Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-SGA của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - Cổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 100 người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ tháng 1 đến tháng 3/2020 bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Số liệu được thu thập bằng bộ công cụ PG-SGA, khẩu phần ăn 24h và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo PG-SGA: Có 17% người bệnh có tình trạng dinh dưỡng PG-SGA A, 54% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA C. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. phương="" pháp="" điều="" trị="" bệnh,="" giai="" đoạn="" bệnh,="" năng="" lượng="" khẩu="" phần="" ăn="" 24h="" có="" mối="" liên="" quan="" với="" tình="" trạng="" dinh="" dưỡng="" pg-sga="" với=""><0,05. kết="" luận:="" phần="" đa="" người="" bệnh="" có="" tình="" trạng="" suy="" dinh="" dưỡng.="" thói="" quen="" sử="" dụng="" thuốc="" lá/thuốc="" lào,="" tìm="" hiểu="" dinh="" dưỡng="" có="" mối="" liên="" quan="" với="" tình="" trạng="" dinh="" dưỡng="" pg-sga="" với=""><0,05. phương="" pháp="" điều="" trị="" bệnh,="" giai="" đoạn="" bệnh,="" năng="" lượng="" khẩu="" phần="" ăn="" 24h="" có="" mối="" liên="" quan="" với="" tình="" trạng="" dinh="" dưỡng="" pg-sga="" với=""><>

pdf 10 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-SGA của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-SGA của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-SGA của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020
198
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
5. Diệp Thị Tiểu Mai (2019), Chất lượng 
cuộc sống của người bệnh ung thư giai 
đoạn cuối và các yếu tố liên quan năm 2018 
- Tạp chí điều dưỡng Việt Nam số 27 2019, 
tr61.
6. Ferlay J et al. (2012), GLOBOCAN 
2012 v1.0, Cancer Incidence and Mortality 
Worldwide: IARC CancerBase No. 11 .
7. Bộ Y Tế (2020), “Hội thảo phòng 
chống ung thư lần thứ 5 được tổ chức tại 
thành phố Hải Phòng”.
8. Z. Bayram et al. (2014), “Quality of 
life during chemotherapy and satisfaction 
with nursing care in Turkish breast cancer 
patients”, Eur J Cancer Care (Engl). 23(5), 
tr. 675-84.
9. Zimmermann et al. (2011), 
“Determinants of Quality of Life in Patients 
With Advanced Cancer” Support Care 
Cancer,19 (5), pp. 921 -629.
10. Divya Pal Singh (2010), “Quality of 
Life in Cancer Patients Receiving Palliative 
Care” (2010) Jan-Apr; 16(1): 36–43.
11. WHO cancer pain relief programme. 
J Stjernswärd - Cancer surveys, 1988 - 
europepmc.org. patient is free from pain.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG 
DINH DƯỠNG PG-SGA CỦA NGƯỜI BỆNH UNG THƯ ĐẦU MẶT CỔ 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN NĂM 2020
Phạm Khánh Huyền1b, Trần Văn Long2, Đinh Thị Thu Huyền2
1Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An,
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định 
một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh 
dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt 
- Cổ. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 100 người 
bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung 
Bướu Nghệ An từ tháng 1 đến tháng 3/2020 
bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt 
ngang. Số liệu được thu thập bằng bộ công 
cụ PG-SGA, khẩu phần ăn 24h và xử lý số 
liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: 
Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo 
PG-SGA: Có 17% người bệnh có tình trạng 
dinh dưỡng PG-SGA A, 54% người bệnh 
tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% 
người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA 
C. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, 
tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với 
tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. 
Phương pháp điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, 
năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên 
quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA 
với p<0,05. Kết luận: Phần đa người bệnh 
có tình trạng suy dinh dưỡng. Thói quen 
sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh 
dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh 
dưỡng PG-SGA với p<0,05. Phương pháp 
điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, năng lượng 
khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với tình 
trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05.
Từ khoá: Ung thư, ung thư đầu mặt cổ, 
dinh dưỡng.
Người chịu trách nhiệm: Phạm Khánh Huyền
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 15/10/2020
Ngày duyệt bài: 25/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
199
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
SITUATION AND SOME FACTORS RELATED TO THE NUTRITIONAL PG-SGA OF HEAD 
- FACE - NECK CANCER PATIENTS AT NGHEAN ONCOLOGY HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the current 
situation and identify some factors related 
to the nutritional status of Head - Face - 
Neck cancer patients. Method: Research 
conducted on 100 people with head and 
neck cancer at Nghe An Oncology Hospital 
from January to March 2020 by cross-
sectional descriptive research method. Data 
were collected using PG-SGA toolkit, 24-
hour diet and data processing using SPSS 
20.0 software. Results: The nutritional 
status of patients according to PG-SGA: 
17% of patients have nutritional status PG-
SGA A, 54% of patients nutritional status 
PG-SGA B, 29% of patients nutritional 
status PG-SGA C. The habits of tobacco 
/ pipe tobacco use, nutrition research are 
related to PG-SGA nutritional status with p 
<0.05. Disease treatment method, disease 
stage, 24-hour diet energy were associated 
with nutritional status of PG-SGA with p 
<0.05. Conclusion: Most patients have 
malnutrition. Tobacco/pipe tobacco use 
habits, nutrition research related to PG-SGA 
nutritional status with p <0.05. Treatment 
of disease, disease stage, 24-hour energy 
intake are related to PG-SGA nutritional 
status with p <0.05.
Keywords: Cancer, head and neck 
cancer, nutrition.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đầu mặt cổ (UTĐMC) là những 
khối u ác tính phát sinh ở vùng đầu cổ như 
khoang mũi, cạnh mũi, khoang miệng, tuyến 
nước bọt, hầu họng và thanh quản thường 
được phân chia thành 5 khu vực [1]. Ung 
thư đầu cổ chiếm hơn 550.000 ca mắc mỗi 
năm trên thế giới. Tại Mỹ ung thư đầu cổ có 
đến 60.000 ca mắc và gây ra cái chết cho 
12.000 người. Tại Việt Nam ung thư vùng 
ĐMC cũng là bệnh ung thư phổ biến với tỷ 
lệ mắc cao, trong đó ung thư vòm họng là 
ung thư phổ biến xếp thứ 6 với hơn 6200 
ca mắc mới trong năm 2018 chiếm 3,8%; 
ung thư môi và khoang miệng, thanh quản, 
tuyến nước bọt cũng rất phổ biến chiếm tỷ 
lệ lần lượt là 1,1%; 1%; 0,21% [1].
Suy dinh dưỡng (SDD) là những vấn đề 
phổ biến ở những người bệnh mắc ung thư 
đầu mặt cổ. Theo nghiên cứu của Kathryn 
Marshall và Jenelle Loeliger người bệnh 
ung thư tiêu hóa và ung thư ĐMC có tỷ lệ 
SDD cao hơn người bệnh mắc ung thư ở 
vị trí khác [2]. Quản lý dinh dưỡng là một 
phần thiết yếu trong việc chăm sóc những 
người bệnh này, với việc sàng lọc và đánh 
giá sớm nguy cơ SDD là điều tối quan trọng. 
Để làm rõ hơn về tình hình dinh dưỡng của 
người bệnh ung thư ĐMC cũng như các 
yếu tố liên quan đến vấn đề này, tiến tới 
đề xuất một số biện pháp can thiệp nhằm 
hỗ trợ người bệnh về mặt dinh dưỡng nói 
chung và nâng cao chất lượng sống của 
người bệnh nói riêng, nhóm nghiên cứu 
thực hiện đề tài: “Thực trạng và một số yếu 
tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-
SGA của người bệnh ung thư đầu - mặt - 
cổ tại Bệnh viên Ung bướu Nghệ An năm 
2020”. Với mục tiêu: Xác định một số yếu 
tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng PG-
SGA của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - 
Cổ điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ 
An năm 2020.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh UTĐMC tại bệnh viện Ung 
Bướu Nghệ An.
200
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Người bệnh được chẩn đoán UTĐMC 
đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ 
An.
Có thể hiểu và trả lời bằng tiếng Việt để 
đáp ứng các công cụ cần thiết để thu thập 
dữ liệu.
Trên 18 tuổi.
Hồ sơ bệnh án lưu trữ đầy đủ.
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu
2.1.2. Tiêu chuẩn trừ
Người bệnh bị các khiếm khuyết không 
thể cân, đo được: Gù vẹo cột sống, không 
đứng được.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Bệnh viên Ung Bướu Nghệ 
An.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến 
tháng 3 năm 2020.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu: Công thức xác định cỡ mẫu 
nghiên cứu mô tả cắt ngang,
Trong đó:
Z: Trị số tính từ bảng tham chiếu = 1,96 
(tương ứng với α=0,05). 
α: Mức ý nghĩa thống kê, chọn α=5 % 
(0,05)
d: Độ chính xác mong muốn (d=0,1)
n: Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu
p: Tỷ lệ SDD theo PG-SGA của người 
bệnh ung thư tham khảo nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Hương Quỳnh (2018) là p = 
0,58 [3].
Áp dụng công thức, n= 93 người bệnh. 
Dự phòng 7% số mẫu sai lệch, tổng số mẫu 
thu thập được 100 người bệnh.
2.5. Phương pháp chọn mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện.
2.6. Phương pháp thu thập số liệu và 
đánh giá
Sử dụng bộ công cụ gồm 3 phần:
Phần A: Thông tin chung về đối tượng 
nghiên cứu
Phần B: Bộ công cụ PG-SGA: Đã được 
chuẩn hóa Việt Nam [4]. PG-SGA gồm 7 ô 
đánh giá các vấn đề liên quan đến TTDD 
chia làm 2 phần:
- Phần 1: từ ô số 1 đến ô số 4 bao gồm 
bệnh sử do người bệnh khai hoặc tự điền 
(điểm A)
- Phần 2: 
Ô số 5 (điểm B): Tình trạng bệnh và 
những nhu cầu dinh dưỡng liên quan
Ô số 6 (điểm C): Nhu cầu chuyển hóa 
như sốt, thời gian sốt, sử dụng corticoit.
Ô số 7 (điểm D): Khám lâm sàng teo cơ, 
mất lớp mỡ dưới da, phù, cổ chướng.
Tổng điểm PG-SGA là: A+B+C+D 
0-1: Không cần can thiệp dinh dưỡng 
vào lúc này. Đánh giá lại thường xuyên 
trong quá trình điều trị.
2-3: Giáo dục hướng dẫn chế độ ăn 
người bệnh và gia đình.
4-8: Yêu cầu sự can thiệp dinh dưỡng.
Trên 9: Cho thấy nhu cầu quan trọng 
trong việc cải thiện quản lý triệu chứng và/
hoặc can thiệp dinh dưỡng.
PG-SGA cung cấp việc đánh giá nguy 
cơ SDD của người bệnh theo 3 mức độ 
khác nhau:
PG-SGA A (dinh dưỡng tốt): 0-3 điểm.
PG-SGA B (SDD nhẹ hoặc vừa hay có 
nguy cơ SDD): 4-8 điểm.
PG-SGA C (SDD nặng): Từ 9 điểm trở lên.
Phần C: Khẩu phần ăn 24h: Đánh giá 
bằng phương pháp hỏi ghi chế độ ăn 24 
giờ qua
Hỏi ghi khẩu phần 24 giờ: Là một trong 
201
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
những phương pháp đánh giá TTDD cho 
người lớn và đã được sử dụng trong một 
số nghiên cứu [3]. Phiếu nhằm hỏi và ghi 
lại tất cả các thực phẩm mà người bệnh 
ăn trong một ngày kể từ lúc ngủ dậy buổi 
sáng cho tới lúc đi ngủ vào buổi tối. Tất 
cả các thực phẩm mà người bệnh ăn bao 
gồm đường miệng và đường ống thông 
được ghi chép từ bệnh án kết hợp với 
quan sát. Phỏng vấn điều dưỡng chăm 
sóc hoặc người nhà về các thực phẩm 
mà người bệnh ăn. Tính trung bình năng 
lượng và các chất dinh dưỡng theo bảng 
thành phần dinh dưỡng của thực phẩm 
Việt Nam 2007 [5]. Sau đó tính năng lượng 
trong khẩu phần ăn và so sánh với mức 
năng lượng cho người bệnh ung thư dao 
động từ 25 – 30 kcal/kg/ngày theo hiệp 
hội dinh dưỡng lâm sàng và chuyển hóa 
châu Âu ESPEN năm 2016 [6]. Tổng năng 
lượng đạt NCKN: Năng lượng bằng hoặc 
cao hơn mức giới hạn. Tổng năng lượng 
không đạt NCKN: Năng lượng ít hơn mức 
giới hạn [7].
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n=100)
Đặc điểm nhân khẩu học SL TL %
Tuổi
18 – 39 5 5
40 – 59 57 57
Trên 60 tuổi 38 38
Giá trị trung bình ± Độ lệch chuẩn 57,36 ± 10,5
Giới tính
Nam 80 80
Nữ 20 20
Hút thuốc lá/lào
Đang hút thuốc 25 25
Đã từng hút thuốc 50 50
Không hút thuốc 25 25
Tìm hiểu về kiến thức 
dinh dưỡng
Có 47 47
Không 53 53
Chỉ có 5% người bệnh độ tuổi 18 – 39. Có 80% người bệnh là nam giới, 20% người 
bệnh là nữ giới. Có 50% người bệnh đã từng hút thuốc lá/thuốc lào. Chỉ có 47% người 
bệnh có tìm hiểu có kiến thức dinh dưỡng. Có 27% người bệnh tập thể dục.
Bảng 2. Phương pháp điều trị (n=100)
Phương pháp điều trị SL TL %
Phẫu thuật 16 16
Hóa trị 14 14
Xạ trị 24 24
Hóa xạ trị đồng thời 37 37
Khác 9 9
Tỷ lệ người bệnh điều trị bằng phương pháp kết hợp hóa xạ trị đồng thời chiếm tỷ lệ 
cao nhất 37%.
202
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Giai đoạn bệnh 
của đối tượng nghiên cứu (n=100)
Giai đoạn bệnh SL TL %
Giai đoạn I 14 14
Giai đoạn II 21 21
Giai đoạn III 35 35
Giai đoạn IV 30 30
Chỉ có 14% người bệnh mắc bệnh giai 
đoạn I, 30% người bệnh mắc bệnh giai 
đoạn IV.
Bảng 4. Năng lượng 
thức ăn 24h (n=100)
Năng lượng SL TL %
Năng lượng đạt NCKN 30 30
Năng lượng không đạt 
NCKN 70 70
Có tới 70% người bệnh có khẩu phần 
ăn 24h không đảm bảo năng lượng NCKN.
3.2. Thực trạng dinh dưỡng phân theo PG-SGA
Bảng 5. Tình trạng dinh dưỡng phân theo PG-SGA (n=100)
Phân loại PG-SGA SL TL %
PG-SGA A 17 17
PG-SGA B 54 54
PG-SGA C 29 29
Chỉ có 17% người bệnh TTDD mức độ PG-SGA A (dinh dưỡng mức độ tốt), có 83% 
người bệnh có TTDD mức độ PG-SGA B và PG-SGA C.
Bảng 6. Mối liên quan giữa các yếu tố liên quan với tình trạng 
dinh dưỡng PG-SGA của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
PG-SGA
OR
(95%CI) pPG-SGA A PG-SGA B,C
SL TL % SL TL %
Hút thuốc lá/lào
Đã/đang hút 
thuốc 4 5,3 71 94,7 0,052
(0,015-0,186) <0,05Không 13 52 12 48
Có 15 46,9 17 53,1
Tìm hiểu 
dinh dưỡng
Không 1 1,9 52 98,1 0,37
(0,005-0,295) <0,05Có 16 34 31 66
Phương pháp 
điều trị
Hóa trị kết 
hợp xạ trị 36 97,3 1 2,7 12,26
(1,55-96,77) <0,05
Nhóm khác 47 74,6 16 25,4
Giai đoạn bệnh
Giai đoạn III, 
IV 63 96,9 2 3,1 23,63
(4,97-112,29) <0,05Giai đoạn 
I, II 20 57,1 15 42,9
203
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào có mối liên quan với TTDD PG-SGA của đối 
tượng nghiên cứu với p<0,05; OR=0,052; CI: 0,015-0,186. Người bệnh đã/đang hút thuốc 
lá/lào có tỷ lệ SDD cao hơn so với nhóm người bệnh không hút thuốc lá/lào.
Thói quen tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với TTDD PG-SGA của đối tượng 
nghiên cứu với p<0,05; OR=0,37; CI: 0,005-0,295. Nhóm người bệnh có thói quen tìm 
hiểu dinh dưỡng có tỷ lệ SDD thấp hơn so với nhóm không tìm hiểu kiến thức dinh dưỡng.
Phương pháp điều trị có mối liên quan với TTDD PG-SGA của đối tượng nghiên cứu 
với p<0,05; OR=12,26; CI: 1,55-96,77. Nhóm người bệnh điều trị hóa trị kết hợp xạ trị có 
tỷ lệ SDD cao hơn nhóm khác.
Tình trạng giai đoạn bệnh có mối liên quan với TTDD PG-SGA của đối tượng nghiên 
cứu với p<0,05; OR=23,63; CI: 4,97-112,29. Nhóm người bệnh mắc bệnh giai đoạn III, IV 
có tỷ lệ SDD cao hơn so với nhóm người bệnh mắc bệnh giai đoạn I, II.
Bảng 7. Mối liên quan giữa năng lượng khẩu phần ăn 24h 
với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
PG-SGA
OR
(95%CI) p
PG-SGA B,C PG-SGA A
SL TL % SL TL %
Năng lượng 
khẩu phần ăn 24h
Không đạt 
NCKN 67 95,7 3 4,3 0,51
(0,013-0,2) <0,05
Đạt NCKN 16 53,3 14 46,7
Tổng 83 83 17 17
Năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với TTDD PG-SGA của đối tượng 
nghiên cứu với p<0,05; OR=0,51; CI: 0,013-0,2. Người bệnh không đạt NCKN có tỷ lệ 
SDD cao hơn so với nhóm đạt NCKN.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung
Từ kết quả bảng 1 đối tượng nghiên cứu 
có điểm trung bình độ tuổi 57,36 ± 10,5. Kết 
quả này tương đồng với nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Hương Quỳnh 57,1 ± 11,43 tuổi 
(thấp nhất là 19 tuổi, cao nhất là 87 tuổi) [3]. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài (2018) độ 
tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 
là 58,98 (SD =12,97) [8]. Tuổi là một yếu 
tố nguy cơ tiềm tàng với hầu hết các bệnh, 
tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng 
cao do thời gian tiếp xúc với các yếu tố 
nguy cơ càng nhiều [9], đồng thời quá trình 
lão hóa theo lứa tuổi cũng khiến sự phát 
triển và phân chia của tế bào dễ xảy ra sai 
sót dẫn đến sự bất thường.
Tỷ lệ người bệnh nam giới chiếm 80%, 
trong khi nữ giới chỉ chiếm 20% (bảng 1). 
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của 
Nguyễn Thi Hương Quỳnh (2018) người 
bệnh nam giới chiếm 61,3% cao hơn 
so với nữ giới chiếm 38,7% [3]. Nghiên 
cứu của Đào Thị Thu Hoài (2015) có tỷ 
lệ nam giới chiếm 62,3%; nữ giới chiếm 
37,7% [10]. Như vậy nam giới thường gặp 
ung thư nhiều hơn nữ giới, điều này có 
thể thấy một trong những lý do dẫn đến 
204
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
sự khác biệt này là nam giới thường có 
nhiều yếu tố nguy cơ như: Tỷ lệ hút thuốc 
lá cũng như sử dụng rượu bia ở nam cao 
hơn hơn ở nữ, nam giới thường làm việc 
trong những môi trường độc hại, khói bụi, 
hóa chất [11].
Thói quen sống của đối tượng nghiên 
cứu: Có 25% người bệnh đang hút thuốc, 
50% người bệnh đã từng hút thuốc và 25% 
người bệnh không hút thuốc (bảng 1); Như 
vậy, tỷ lệ người bệnh đã và đang hút thuốc 
chiếm tỷ lệ rất cao. Phù hợp với đối tượng 
nghiên cứu chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, 
việc ý thức được tác hại của thuốc lá/lào 
đối với bệnh của người bệnh cũng được 
cải thiện, thể hiện là 50% người bệnh đã bỏ 
thuốc lá/ thuốc lào. Kết quả này có sự khác 
biệt với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương 
Quỳnh 8,7% người bệnh có thói quen hút 
thuốc lá [3].
Tìm hiểu về kiến thức dinh dưỡng: Từ 
kết quả bảng 1. 47% người bệnh có thói 
quen tìm hiểu về dinh dưỡng, 53% người 
bệnh không tìm hiểu về dinh dưỡng. So với 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương Quỳnh 
số người bệnh tìm hiểu về dinh dưỡng 
chiếm 54,7% [3]. Hiện nay, công nghệ 
thông tin đang ngày càng phát triển. Việc 
tiếp cận thông tin của người bệnh cũng trở 
nên dễ dàng, thuận tiện và nhanh hơn. Phù 
hợp với kết quả của nghiên cứu này.
Giai đoạn bệnh: 30% người bệnh giai 
đoạn IV, 35% giai đoạn III, 21% giai đoạn II, 
14% giai đoạn I (bảng 2). Kết quả này phù 
hợp với nghiên cứu Nguyễn Thị Hương 
Quỳnh (2018) giai đoạn I rất thấp chiếm 
0,7%; Giai đoạn II chiếm 34,6% và ở giai 
đoạn tiến triển (III/ IV) chiếm tỷ lệ khá cao là 
64,7% [3]. Như vậy người bệnh mắc bệnh 
chủ yếu ở giai đoạn III, IV. Có thể do giai 
đoạn I thường là một khối u nhỏ hoặc khối 
u không phát triển sâu vào các mô lân cận, 
nó cũng không lan rộng tới các hạch bạch 
huyết hoặc các bộ phận khác của cơ thể 
nên người bệnh khó phát hiện bệnh để đi 
khám và điều trị.
Phương pháp điều trị: Từ kết quả bảng 
4. Có 37% người bệnh điều tri hóa xạ trị 
đồng thời, 16% điều trị phẫu thuật, 14% 
điều trị hóa trị và 24% điều trị xạ trị. 
Khẩu phần ăn 24h: Có 70% người bệnh 
ăn thức ăn 24h năng lượng không đạt 
NCKN cao và chỉ có 30% người bệnh thức 
ăn 24h đảm bảo năng lượng đạt NCKN 
(bảng 4). Kết quả này phù hợp với nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Hương Quỳnh tỷ lệ 
người bệnh có năng lượng khẩu phần ăn 
không đạt NCKN chiếm tỷ lệ tương đối cao 
59,3%, 40,7% người bệnh có năng lượng 
khẩu phần ăn đạt NCKN [3]. Năng lượng 
khẩu phần ăn của người bệnh 24h là tổng 
năng lượng các thực phẩm người bệnh ăn 
trong 1 ngày tính từ lúc ngủ dạy buổi sáng 
cho tới lúc đi ngủ buổi tối. Khi khảo sát, 
nhóm nghiên cứu thấy người bệnh chủ yếu 
sử dụng nhóm ngũ cốc và các sản phẩm 
chế biến, nhóm thịt và các sản phẩm chế 
biến, nhóm rau, củ quả dùng làm rau. Vẫn 
còn một số người bệnh sử dụng rượu/bia 
và sử dụng các loại thực phẩm đóng hộp. 
Các nhóm thực phẩm khác chỉ có một số 
người bệnh sử dụng. Dù bệnh viện đã có 
khoa dinh dưỡng, cán bộ dinh dưỡng đã 
tiến hành tư vấn dinh dưỡng cho người 
bệnh, tuy nhiên khoa chưa triển khai cung 
cấp suất ăn bệnh lý cho người bệnh nên 
thức ăn chủ yếu của người bệnh là mua 
thức ăn ở quán ăn. Khi người bệnh ăn đủ 
lượng NCKN sẽ giúp họ nâng cao sức đề 
kháng của cơ thể chống lại bệnh tật, giúp 
cho cơ thể phục hồi tốt hơn, có vai trò 
quan trọng trong tất cả các giai đoạn điều 
trị bệnh, phòng biến chứng, phòng tái phát. 
Tuy nhiên, hầu hết người bệnh đều không 
đáp ứng đủ NCKN là do giai đoạn bệnh, tính 
chất bệnh hay điều kiện kinh tế ảnh hưởng 
205
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
đến tâm lý của người bệnh... Vì vậy, người 
Điều dưỡng cần tìm hiểu để có kế hoạch 
can thiệp kịp thời. Nếu điều kiện gia đình 
người bệnh khó khăn, người Điều dưỡng 
có thể tư vấn cho người nhà người bệnh, 
người bệnh những chế độ ăn phù hợp với 
kinh tế nhưng vẫn đảm bảo đủ năng lượng 
hay kêu gọi những tấm lòng hảo tâm hỗ trợ 
những người bệnh có hoàn cảnh đặc biệt 
khó khăn. 
4.2. Thực trạng dinh dưỡng PG-SGA
Phương pháp đánh giá tổng thể chủ 
quan PG-SGA được thực hiện trên tất cả 
các khía cạnh tác động đến TTDD của 
người bệnh: Giảm cân trong vòng 6 tháng 
và 1 tháng, giảm tiêu hóa thức ăn, giảm 
các hoạt động, tăng nhu cầu trao đổi chất 
(sốt, dùng corticoid) và khám thực thể (teo 
cơ, mất lớp mỡ dưới da, phù/cổ chướng) 
[12].
Từ kết quả bảng 5. Có 54% người bệnh 
TTDD PG-SGA B (SDD nhẹ hoặc vừa hay 
có nguy cơ SDD), 29% người bệnh TTDD 
PG-SGA C(SDD nặng), chỉ có 17% người 
bệnh có TTDD PG-SGA (dinh dưỡng tốt). 
Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Hương Quỳnh tỷ lệ người 
bệnh có nguy cơ SDD hay SDD vừa/nặng 
( PG-SGA B và C) (58,0%) cao hơn tỷ lệ 
người bệnh có TTDD tốt (42,0%). Trong 
số người bệnh có nguy cơ SDD thì tỷ lệ 
người bệnh có nguy cơ SDD nặng chiếm tỷ 
lệ khá cao là 16,7% [3]. Có sự khác biệt này 
có thể do đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
(điều kiện kinh tế, nghề nghiệp, trình độ 
văn hóa..) khác nhau. Đối với người bệnh 
TTDD PG-SGA B yêu cầu cần sự can thiệp 
dinh dưỡng và đối với người bệnh TTDD 
PG-SGA C cho thấy nhu cầu quan trọng 
trong việc cải thiện quản lý triệu chứng 
và/ hoặc can thiệp dinh dưỡng cho người 
bệnh. Vì vậy, nhân viên y tế ngoài biện 
pháp tư vấn giáo dục kết hợp hỗ trợ chế 
độ dinh dưỡng cho người bệnh, giảm tình 
trạng SDD trường diễn ở người bệnh. Kết 
quả đánh giá TTDD bằng phương pháp PG 
–SGA cho thấy nhân viên y tế cần phải có 
kế hoạch sàng lọc đánh giá và đánh giá lại 
định kỳ TTDD của tất cả người bệnh ngay 
từ sớm để có biện pháp can thiệp phù hợp, 
đặc biệt là người bệnh có nguy cơ SDD cao 
như người bệnh ung thư.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình 
trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên 
cứu
Từ kết quả bảng 6. thói quen sử dụng 
thuốc lá/thuốc lào có mối liên quan với tình 
trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05; 
OR=0,052; CI:0,015-0,186. Người bệnh đã 
và đang hút thuốc có tỷ lệ SDD cao hơn. Sự 
gia tăng nguy cơ ung thư đầu cổ dao động 
từ 5 – 25 lần ở người hút thuốc lá nặng so 
với người không hút thuốc. Nguy cơ tăng 
theo thời gian hút thuốc và số lượng điếu 
thuốc được hút mỗi ngày. Người Việt Nam 
còn có thói quen hút thuốc, đây cũng là 
những yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ ung 
thư khoang miệng và đầu cổ và cũng là yếu 
tố nguy cơ có thể thay đổi được [1]. Việc tư 
vấn giáo dục sức khỏe truyền thông sớm 
về thói quen sống có ảnh hưởng đến bệnh 
ung thư đầu mặt cổ là vô cùng quan trọng, 
giúp cho mọi người có nhận thức đúng đắn 
về yếu tố nguy cơ và thay đổi để có lối sống 
lành mạnh. Người Điều dưỡng cần tư vấn, 
giáo dục sức khỏe cho người bệnh giúp họ 
hạn chế hay bỏ dần những thói quen gây 
lên tình trạng bệnh nặng hơn.
Từ kết quả bảng 6. thói quen tìm hiểu 
dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng 
dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05; OR=0,37; 
CI:0,005-0,295. Người bệnh không tìm hiểu 
về kiến thức dinh dưỡng có TTDD kém 
hơn. Như vậy, có thể thấy, việc tìm hiểu 
về dinh dưỡng có vai trò quan trọng đối 
với TTDD người bệnh. Do đó, nhân viên y 
206
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
tế cần giáo dục tầm quan trọng của dinh 
dưỡng trong việc điều trị bệnh, giúp người 
bệnh luôn mong muốn tìm hiểu và tìm hiểu 
về dinh dưỡng của từng giai đoạn phù hợp 
tình trạng bệnh, đồng thời để khai thác tận 
dụng ưu điểm ngành công nghệ thông tin 
ngày càng phát triển, người Điều dưỡng có 
thể gửi cho người bệnh những đường link 
chính thống nói về chế độ dinh dưỡng cho 
người bệnh ung thư để người bệnh tự tìm 
hiểu thêm.
Phương pháp điều trị có mối liên quan 
với TTDD PG-SGA với p<0,05; OR=12,26; 
CI:1,55-96,77 (bảng 6). Người bệnh điều 
trị hóa trị kết hợp trị xạ có TTDD kém hơn 
với các nhóm người bệnh điều trị phương 
pháp khác (trị xạ hoặc hóa trị hoặc phẫu 
thuật...). Kết quả này phù hợp với nghiên 
cứu của Esra Citak (2019) tình trạng SDD 
trầm trọng hơn ở nhóm người bệnh kết 
hợp điều trị hóa trị đồng thời (p=0,041) 
[13]. Người bệnh có số lần truyền hóa chất 
càng tăng thì có khả năng ảnh hưởng đến 
dinh dưỡng do tác dụng phụ ngày một 
tích lũy của hóa chất. Theo nghiên cứu 
của Attar chỉ ra rằng có sự liên quan quan 
giữa hóa trị liệu thứ hai trở đi với tình trạng 
SDD.
Tình trạng giai đoạn bệnh có mối liên 
quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA 
với p<0,05; OR=23,63; CI:4,97-112,29 
(bảng 6). Người bệnh mắc bệnh giai đoạn 
I/II tình trạng dinh dưỡng tốt hơn. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu của Esra 
Citak (2019) tình trạng SDD trầm trọng hơn 
ở nhóm người bệnh chẩn đoán giai đoạn 
tiến triển ( p=0,004) [13]. Theo Nguyễn Thị 
Hương Quỳnh, nhóm người bệnh ởgiai 
đoạn III/ IV có nguy cơ SDD cao gấp 3,24 
lần so với nhóm người bệnh ở giai đoạn I/ 
II. Điều này cho thấy, tỷ lệ người bệnh SDD 
phổ biến hơn ở giai đoạn tiến triển (III/IV), 
kết quả có ý nghĩa thống kê với p<0,05; OR 
= 3,24; CI: 1,62 –6,51 [15]. Như vậy, có thể 
thấy mỗi giai đoạn và thời gian điều trị bệnh 
khác nhau có thể dẫn đến sự khác nhau 
về TTDD, những người bệnh ở giai đoạn 
sớm thì ít nguy cơ SDD hơn ở giai đoạn 
muộn. Người bệnh ở giai đọan tiến triển (III/
IV) bệnh trầm trọng hơn, triệu chứng ảnh 
hưởng đến tình trạng ăn uống nhiều hơn .... 
nên TTDD người bệnh giai đoạn này kém 
hơn.
Năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối 
liên quan với TTDD PG-SGA với p<0,05; 
OR=0,51; CI: 0,013-0,2 (bảng 7). Người 
bệnh ăn thức ăn 24h không đủ NCKN tình 
trạng nguy cơ dinh dưỡng SDD cao hơn 
nhóm người bệnh có chế độ ăn 24h đạt 
NCKN. Với người bệnh ung thư không 
những cần phải bù đủ năng lượng cho 
người bệnh theo nhu cầu mà còn cần phải 
bù thêm một phần năng lượng để cho 
người bệnh phục hồi TTDD và không trầm 
trọng thêm TTDD sẵn có theo đánh giá khi 
nhập viện. Người bệnh cần được cung cấp 
năng lượng cao hơn bù đắp lại năng lượng 
bị mất do quá trình bệnh lý, có hay không 
tình trạng nhiễm khuẩn hoặc sốt và khi đó 
cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể từng 
người bệnh để xây dựng nhu cầu năng 
lượng cho phù hợp để đáp ứng nhu cầu 
cơ bản và giúp cho sự phục hồi bệnh trở 
nên nhanh chóng hơn [14]. Để người bệnh 
có khẩu phần ăn hợp khẩu vị, người Điều 
dưỡng cần tư vấn cho người nhà chăm sóc 
người bệnh tìm hiểu những sở thích, không 
thích trong ăn uống của người bệnh, để chế 
biến món ăn giúp người bệnh có thể ăn hết 
khẩu phần ăn.
5. KẾT LUẬN
Tình trạng SDD của người bệnh ung thư 
đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ 
An còn chiếm tỷ lệ tương đối cao: Có 17% 
người bệnh PG-SGA A, 54% người bệnh 
PG-SGA B, 29% người bệnh PG-SGA C. 
207
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm 
hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với TTDD 
theo PG-SGA với p<0,05. Phương pháp 
điều trị giai đoạn bệnh, năng lượng khẩu 
phần ăn 24h có mối liên quan với TTDD theo 
PG-SGA với p<0,05. Từ kết quả này, giúp 
bác sỹ và điều dưỡng, cán bộ dinh dưỡng 
có thể đưa ra các biện pháp tăng cường 
tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng thường 
quy phù hợp với từng giai đoạn bệnh cho 
người bệnh và người nhà người bệnh, giúp 
họ có kiến thức đúng dinh dưỡng, từ đó có 
thể có những biện pháp dự phòng phù hợp 
góp phần làm giảm tỷ lệ SDD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tuyết Mai và cs (2015). Hóa 
trị một số bênh ung thư đầu mặt cổ, Nhà 
xuất bản Y học. Bộ Y tế - Bệnh viện K, 7-28.
2. Kathryn M Marshall, et al. (2019). 
Prevalence of malnutrition and impact 
on clinical outcomes in cancer services: 
A comparison of two time points. Clinical 
Nutrition, 38(2), 644-651.
3. Nguyễn Thị Hương Quỳnh (2018). 
Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên 
quan ở người bệnh ung thư điều trị bằng 
hóa chất tại Bệnh viện Quân y 103 năm 
2018, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học 
Điều dưỡng Nam Định.
4.Trần Văn Thuấn và cs (2019). Dinh 
dưỡng trong dự phòng và điều trị ung thư,, 
Bộ môn dinh dưỡng - Trường Đại học Y Hà 
Nội, Nhà xuất bản y học, 29-31.
5. Khuẩn Nguyễn Công (2007). Bảng 
thành phần thực phẩm Việt Nam, Nhà xuất 
bản Y học.
6.Arends J., et al. (2017). ESPEN 
guidelines on nutrition in cancer patients. 
Clin Nutr, 36(1), 11–48.
7.Gordon L. J. (2006). Inflammation as 
the key interface of the medical and nutrition 
universes: a provocative examination of the 
future of clinical nutrition and medicine. 
Journal of Parenteral and Enteral Nutrition, 
30(5), 453-463.
8. Nguyễn Thị Hoài (2018). Chất lượng 
cuộc sống và một số yếu tố liên quan của 
người bệnh ung thư có điều trị bằng hóa 
chất tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên 
năm 2018, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại 
học Điều dưỡng Nam Định.
9. Hồ Thị Bích Ngọc (2017). Nghiên cứu 
thực trạng dinh dưỡng của người bệnh 
sau phẫu thuật đường tiêu hóa tại Bệnh 
viện Kiến An Hải Phòng năm 2017, Luận 
văn thạc sĩ, Trường Đại học Điều dưỡng 
Nam Định
10. Đinh Thị Thu Hoài (2016). Tình trạng 
dinh dưỡng và khẩu phần ăn của bệnh nhân 
ung thư tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung 
bướu Bệnh viện Bạch Mai năm 2016, Luận 
văn thạc sĩ, Trường Đại Học Y Hà Nội.
11. Nguyễn Bá Đức (2008). Ung thư học 
đại cương, Ung thư học đại cương.
12. Mariana Abe Vicente, et al. (2013). 
What are the most effective methods 
for assessment of nutritional status in 
outpatients with gastric and colorectal 
cancer? Nutricion hospitalaria, 28(3), 585-
591.
13. Esra Citak, et al. (2019). Nutritional 
status in patients with head and neck cancer 
undergoing radiotherapy: a longitudinal 
study. Supportive Care in Cancer, 27(1), 
239-247.
14. Phạm Thị Hồng Chiên (2018). Tình 
trạng nuôi dưỡng và chế độ nuôi dưỡng 
của bệnh nhân phẫu thuật ung thư hạ họng 
thanh quản tại Bệnh viện Tai Mũi Họng 
Trung Ương năm 2017-2018, Đại học y Hà 
Nội.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_tinh_trang_dinh_du.pdf