Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là 199 nữ sinh viên điều dưỡng chính quy năm thứ nhất và năm thứ hai đang học tại trường Đại học Y Dược Thái Bình; thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Tổng điểm căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất và năm thứ 2 trường Đại học Y Dược Thái Bình là 24,1 ± 5,8. Tỷ lệ sinh viên có căng thẳng cảm xúc mức độ cao là 20,6%. Tỷ lệ sinh viên chịu áp lực học tập mức độ cao là 29,1%. Tỷ lệ sinh viên có mức hỗ trợ xã hội chưa tốt chiếm 44,2%. Sinh viên học lớp tiếng Nhật có nguy cơ căng thẳng cảm xúc ở mức độ cao cao hơn so với nhóm sinh viên học lớp tiếng Anh, p < 0,05.="" sinh="" viên="" có="" học="" lực="" trung="" bình="" khá="" trở="" xuống="" có="" nguy="" cơ="" căng="" thẳng="" cảm="" xúc="" mức="" độ="" cao="" cao="" hơn="" so="" với="" sinh="" viên="" có="" học="" lực="" khá="" trở="" lên="" với="" p="">< 0,05.="" nhóm="" sinh="" viên="" có="" áp="" lực="" học="" tập="" ở="" mức="" cao="" có="" nguy="" cơ="" căng="" thẳng="" cảm="" xúc="" mức="" độ="" cao="" cao="" hơn="" nhóm="" có="" áp="" lực="" học="" tập="" mức="" độ="" trung="" bình="" và="" thấp="" với="" p=""><0,05. nguy="" cơ="" căng="" thẳng="" cảm="" xúc="" mức="" độ="" cao="" của="" nhóm="" sinh="" viên="" được="" hỗ="" trợ="" xã="" hội="" chưa="" tốt="" cao="" hơn="" so="" với="" nhóm="" sinh="" viên="" nhận="" sự="" hỗ="" trợ="" xã="" hội="" tốt="" với="" p="">< 0,05.="" kết="" luận:="" tỷ="" lệ="" sinh="" viên="" có="" căng="" thẳng="" cảm="" xúc="" mức="" độ="" cao="" là="" 20,6%.="" tỷ="" lệ="" sinh="" viên="" chịu="" áp="" lực="" học="" tập="" mức="" độ="" cao="" là="" 29,1%="" do="" đó="" bản="" thân="" sinh="" viên,="" nhà="" trường,="" gia="" đình,="" xã="" hội="" cần="" phối="" hợp="" để="" cải="" thiện="" tình="" trạng="" căng="" thẳng="" cảm="" xúc="" cho="" sinh="">

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020
226
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
ĐẾN CĂNG THẲNG CẢM XÚC CỦA NỮ SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG CHÍNH QUY 
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH NĂM 2020
Trần Thái Phúc1, Tăng Thị Hảo1,
Nguyễn Thị Nga1, Mỵ Thị Hải1
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình 
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và tìm hiểu 
một số yếu tố liên quan đến căng thẳng 
cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính 
quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình 
năm 2020. Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Đối tượng là 199 nữ sinh viên 
điều dưỡng chính quy năm thứ nhất và năm 
thứ hai đang học tại trường Đại học Y Dược 
Thái Bình; thiết kế nghiên cứu cắt ngang 
mô tả. Kết quả: Tổng điểm căng thẳng cảm 
xúc của nữ sinh viên điều dưỡng năm thứ 
nhất và năm thứ 2 trường Đại học Y Dược 
Thái Bình là 24,1 ± 5,8. Tỷ lệ sinh viên có 
căng thẳng cảm xúc mức độ cao là 20,6%. 
Tỷ lệ sinh viên chịu áp lực học tập mức độ 
cao là 29,1%. Tỷ lệ sinh viên có mức hỗ trợ 
xã hội chưa tốt chiếm 44,2%. Sinh viên học 
lớp tiếng Nhật có nguy cơ căng thẳng cảm 
xúc ở mức độ cao cao hơn so với nhóm 
sinh viên học lớp tiếng Anh, p < 0,05. Sinh 
viên có học lực trung bình khá trở xuống có 
nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao 
cao hơn so với sinh viên có học lực khá trở 
lên với p < 0,05. Nhóm sinh viên có áp lực 
học tập ở mức cao có nguy cơ căng thẳng 
cảm xúc mức độ cao cao hơn nhóm có áp 
lực học tập mức độ trung bình và thấp với 
p <0,05. Nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức 
độ cao của nhóm sinh viên được hỗ trợ xã 
hội chưa tốt cao hơn so với nhóm sinh viên 
nhận sự hỗ trợ xã hội tốt với p < 0,05. Kết 
luận: Tỷ lệ sinh viên có căng thẳng cảm xúc 
mức độ cao là 20,6%. Tỷ lệ sinh viên chịu 
áp lực học tập mức độ cao là 29,1% do đó 
bản thân sinh viên, nhà trường, gia đình, 
xã hội cần phối hợp để cải thiện tình trạng 
căng thẳng cảm xúc cho sinh viên.
Từ khóa: Sinh viên điều dưỡng, căng 
thẳng cảm xúc, Thái Bình.
SITUATION AND SOME FACTORS RELATED TO EMOTIONAL STRESS OF 
FEMALE STUDENTS IN REGULAR NURSING AT 
THAI BINH UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the current 
situation and find out some factors related to 
emotional stress of female regular nursing 
students at Thai Binh University of Medicine 
and Pharmacy in 2020. Method: Subjects are 
199 female students in the first and second 
years of regular nursing studying at Thai 
Binh University of Medicine and Pharmacy; 
study design cross-section description.
Results: The total emotional stress score of 
the first and second year nursing students 
at Thai Binh University of Medicine and 
Pharmacy was 24.1 ± 5.8. The proportion 
of students with high emotional stress was 
20.6%. The proportion of students with high 
learning pressure is 29.1%. The proportion 
of students with poor social support is 
Người chịu trách nhiệm: Trần Thái Phúc
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 13/10/2020
Ngày duyệt bài: 25/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
227
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
44.2%. Japanese language class students 
have a higher risk of emotional stress than 
those studying English classes, p <0.05. 
Students with average or less academic 
performance have a higher risk of emotional 
stress than students with better academic 
performance with p <0.05. The group of 
students with high learning pressure had 
a higher risk of emotional stress than the 
group with medium and low pressure with 
p <0.05. The risk of high-level emotional 
stress of students with poor social support 
was higher than the group of students 
receiving good social support with p <0.05. 
Conclusion: The proportion of students 
with high emotional stress was 20.6%. The 
proportion of students under high academic 
pressure is 29.1%, so students, schools, 
families and society need to work together 
to improve students’ emotional stress.
Keywords: Nursing student, emotional 
stress, Thai Binh.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Căng thẳng cảm xúc trong sinh viên (SV) 
là trạng thái hay cảm xúc mà sinh viên trải 
nghiệm khi họ nhận ra rằng các yêu cầu, 
đòi hỏi từ bên ngoài, bên trong có tính chất 
đe dọa, có hại, vượt qua nguồn lực cá nhân 
và xã hội mà họ có thể huy động được [1]. 
Căng thẳng cảm xúc là một phần tất yếu, 
không thể tránh khỏi trong cuộc sống mỗi 
người. Tại Việt Nam theo nghiên cứu của 
Lý Văn Xuân và Lê Thị Châu An (2011) [2] ở 
SV Đa khoa năm thứ nhất Đại học Y Dược 
Thành phố Hồ Chí Minh: tỉ lệ stress bệnh lý 
là 29,1%, trong đó 4,3 % SV bị stress nặng 
cần được điều trị. 
Việc khảo sát về căng thẳng cảm xúc 
trên điều dưỡng cũng được quan tâm trong 
những năm trở lại đây tuy nhiên ở Việt 
Nam, cho đến nay có ít nghiên cứu về vấn 
đề căng thẳng và các yếu tố liên quan nói 
chung trong SV đặc biệt là SV ngành điều 
dưỡng. Đây là một trong những nhóm đối 
tượng được đánh giá có nguy cơ gặp các 
vấn đề căng thẳng tâm lý ở mức cao do áp 
lực học tập, thi cử, các mối quan hệ tình 
yêu, bạn bè, điều kiện kinh tế..... Và đây 
cũng là một ngành đào tạo mang tính đặc 
thù cao, SV vừa phải trang bị một vốn kiến 
thức khổng lồ để hình thành nên những kỹ 
năng nghề nghiệp, những căng thẳng trong 
quá trình tiếp xúc người bệnh, lại vừa phải 
tu dưỡng đạo đức để có thể trở thành một 
điều dưỡng chuyên nghiệp. Riêng SV năm 
thứ nhất và năm thứ hai là hai nhóm SV đặc 
biệt hơn, ngoài những khó khăn mà một 
sinh viên khối ngành khoa học sức khỏe 
phải trải qua, họ là đối tượng phải chuyển 
tiếp từ môi trường học tập Phổ thông sang 
Đại học với nhiều khác biệt về khối lượng 
kiến thức, hình thức và phương pháp giảng 
dạy cũng như học tập, những mối quan hệ 
với bạn bè, thầy cô, đồng thời sự khác 
biệt về hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế 
của mỗi gia đình buộc SV phải tạo cho 
mình cách sống tự lập. Tất cả những khác 
biệt đó đã gây không ít khó khăn tâm lý, có 
ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và kết 
quả học tập của SV. Với ý nghĩa như trên 
chúng tôi thực hiện đề tài với mục tiêu: Mô 
tả thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố liên 
quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh 
viên điều dưỡng chính quy năm thứ nhất và 
năm thứ hai trường Đại học Y Dược Thái 
Bình năm 2020. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nữ SV 
điều dưỡng chính quy năm thứ nhất và 
năm thứ hai đang học tại trường Đại học Y 
Dược Thái Bình. Sinh viên đồng ý tham gia 
nghiên cứu
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: 
Địa điểm nghiên cứu: Trường Đại học Y 
Dược Thái Bình. 
Nghiên cứu được tiến hành từ Từ 
01/2020 đến 06/2020.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
cắt ngang mô tả.
228
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.4. Cỡ mẫu: Chọn mẫu toàn bộ 199 nữ 
sinh viên điều dưỡng chính quy năm thứ 2, 
thứ 3.
2.5. Phương pháp đo lường, đánh giá
2.5.1. Công cụ thu thập số liệu
Thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi tự 
điền bao gồm 47 câu hỏi tham khảo nghiên 
cứu của tác giả Vũ Dũng (2015) [3]. Thang 
đo tự đánh giá về căng thẳng cảm xúc - 
Perceived stress scale-10 (PSS 10) này đã 
được đánh giá tính giá trị và độ tin cậy cao 
với Cronbach’s Alpha là 0,85. Thang đo áp 
lực học tập - Educational stress scale for 
Adolescents (ESSA) với Cronbach’s Alpha 
là 0,83. 
Phần A: Thông tin chung của đối 
tượng nghiên cứu: gồm 15 câu hỏi
Phần B: Đánh giá mức độ căng thẳng 
cảm xúc qua: gồm 10 câu hỏi 
Điểm số được tính từ 0 đến 40, điểm 
càng cao cho thấy mức độ căng thẳng càng 
nặng. Dưới 24 điểm: căng thẳng cảm xúc 
mức độ nhẹ; từ 24-30 điểm: căng thẳng 
cảm xúc mức độ vừa; 31-36 điểm: căng 
thẳng cảm xúc mức độ cao và 37 - 40 điểm 
căng thẳng cảm xúc có xu hướng bệnh lý .
Phần C: Đánh giá giá áp lực học tập 
của SV: gồm 10 câu hỏi theo thang điểm 
Likert. Trong đó, hoàn toàn không đồng ý 
tương ứng với 1 điểm, không đồng ý tương 
ứng với 2 điểm, không biết tương ứng với 
3 điểm, đồng ý tương ứng với 4 điểm, hoàn 
toàn đồng ý tương ứng với 5 điểm. Tổng 
điểm càng cao mức độ áp lực càng lớn. 
Tổng điểm đánh giá áp lực học tập của SV 
(điểm tối đa 50, điểm tối thiểu 10). Thực 
trạng áp lực học tập của SV sẽ chia làm 
3 nhóm: Nhóm có áp lực cao là nhóm có 
điểm từ mức 3/4 điểm tối đa trở lên (37-
50 điểm), nhóm có áp lực trung bình (25-36 
điểm), còn lại là nhóm chịu áp lực học tập ở 
mức thấp (< 25 điểm).
Phần D: Đánh giá sự hỗ trợ xã hội dành 
cho SV: gồm 12 câu hỏi theo thang điểm 
Likert
SV trả lời bằng cách khoanh tròn vào 
một trong các số 1, 2, 3, 4, 5 tương ứng với 
các phương án trả lời: rất không đồng ý, 
không đồng ý, không có ý kiến gì, đồng ý và 
rất đồng ý. Đánh giá mức độ hỗ trợ xã hội, 
hỗ trợ từ gia đình, từ bạn bè và từ những 
người khác dựa vào tổng điểm số của các 
câu tương ứng. Tổng điểm tối thiểu là 12, 
tối đa là 60 điểm. Hỗ trợ xã hội chia làm hai 
nhóm: nhóm có hỗ trợ tốt có điểm từ mức 
3/4 tổng điểm tối đa trở lên (45-60 điểm), 
còn lại là nhóm có sự hỗ trợ chưa tốt ( < 
45 điểm).
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Việc tổ chức thu thập số liệu được thực 
hiện như sau:
- Liên hệ phòng Đào tạo Đại học lấy 
danh sách SV và xem lịch học của SV.
- Liên hệ với lớp trưởng, lớp phó các lớp 
để thông báo với những SV về việc tham 
gia nghiên cứu.
- Tập trung SV theo từng lớp tại giảng 
đường vào ngày nghỉ cuối tuần. 
- Gặp trực tiếp SV, giải thích đầy đủ mục 
đích, tính bảo mật của nghiên cứu, thời gian 
cần thiết để hoàn thành một phiếu điều tra 
và trên cơ sở đó các SV có thể quyết định 
có tham gia nghiên cứu hay không.
- SV đồng ý tham gia nghiên cứu được 
tổ chức điều tra theo lớp.
- Phiếu điều tra sẽ đảm bảo bí mật quyền 
riêng tư của ĐTNC.
2.4. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi kiểm tra được nhập và 
xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Sử dụng 
phương pháp thống kê y học để phân tích, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 
3. KẾT QUẢ
3.1. Một số đặc điểm đối tượng nghiên 
cứu
Qua khảo sát 199 nữ SV điều dưỡng kết 
quả cho thấy tuổi trung bình của SV là 19,5 
(± 0,8). Tỷ lệ nữ SV điều dưỡng chính quy 
229
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
năm thứ nhất chiếm 46,2%, năm thứ hai 
chiếm 53,8%. Phần lớn SV sống ở nhà trọ 
chiếm tỷ lệ 71,9%, tỷ lệ SV sống cùng bố 
mẹ là 11,6%, có 13,5% SV sống trong ký 
túc xá và một tỷ lệ nhỏ đang sống ở nhà 
người quen (3,0%). 
Tỷ lệ SV đạt học lực khá trở lên chiếm 
35,7%. Học lực trung bình chiếm 58,8%. Tỷ 
lệ SV đạt loại giỏi chiếm 3,0%. Tuy nhiên vẫn 
còn 5,5% SV đạt học lực yếu. Trong số 199 
SV chỉ có 14,1% SV có giữ chức vụ trong 
lớp, đoàn, hội. Tỷ lệ SV đang theo học lớp 
tiếng Anh cao hơn so với lớp SV học tiếng 
Nhật (tỷ lệ tương ứng là 61,3% và 38,7%). 
SV phần lớn nhận được sự hỗ trợ tài 
chính từ bố mẹ với tỷ lệ 87,9%; có 9,1% 
SV nhận hỗ trợ từ gia đình nhưng chưa đủ 
cần tự đi làm bổ sung thêm. Có 55,3% SV 
trả lời rằng tình hình tài chính chỉ ở mức 
gần đủ, phải đắn đo khi chi tiêu, sinh hoạt. 
21,6% SV cảm thấy đủ, chỉ 7,0% chi tiêu ở 
mức thoải mái. Tuy nhiên vẫn còn 5,5% SV 
không đủ tiền đóng học phí và 10,6% không 
đủ tiền cho chi phí sinh hoạt hàng ngày. Có 
25,1% SV trả lời ngoài thời gian học ở lớp 
có tham gia đi làm thêm ở bên ngoài. 
Tỷ lệ SV tập thể dục thỉnh thoảng khi 
rảnh rỗi (≤ 3 lần/tháng) đạt 43,7%; có 9,1% 
SV luôn tập đều đặn và 9,1% không bao 
giờ tập thể dục. Đa số SV không tham gia 
các câu lạc bộ trong và ngoài trường chiếm 
tới 56,3%. Tỷ lệ SV tham gia đội/câu lạc 
bộ trong trường là 34,7% và ngoài trường 
chiếm 6%. Khi gặp khó khăn 58,8% SV nói 
rằng họ dành thời gian tâm sự với bạn bè, 
42,7% SV lựa chọn tâm sự với bố mẹ. Khi 
có thời gian rảnh rỗi phần lớn SV dành thời 
gian để nghe nhạc, đọc sách, xem tivi, chơi 
game chiếm tới 69,8%; một số khác lựa 
chọn ngủ (52,8%). 
3.2. Thực trạng căng thẳng cảm xúc của nữ SV điều dưỡng chính quy năm thứ 
nhất và năm thứ hai trường Đại học Y Dược Thái Bình
Bảng 1. Thực trạng và mức độ căng thẳng cảm xúc, áp lực học tập và 
hỗ trợ xã hội của SVĐD (n = 199)
Nội dung X ± SD Mức độ (%)
Căng thẳng cảm xúc 24,1 ± 5,8
Nhẹ Vừa Cao
46,7 32,7 20,6
Áp lực học tập 30,8 ± 7,7
Thấp Trung bình Cao
39,2 31,7 29,1
Hỗ trợ xã hội 42,5 ± 6,9
Chưa tốt Tốt
44,2 55,8
Kết quả cho thấy tổng điểm trung bình mức độ căng thẳng cảm xúc của SV là 24,1 ± 
5,8. điểm trung bình của tất cả các yếu tố gây áp lực đối với SV nói chung là 30,8 ± 7,7. 
Điểm số đánh giá về hỗ trợ xã hội nói chung đối với SV trung bình là 42,5± 6,9.
Tỷ lệ căng thẳng cảm xúc chủ yếu ở mức độ nhẹ và vừa. Căng thẳng mức độ cao 
chiếm 20,6%. Tỷ lệ SV chịu áp lực học tập mức độ thấp và trung bình lần lượt là 39,2% và 
31,7%. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ 29,1% SV chịu áp lực học tập ở mức cao. tỷ lệ hỗ trợ 
tốt ở các nhóm yếu tố hỗ trợ từ phía gia đình, bạn bè, và những người đặc biệt đối với SV 
đạt 55,8%. Tỷ lệ SV có mức hỗ trợ xã hội chưa tốt vẫn còn ở mức cao.
230
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.3. Một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc ở nữ SV điều dưỡng chính 
quy năm thứ nhất và năm thứ hai trường Đại học Y Dược Thái Bình
Bảng 2. Mối liên quan giữa căng thẳng cảm xúc và năm học, 
lớp ngoại ngữ đang theo học của SV (n = 199)
Đặc điểm chung
của ĐTNC
Tình trạng căng thẳng cảm xúc
OR
(95% CI) pMức độ nhẹ và vừa
SL (%)
Mức độ cao
SL (%)
Năm học của SV
Năm thứ nhất 72 (78,3) 20 (21,7) 0,88
(0,44 - 1,75) 0,713Năm thứ hai 86 (80,4) 21 (19,6)
Lớp ngoại ngữ đang theo học của SV
Tiếng Anh 104 (85,2) 18 (14,8) 2,46
(1,22 - 4,95) 0,01Tiếng Nhật 54 (70,1) 23 (29,9)
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi xét về yếu tố năm học của SV, nhóm SV năm thứ nhất 
có nguy cơ căng thẳng cảm xúc ở mức độ cao cao hơn so với nhóm SV năm thứ hai. Tuy 
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Tuy nhiên khi nói đến lớp ngoại ngữ đang theo học của SV, kết quả nghiên cứu cho 
chúng ta thấy, nhóm SV học lớp tiếng Nhật có nguy cơ căng thẳng cảm xúc ở mức độ cao 
cao hơn gấp 2,46 lần so với nhóm SV học lớp tiếng Anh, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05.
Bảng 3. Mối liên quan giữa căng thẳng cảm xúc và học lực của ĐTNC (n = 199)
Học lực
Tình trạng căng thẳng cảm xúc
OR
(95% CI) pMức độ nhẹ và vừa
SL (%)
Mức độ cao
SL (%)
Khá trở lên 62 (87,3) 9 (12,7) 2,29
(1,03 - 5,14) 0,039Trung bình trở xuống 96 (75,0) 32 (25,0)
Kết quả nghiên cứu tại bảng trên cho thấy nguy cơ bị căng thẳng cảm xúc ở mức độ 
cao ở nhóm SV có học lực ở mức khá trở lên chỉ bằng một nửa so với nhóm SV có học 
lực ở mức trung bình khá trở xuống. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Bảng 4. Mối liên quan giữa căng thẳng cảm xúc với yếu tố áp lực học tập (n = 199)
Áp lực 
trong học tập
Tình trạng căng thẳng cảm xúc
OR 
(95% CI) pMức độ nhẹ và vừa
SL (%)
Mức độ cao
SL (%)
Mức độ thấp 
và trung bình 118 (83,7) 23 (16,3) 2,31 
(1,13 - 4,71) 0,02
Mức độ cao 40 (69) 18 (31)
Kết quả nghiên cứu cho ta thấy nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao của nhóm 
SV chịu áp lực học tập ở mức cao cao gấp 2,31 lần so với nhóm SV chịu áp lực học tập ở 
mức thấp và trung bình. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
231
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 5. Mối liên quan giữa căng thẳng cảm xúc với các yếu tố hỗ trợ xã hội (n = 199)
Hỗ trợ xã hội
Tình trạng căng thẳng cảm xúc
OR 
(95% CI) pMức độ nhẹ và vừa
SL (%)
Mức độ cao 
SL (%)
Chưa tốt 64 (72,7) 24 (27,3) 0,48
(0,24 - 0,96) 0,04Tốt 94 (84,7) 17 (15,3)
Kết quả nghiên cứu cho ta thấy nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao của nhóm SV 
được hỗ trợ xã hội tốt chỉ bằng một nửa so với nhóm SV chịu nhận sự hỗ trợ xã hội chưa 
tốt. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
4.1. Một số đặc điểm đối tượng nghiên 
cứu
Như chúng ta đã biết, tập thể dục luôn 
được xem như là một trong những biện 
pháp không những giúp nâng cao sức khỏe 
thể chất mà còn giúp cân bằng sức khỏe về 
tinh thần, làm giảm thiểu những căng thẳng 
trong cuộc sống hàng ngày. Trong nghiên 
cứu này có 9,1% SV không bao giờ tập thể 
dục, tỷ lệ tập thể dục ở các mức độ thỉnh 
thoảng và thường xuyên lần lượt là 43,7%; 
13,1%. Mức độ thường xuyên tập thể dục 
và tập thể dục đều đặn của SV trong nghiên 
cứu này là 17,1% và 9,1 cao hơn so với 
SV trường Đại học Thăng Long (15,8% và 
8,9%) [3]. 
Đa phần SV không tham gia các câu lạc 
bộ trong và ngoài trường chiếm tới 56,3%. 
Tỷ lệ SV tham gia đội/câu lạc bộ trong 
trường là 34,7% và ngoài trường chiếm 
6%.Khi gặp vấn đề khó khăn phần lớn SV 
chọn giải pháp tâm sự với bạn bè (58,8%) 
sau đó là tâm sự với bố mẹ (42,7%), một tỷ 
lệ nhỏ 6,0 % chọn giải pháp cầu nguyện đề 
giảm bớt căng thẳng và có 2,5% SV có thói 
quen tiêu cực như hút thuốc, uống rượu 
bia. Thói quen sử dụng chất kính thích khi 
gặp khó khăn có thế không những không 
giảm được tình trạng căng thẳng mà còn 
làm tình trạng này tăng lên sau đó. Ngoài 
những thói quen trên thì có tới 21,6% SV 
có những thói quen khác khi gặp khó khăn 
như: ngủ, chơi điện tử, xem ti vi, nghe nhạc, 
chơi thể thao, đi dạo đâu đó hay đơn giản 
ngồi trong bóng tối một mình...Khi có thời 
gian rảnh rỗi phần lớn SV dành thời gian để 
nghe nhạc, đọc sách, xem tivi, chơi game 
chiếm tới 69,8%; 52,8% SV lựa chọn nghỉ 
ngơi bằng cách ngủ, 14,1% SV tham gia 
vào các hoạt động thể thao. 
4.2. Thực trạng căng thẳng cảm xúc, 
áp lực học tập và hỗ trợ xã hội của nữ 
SV điều dưỡng chính quy năm thứ nhất 
và năm thứ hai trường Đại học Y Dược 
Thái Bình
Thực trạng căng thẳng cảm xúc 
Kết quả cho thấy trung bình tổng điểm 
căng thẳng cảm xúc của nữ SV Điều 
dưỡng năm thứ nhất và năm thứ hai tại 
trường Đại học Y Dược Thái Bình là 24,1 ± 
5,8. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu 
của Vũ Dũng [3](19,49 ± 4,50). Tỷ lệ SV có 
căng thẳng cảm xúc mức độ cao là 20,6% 
, nhìn chung tỷ lệ này thấp hơn so với một 
số nghiên cứu của Phạm Thị Huyền Trang 
[4] (63,6%) và Trần Kim Trang [5] (43,1%). 
Nguyên nhân của sự khác nhau này là do 
khác nhau về ĐTNC giữa SV Y đa khoa, 
Răng hàm mặt với SV Điều dưỡng. Do 
khác nhau về đặc thù ngành học nên áp lực 
học tập đối với SV Y đa khoa, Răng Hàm 
Mặt có sự khác biệt so với SV Điều dưỡng.
Thực trạng áp lực học tập và hỗ trợ 
xã hội của SV
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy điểm 
232
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
trung bình áp lực chung của SV theo thang 
đo ESSA là 30,8 ± 7,7 điểm. Tỷ lệ SV chịu 
áp lực học tập mức độ thấp và trung bình 
lần lượt là 39,2% và 31,7%. Vẫn còn một tỷ 
lệ không nhỏ 29,1% SV chịu áp lực học tập 
ở mức cao. Kết quả cũng tương tự so với 
nghiên cứu của Vũ Dũng tại Đại học Thăng 
Long với điểm trung bình áp lực học tập là 
32,70 ± 6,12 điểm [3].
Điểm số đánh giá về hỗ trợ xã hội nói 
chung đối với SV trung bình là 42,5 (± 6,9), 
kết quả này tương tự so với nghiên cứu của 
Vũ Dũng với điểm trung bình là 43,95 (± 
7,63) [3]. Tỷ lệ hỗ trợ tốt ở các nhóm yếu tố 
hỗ trợ từ phía gia đình, bạn bè, và những 
người đặc biệt đối với SV đạt 55,8%. Tỷ lệ 
SV có mức hỗ trợ xã hội chưa tốt vẫn còn 
ở mức cao (44,2%). Trong quá trình học 
tập tại trường SV cũng có cơ hội phát triển 
các mối quan hệ với bạn bè nhiều hơn, 
cũng như nhận được sự giúp đỡ tốt hơn từ 
các tổ chức xã hội, từ các câu lạc bộ, hội 
nhóm... Trường Đại học Y Dược Thái Bình 
trong những năm vừa qua cũng đã tạo điều 
kiện hỗ trợ SV trong quá trình học tập, hàng 
năm quỹ học bổng của nhà trường và các 
đơn vị tài trợ được xây dựng và phát triển 
nhằm hỗ trợ tối đa cho SV. Tuy nhiên ở lứa 
tuổi của các em vẫn cần được sự quan tâm 
hỗ trợ rất lớn từ gia đình cả về tâm lý lẫn 
tài chính. 
4.2. Một số yếu tố liên quan đến căng 
thẳng cảm xúc ở nữ SV điều dưỡng 
chính quy năm thứ nhất và năm thứ hai 
trường Đại học Y Dược Thái Bình
Mối liên quan giữa căng thẳng cảm 
xúc và năm học của SV, lớp ngoại ngữ 
đang theo học của SV
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm SV 
năm thứ nhất có nguy cơ căng thẳng cảm 
xúc ở mức độ cao cao hơn so với nhóm SV 
năm thứ hai. Tuy nhiên sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. 
Nguyên nhân chính của sự khác biệt này 
có thể là do thay đổi môi trường học tập. 
Cụ thể SV năm thứ nhất là đối tượng lần 
đầu làm quen với môi trường Đại học nên 
sẽ có nhiều sự thay đổi và khác biệt so 
với môi trường học Phổ thông điều này sẽ 
ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng căng 
thẳng cảm xúc của từng cá nhân. Đối với 
SV năm thứ hai, đây là đối tượng đã có thời 
gian hơn một năm để làm quen và thích 
nghi với môi trường giảng dạy mới nên sự 
ảnh hưởng đến tình trạng căng thẳng cảm 
xúc của nhóm đối tượng này có phần ít hơn 
với nhóm đối tượng năm nhất.
Khi xét mối liên quan giữa lớp ngoại ngữ 
đang theo học của SV với tình trạng căng 
thẳng cảm xúc, kết quả nghiên cứu cho 
chúng ta thấy nhóm SV học lớp tiếng Nhật 
có nguy cơ căng thẳng cảm xúc ở mức độ 
cao cao hơn gấp 2,46 lần so với nhóm SV 
học lớp tiếng Anh, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05. Lý giải điều này có 
thể do nhóm SV học lớp tiếng Nhật thời 
gian học thêm ngôn ngữ nhiều kèm theo áp 
lực thi cử liên tục, SV vừa phải đạt trình độ 
ngoại ngữ theo quy định vừa phải đảm bảo 
kết quả các môn học đạt tốt từ đó áp lực 
trong học tập của SV cao hơn so với nhóm 
SV học tiếng Anh.
Mối liên quan giữa căng thẳng cảm 
xúc và học lực của ĐTNC
Kết quả nghiên cứu tại bảng trên cho 
thấy nguy cơ bị căng thẳng cảm xúc mức 
độ cao ở nhóm SV có điểm xếp loại học tập 
ở mức khá trở lên chỉ bằng một nửa so với 
nhóm SV có kết quả học tập ở mức trung 
bình khá trở xuống. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả này 
cũng tương đồng với một số nghiên cứu 
đã chỉ ra rằng có mối liên quan giữa căng 
thẳng cảm xúc với học lực của SV. Nghiên 
cứu của Wallace Dixon trên đối tượng SV 
trường đại học East Tennessee State tại 
Mỹ năm 2005 cho thấy có mối tương quan 
giữa điểm trung bình học tập và stress có ý 
nghĩa thống kê (r = 0,162, p = 0,001). Cụ thể 
điểm trung bình học tập của SV càng thấp 
thì mức độ căng thẳng của SV càng cao. 
233
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Và ngược lại nếu điểm trung bình học tập 
cao thì nguy cơ căng thẳng của nhóm SV 
này sẽ giảm đi [6]. Nghiên cứu của Curtis 
Hill trên SV trường Đại học California Los 
Angeles stated năm 2010 cho thấy điểm 
trung bình học tập là yếu tố dự báo quan 
trọng của tình trạng căng thẳng, chiếm 
20,1% của phương sai trong mô hình (R = 
0,201, p = 0,031) [8].
Mối liên quan giữa căng thẳng cảm 
xúc với yếu tố áp lực học tập
Kết quả nghiên cứu cho ta thấy nguy cơ 
căng thẳng cảm xúc mức độ cao của nhóm 
SV chịu áp lực học tập ở mức cao cao gấp 
2,31 lần so với nhóm SV chịu áp lực học tập 
ở mức thấp và trung bình. Sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Nghiên 
cứu trên đối tượng SV Đại học Y Hà Nội 
của Phạm Thị Huyền Trang cũng cho thấy 
tỷ lệ SV Y trải qua các yếu tố áp lực học tập 
đều có tỷ lệ căng thẳng trên 75%. Cụ thể 
các yếu tố áp lực học tập của SV Đại học 
Y Hà Nội đó là: việc thất vọng về điểm số, 
việc học hàng ngày có nhiều áp lực, có quá 
nhiều bài học ở trường cũng như ở nhà...
[5]. Nghiên cứu của Maria Wiklund tại Thụy 
Điển cho thấy những SV chịu yếu tố áp lực 
lớn từ trường lớp, gia đình có tới trên 70% 
có biểu hiện của căng thẳng mức độ cao 
[8]. 
Việc học tập là công việc quan trọng 
hàng đầu đối với SV. Nó là tổng hợp của 
quá trình thu nạp kiến thức, tu dưỡng thái 
độ, nhân cách và rèn luyện về kỹ năng 
để tương lai có thể làm một nhân viên y 
tế vững về chuyên môn, tốt về y đức. Tuy 
nhiên, cũng chính để đáp ứng được yêu 
cầu thực tế đó của việc học nhiều SV Y nói 
chung và SV ĐD nói riêng đã trải qua áp lực 
học tập căng thẳng, từ đó ảnh hưởng đến 
sức khỏe, lại tác động tiêu cực đến thành 
tích học tập của SV.
Mối liên quan giữa căng thẳng cảm 
xúc với các yếu tố hỗ trợ xã hội
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ 
căng thẳng cảm xúc mức độ cao của nhóm 
SV được hỗ trợ xã hội tốt chỉ bằng một nửa 
so với nhóm SV chịu nhận sự hỗ trợ xã hội 
chưa tốt. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05. Kết quả có sự tương đồng 
với kết quả nghiên cứu của tác giả Talwar P 
và cộng sự trên SV tại Malaysia năm 2013 
cũng sử dụng bộ công cụ đánh giá hỗ trợ 
xã hội (MSPSS) chỉ ra rằng có mối tương 
quan nghịch ở mức thấp giữa hỗ trợ xã hội 
và căng thẳng của SV (R= -0,43; p<0.01) 
[9]. Từ các thông tin trên chúng ta có thể 
nhận thấy khi tăng mức hỗ trợ xã hội nói 
chung cũng như tăng sự hỗ trợ từ bố mẹ, 
bạn bè, người xung quanh sẽ giúp giảm 
căng thẳng cho SV. 
Nhìn chung sinh viên điều dưỡng là một 
trong những đối tượng có nguy cơ căng 
thẳng cảm xúc khá cao. Sinh viên cần xây 
dựng cho bản thân kế hoạch học tập và sinh 
hoạt hợp lý, tăng cường sự hỗ trợ kịp thời 
của gia đình và xã hội. Những căng thẳng 
ở mức độ nhẹ và vừa cũng là một trong 
những yếu tố thúc đẩy SV nỗ lực trong quá 
trình học tập để đạt kết quả tốt hơn. Ngoài 
ra nhà trường cũng đã và đang tăng cường 
hoạt động giảng dạy, cố vấn học tập trong 
việc giúp SV xây dựng tiến trình học tập 
của bản thân cũng như các phương pháp 
giải quyết khi xảy ra căng thẳng cảm xúc 
cho SV, nâng cao liên kết với các cơ quan, 
doanh nghiệp trong và ngoài nước giới 
thiệu nhiều cơ hội việc làm cho sinh viên, 
tạo điều kiện cho SV có một môi trường học 
tập tốt nhất. 
5. KẾT LUẬN
Trung bình tổng điểm căng thẳng cảm 
xúc của nữ SV Điều dưỡng năm thứ nhất 
và năm thứ 2 trường Đại học Y Dược Thái 
Bình là 24,1 ± 5,8. Tỷ lệ SV có căng thẳng 
cảm xúc mức độ cao là 20,6%. Tỷ lệ SV 
chịu áp lực học tập mức độ cao là 29,1%. 
Tỷ lệ SV có mức hỗ trợ xã hội tốt là 55,8%. 
Tỷ lệ SV có mức hỗ trợ xã hội chưa tốt vẫn 
còn ở mức cao (44,2%). 
234
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
SV học lớp tiếng Nhật có nguy cơ căng 
thẳng cảm xúc ở mức độ cao cao hơn so 
với nhóm SV học lớp tiếng Anh, p < 0,05. 
SV có học lực trung bình khá trở xuống có 
nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao 
cao hơn so với SV có học lực khá trở lên 
với p < 0,05. Nhóm SV có áp lực học tập ở 
mức cao có nguy cơ căng thẳng cảm xúc 
mức độ cao cao hơn nhóm có áp lực học 
tập mức độ trung bình và thấp với p <0,05. 
Nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao 
của nhóm SV được hỗ trợ xã hội chưa tốt 
cao hơn so với nhóm SV nhận sự hỗ trợ xã 
hội tốt với p < 0,05. 
- Đối với bản thân: SV nên bố trí thời 
gian học cũng như xây dựng mục tiêu và 
phương pháp học tập một cách hợp lý. 
Đồng thời tích cực tham gia các hoạt động 
ngoại khóa để tăng cường sức khỏe thể 
chất và tinh thần
- Đối với gia đình SV: nên hỗ trợ SV về 
mặt kinh tế đảm bảo đủ chi trả học phí và 
sinh hoạt phí ở mức cơ bản. Đồng thời nên 
duy trì các mối quan hệ trong gia đình cũng 
như lắng nghe và sẵn sàng hỗ trợ SV khi 
gặp khó khăn trong học tập cũng như cuộc 
sống.
- Đối với nhà trường: phát triển hơn nữa 
quỹ học bổng của trường hỗ trợ cho SV có 
thành tích học tập, rèn luyện tốt cũng như 
có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Tăng 
cường sự hỗ trợ của đội ngũ cố vấn học 
tập, các tổ chức đoàn, hội trong việc giúp 
SV xây dựng tiến trình học tập của bản 
thân cũng như các phương pháp giải quyết 
khi xảy ra căng thẳng cảm xúc cho SV. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Triệu Phong (2011), “Áp lực 
học tập và một số vấn đề về sức khỏe tâm 
thần ở sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Hà 
Nội năm 2011”, Kỷ yếu NCKH - Đại học Y 
Hà Nội 2011.
2. Lý Văn Xuân, Lê Thị Châu An (2011), 
“Stress và các yếu tố liên quan ở sinh viên y 
đa khoa năm thứ nhất của đại học Y Dược 
thành phố Hồ Chí Minh năm 2011”, Tạp chí 
Y học TP Hồ Chí Minh, tập 16, số 1, tr. 
109-114.
3. Vũ Dũng (2015), “Thực trạng stress 
của sinh viên điều dưỡng năm thứ 2 và 3 
trường Đại học Thăng Long năm 2015 và 
một số yếu tố liên quan”, Kỷ yếu công trình 
khoa học năm 2015, phần II.
4. Phạm Thị Huyền Trang (2013), “Thực 
trạng stress trong sinh viên trường Đại học 
Y Hà Nội”, Kỷ yếu NCKH - ĐH Y Hà Nội 
2013.
5. Trần Kim Trang (2011), “Stress, lo âu 
và trầm cảm ở sinh viên y khoa”, Y học TP. 
Hồ Chí Minh. 16(1), tr. 356-362.
6. Wallace D, Chair Chris D and Iames 
B (2005), “Comparison of the Stress 
Levels and GPA of African American 
College Students at Historically Black and 
Predominantly White Institutions”,Yashica 
Woods.
7. Curtis Hill (2010), “School Stress, 
Academic Performance, and Coping in 
College Freshmen”, University of Northern 
Colorado Undergraduate Research Journal. 
4(2), pg. 90-97.
8. Maria Wiklund et al. (2012), “Subjective 
health complaints in older adolescents are 
related to perceived stress, anxiety and 
gender - a cross-sectional school study 
in Northern Sweden”, BMC public health, 
12(1), pg. 993-1006.
9. Talwar P, Kumaraswamy N and 
Nohd Fadzil AR (2013), “Perceived Social 
Support, Stress and Gender Differences 
among University Students”, A Cross 
Sectional Study, MJP Online Early, 22(2), 
pg. 42-49.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_cang_thang_cam_xuc.pdf