowledge on falls by staff 
nurses in Baguio-Benguet healthcare 
settings”, University of the Visayas-Journal 
of Research. 8(1), tr. 113-144.
9. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 07/2011/
TT-BYT ngày 26/01/2011 của Bộ Y tế về 
Hướng dẫn công tác điều dưỡng chăm sóc 
người bệnh trong Bệnh viện.
10. Salthouse A. T. (2003), Understanding 
human development, Interrelations of aging, 
knowledge, and cognitive performance, 
Springer, Boston, page 265-287.
11. Soederberg M. L. M. (2009), “Age 
differences in the effects of domain 
knowledge on reading efficiency”, 
Psychology and aging. 24(1), tr. 63.
12. Kåre L. (2012), “A Rebuttal Of Ntl 
InstituteS Learning Pyramid”, Education. 
133(1).

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_toi_kien_thuc_danh_gia.pdf