Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam

TÓM TẮT

Ở Việt Nam, tài chính vi mô không chỉ là công cụ giảm nghèo mà còn được nhìn nhận là một phần không thể

thiếu của hệ thống tài chính nhằm đảm bảo phổ cập đến các nhóm thu nhập thấp những dịch vụ an toàn, bền

vững và theo nhu cầu vốn sẵn có cho các đối tượng khác trong hệ thống. Thông qua việc phân tích thực trạng

hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam có thể thấy rằng: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc mở

rộng tiếp cận cả chiều rộng lẫn chiều sâu, vẫn còn không ít những “rào cản” hạn chế sự phát triển hoạt động tài

chính vi mô tại Việt Nam như thể chế cho hoạt động tài chính vi mô chưa hoàn thiện, môi trường cạnh tranh bất bình

đẳng hay những nguyên nhân từ chính bản thân các tổ chức tài chính vi mô như các tổ chức này còn hạn chế trong

việc xây dựng chiến lược cụ thể nhằm phát triển sản phẩm, mở rộng phạm vi hoạt động, thực tiễn quản trị kém. Để

tháo gỡ cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như tạo lập môi trường chính sách và pháp lý thuận lợi, nâng cao

năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước và của các tổ chức tài chính vi mô cũng như hỗ trợ phát triển cơ sở hạ

tầng cho ngành tài chính vi mô.

Từ khóa: Hoạt động tài chính vi mô, tổ chức tài chính vi mô, Việt Nam.

pdf 12 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam

Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam
Kinh tế & Chính sách 
 169TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 
HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM 
Đào Lan Phương1, Đào Thúy Vân2 
1Trường Đại học Lâm nghiệp 
2Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
TÓM TẮT 
Ở Việt Nam, tài chính vi mô không chỉ là công cụ giảm nghèo mà còn được nhìn nhận là một phần không thể 
thiếu của hệ thống tài chính nhằm đảm bảo phổ cập đến các nhóm thu nhập thấp những dịch vụ an toàn, bền 
vững và theo nhu cầu vốn sẵn có cho các đối tượng khác trong hệ thống. Thông qua việc phân tích thực trạng 
hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam có thể thấy rằng: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc mở 
rộng tiếp cận cả chiều rộng lẫn chiều sâu, vẫn còn không ít những “rào cản” hạn chế sự phát triển hoạt động tài 
chính vi mô tại Việt Nam như thể chế cho hoạt động tài chính vi mô chưa hoàn thiện, môi trường cạnh tranh bất bình 
đẳng hay những nguyên nhân từ chính bản thân các tổ chức tài chính vi mô như các tổ chức này còn hạn chế trong 
việc xây dựng chiến lược cụ thể nhằm phát triển sản phẩm, mở rộng phạm vi hoạt động, thực tiễn quản trị kém... Để 
tháo gỡ cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như tạo lập môi trường chính sách và pháp lý thuận lợi, nâng cao 
năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước và của các tổ chức tài chính vi mô cũng như hỗ trợ phát triển cơ sở hạ 
tầng cho ngành tài chính vi mô. 
Từ khóa: Hoạt động tài chính vi mô, tổ chức tài chính vi mô, Việt Nam. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việt Nam đã thoát khỏi “ngưỡng nghèo” và 
gia nhập nhóm thu nhập trung bình của thế giới 
từ năm 2010. Tuy nhiên, theo đánh giá của 
Ngân hàng thế giới năm 2015, Việt Nam là 
một trong 25 quốc gia có 75% dân số không 
được tiếp cận các dịch vụ tài chính; chỉ khoảng 
50% doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tiếp 
cận được vốn vay của ngân hàng. 
Tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính 
bởi tất cả mọi người hay còn gọi là tài chính 
toàn diện có ý nghĩa rất quan trọng và hữu ích 
đối với tất cả các cá nhân, doanh nghiệp, giúp 
tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao năng lực và 
bảo đảm hoạt động kinh tế của họ. Tài chính 
toàn diện cũng hỗ trợ tăng cường ổn định tài 
chính và phát triển kinh tế trên diện rộng, giúp 
đảm bảo tăng trưởng toàn diện. Tài chính toàn 
diện yếu kém có thể khiến nền kinh tế tăng 
trưởng chậm và bất bình đẳng về thu nhập kéo 
dài do nhóm thu nhập thấp chiếm phần lớn dân 
số không được tiếp cận tài chính. 
Sau gần 30 năm hoạt động tài chính vi mô 
(TCVM) ở Việt Nam đã được nhìn nhận như 
một công cụ đắc lực đóng góp đáng kể vào thành 
công của Chương trình Giảm nghèo quốc gia 
giúp nước ta đạt được tỷ lệ giảm nghèo vô cùng 
ấn tượng từ 58% vào năm 1993 xuống chỉ còn 
4,5% vào năm 2015 (Báo cáo Chính phủ trình 
Quốc hội tháng 11/2015). Thông qua việc cung 
cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính đa dạng 
như: tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, 
chuyển tiền, bảo hiểm cho các hộ nghèo và thu 
nhập thấp và các doanh nghiệp nhỏ. Tài chính vi 
mô chứng minh cho khái niệm người có thu nhập 
thấp có khả năng thoát khỏi cảnh đói nghèo nếu 
được tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Có thể 
khẳng định rằng Phát triển TCVM là tiền đề cho 
tăng cường tài chính toàn diện vì nó tập trung 
phục vụ phần đa dân số không có khả năng tiếp 
Kinh tế & Chính sách 
 170 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
cận các dịch vụ tài chính. 
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều “rào cản” hạn chế 
sự phát triển hoạt động TCVM tại Việt Nam như 
thể chế cho hoạt động TCVM chưa hoàn thiện, 
môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa các tổ 
chức tài chính vi mô (TCTCVM) hay những 
nguyên nhân từ chính bản thân các TCTCVM,... 
Vì vậy, nghiên cứu giải pháp phát triển hoạt 
động tài chính vi mô tại Việt Nam được lựa chọn 
với mục tiêu thúc đẩy hoạt động TCVM phát 
triển tương xứng với tiềm năng và là “trợ thủ 
đắc lực” cho phát triển tài chính toàn diện tại 
Việt Nam. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Phương pháp thu thập số liệu: Các thông 
tin, số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này 
được thu thập tại Báo cáo thường niên của Nhóm 
công tác TCVM các năm (2012 – 2016), báo cáo 
của ADB năm 2016 và các báo cáo chuyên 
ngành. 
- Phương pháp xử lý, phân tích số liệu: 
Nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê 
mô tả, phương pháp so sánh, phân tích và tổng 
hợp với bảng biểu 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thực trạng hoạt động tài chính vi mô 
tại Việt Nam hiện nay 
Với dân số hơn 90 triệu trong đó 65% sống ở 
nông thôn có tỷ lệ hộ nghèo chiếm 95% cả nước; 
97% số doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và 
vừa, thị trường Việt Nam là một “mảnh đất mầu 
mỡ” cho dịch vụ TCVM phát triển. Điểm khác 
biệt nhất của thị trường TCVM Việt Nam so với 
các nước khác là sự tồn tại song song hai cách 
tiếp cận do Nhà nước dẫn dắt và cách tiếp cận 
dựa vào thị trường trong cung cấp các dịch vụ 
TCVM đến các hộ nghèo và hộ gia đình nông 
thôn. Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) 
do Nhà nước sở hữu và quản lý tồn tại song song 
với 2 ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước nhưng 
hoạt động theo định hướng thị trường là Ngân 
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
(NHNo&PTNT) và Ngân hàng Hợp tác xã 
(NHHTX); cùng với 1.147 Quỹ Tín dụng Nhân 
dân (QTDND) hoạt động dựa vào các thành 
viên; 4 Tổ chức Tài chính vi mô (TCTCVM) 
được cấp phép; khoảng 50 chương trình/dự án tài 
chính vi mô (DA/CTTCVM) bán chính thức lớn, 
và trên 250 dự án tài chính vi mô (DATCVM) 
nhỏ hơn. Các TC/CT/DATCVM chủ yếu do các 
tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, các quỹ xã hội 
của chính quyền địa phương và các nhà tài trợ sở 
hữu hoặc hỗ trợ. 
Quá trình phát triển thị trường TCVM Việt 
Nam bắt đầu bằng sự thay đổi lý luận từ quan 
điểm truyền thống về TCVM như là một công cụ 
giảm nghèo thông qua cung cấp tín dụng cho 
người nghèo sang quan điểm cấp tiến rằng 
TCVM là một phần không thể thiếu của hệ thống 
tài chính nhằm đảm bảo phổ cập đến các nhóm 
thu nhập thấp những dịch vụ an toàn, bền vững 
và theo nhu cầu vốn sẵn có cho các đối tượng 
khác trong hệ thống. Tuy nhiên, các sản phẩm tài 
chính dành cho các nhóm thu nhập thấp vẫn chủ 
yếu là tín dụng, thông qua các chương trình cho 
vay chính sách xã hội được trợ cấp của 
NHCSXH, tiết kiệm bắt đầu được triển khai 
nhưng vẫn ở quy mô nhỏ. Các dịch vụ thanh 
toán, chuyển tiền và bảo hiểm vi mô chưa phát 
triển đầy đủ. Có thể thấy được thị trường TCVM 
đang phát triển của Việt Nam qua việc cung cấp 
các dịch vụ sau: 
Kinh tế & Chính sách 
 171TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
Dịch vụ tín dụng vi mô: Tại Điều 7, Thông tư 
số 07/2009/TT-NHNN có quy định: Tổng dư nợ 
cho vay của tổ chức tài chính quy mô nhỏ đối với 
một khách hàng tài chính quy mô nhỏ không 
được vượt quá 30 triệu đồng. Theo đó, tín dụng 
vi mô tại Việt Nam được hiểu là những khoản tín 
dụng với giá trị không lớn hơn 30 triệu đồng. 
Mức độ mở rộng tiếp cận theo chiều rộng tính 
trên cả quy mô giá trị dịch vụ và số lượng khách 
hàng của ngành TCVM Việt Nam là rất ấn tượng 
(bảng 1), trong đó hai ngân hàng thuộc sở hữu 
nhà nước là NHCSXH và NHNNo&PTNT vẫn 
thu hút tới 79% trong tổng số khách hàng vi mô 
và 86% dư nợ cho vay vi mô tính tới cuối năm 
2015. NHCSXH tiếp tục chiếm ưu thế nổi bật 
trong cung cấp tín dụng vi mô với khoảng 6,9 
triệu người đi vay vi mô (chiếm71% thị phần), 
và dư nợ cho vay ở mức 6,25 tỷ USD (chiếm 
77% thị phần) tính tới cuối năm 2015. Tiếp theo 
là NHNo&PTNT và Hệ thống QTDND. Tính 
đến cuối năm 2015, hệ thống QTDND hiện có 
1,2 triệu khách hàng vay vi mô (chiếm 12% tổng 
thị phần) và dư nợ tín dụng vi mô ở mức 1,67 tỷ 
USD (chiếm 19% thị phần). 
Bảng 1. Tổng quan về số lượng khách hàng và dư nợ ngành tài chínhvi mô Việt Nam, 2013 -2015 
Nguồn: (ADB, 2016) và tính toán của tác giả 
Thị phần khách hàng của tất cả các TCTCVM 
được cấp phép và các CT/DATCVM chưa được 
cấp phép mặc dù bằng với NHNNo&PTNT ở 
mức 8%, nhưng dư nợ cho vay chỉ chiếm con số 
rất nhỏ là 2% thị trường. Tuy nhiên, các hoạt 
động của các TC/CT/DATCVM đã phát triển 
nhanh chóng trong những năm gần đây dưới sự 
hỗ trợ của Chính phủ và trợ giúp của ADB. Có 
thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng của các 
TC/CT/DATCVM về số lượng khách hàng cũng 
như dư nợ cho vay còn rất chậm, cho thấy các 
TC/CT/DATCVM còn hoạt động rất yếu ớt trên 
thị trường TCVM. Đối với hầu hết các 
TCTCVM, đặc biệt là các TCTCVM mới thành 
lập, hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế một 
phần là do ảnh hưởng của quy mô tiết kiệm nhỏ 
và nguồn tài trợ không nhiều. 
Dịch vụ tiết kiệm: So với sản phẩm tiết kiệm 
tại các NHTM thì số lượng sản phẩm tiết kiệm vi 
mô không đa dạng nhưng mang nhiều đặc tính 
riêng để phục vụ đối tượng nghèo, thu nhập thấp. 
Các TCTCVM cung cấp 2 loại tiết kiệm chính là 
tiết kiệm bắt buộc (chỉ có các TCTCVM mới áp 
dụng hình thức này, đây là một dạng đảm bảo 
Tổ chức 
Số lượng khách hàng vay vốn (triệu) Dư nợ cho vay (triệu USD) 
2013 2014 2015 
% trên 
tổng 2015 
2013 2014 2015 
% trên 
tổng 2015 
NHCSXH 6,98 6,9 6,9 71% 5.350 6.093 6.256 70% 
NHNo&PTNT 1,49 0,93 0,78 8% 1.390 945 767 9% 
QTDND/NHHTX 1,12 1,23 1,2 12% 1.262 1.477 1.673 19% 
Các TC/CT/DA 
TCVM 
0,77 0,8 0,8 8% 189 198 198 2% 
Tổng cộng 10,09 10,42 9,68 100% 8.223 8.713 8.894 100% 
Kinh tế & Chính sách 
 172 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
tăng tính liên kết và trách nhiệm giữa các thành 
viên tham gia) và tiết kiệm tự nguyện. Chính 
sách tiết kiệm không hạn chế mức cho dù chỉ là 
vài nghìn đồng nhưng phải gửi thường kỳ tại 
buổi họp nhóm/cụm nhằm tạo ý thức, thói quen 
và nghị lực thực hiện. Ngoài ý nghĩa thông 
thường này, tiết kiệm còn là điều kiện để thành 
viên tiếp cận được vốn vay. Sau một thời gian 
gửi tiền thành viên sẽ được vay vốn với mức cao 
gấp nhiều lần số dư tiết kiệm. Mức tiết kiệm bắt 
buộc tùy thuộc cách tính của mỗi tổ chức, thông 
thường theo giá trị khoản vay (từ 1 - 1,5%) hoặc 
theo giá trị tuyệt đối đóng góp hàng tháng (3 - 10 
nghìn đồng). Hoạt động huy động tiết kiệm vi 
mô hiện tại còn tương đối nhỏ bé so với tín dụng. 
Trong số các TCTCVM, chỉ có 4 TCTCVM 
chính thức là TYM, M7-MFI, TCVM Thanh 
Hóa và mới đây là CEP được phép huy động tiết 
kiệm tự nguyện một cách rộng rãi từ dân cư 
(theo Luật các TCTD 2010). Các TCTCVM bán 
chính thức huy động tiết kiệm rất hạn chế chủ 
yếu dưới hình thức tiết kiệm bắt buộc. Khoản tiết 
kiệm bắt buộc thường được xem như là khoản 
đảm bảo một phần cho khoản vay vi mô của 
khách hàng và chỉ được rút ra khi đã thanh toán 
đầy đủ các khoản vay. Dịch vụ tiết kiệm tự 
nguyện cũng chỉ được các TCTCVM NGO cung 
cấp một cách hạn chế vì các tổ chức này có mạng 
lưới hoạt động nhỏ, nguồn vốn hoạt động chủ 
yếu là nguồn tài trợ miễn phí hoặc chi phí thấp từ 
bên ngoài nên không thể cạnh tranh trong việc 
thanh toán theo lãi suất thị trường cho các khoản 
tiết kiệm. 
NHCSXH huy động tiết kiệm tự nguyện từ 
dân cư và phân chia danh mục sản phẩm tiết 
kiệm thành 3 loại: tiết kiệm không kỳ hạn, tiết 
kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm cho người nghèo. 
Tuy về bản chất cả 3 loại tiết kiệm này vẫn chỉ 
thuộc 2 nhóm: tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm 
không kỳ hạn nhưng sự phân loại trên nhằm mục 
đích phân biệt 3 loại sản phẩm có đặc tính khác 
nhau về phương thức, thời hạn hay đối tượng 
khách hàng. Trước năm 2009, NHCSXH chỉ 
triển khai cung cấp sản phẩm tiết kiệm tự nguyện 
kỳ hạn và không kỳ hạn, trong đó, người dân sẽ 
phải đến trực tiếp gửi tiết kiệm tại trụ sở của 
ngân hàng và số tiền tối thiểu gửi là 100.000 
VND. Năm 2009, Ngân hàng Chính sách xã hội 
(NHCSXH) lần đầu tiên triển khai sản phẩm tiết 
kiệm cho người nghèo thông qua Tổ tiết kiệm và 
vay vốn. Sản phẩm tiết kiệm này cho phép người 
dân nghèo được gửi tiền tiết kiệm với những 
khoản tiền nhỏ (từ 1.000 đồng) và có thể gửi trực 
tiếp tại các tổ tiết kiệm - vay vốn tại địa phương 
cho tổ trưởng hoặc nhân viên của NHCSXH mà 
không cần phải giao dịch tại trụ sở ngân hàng 
như trước. 
Bảng 2 cho thấy, NHCSXH dẫn đầu số lượng 
khách hàng gửi tiết kiệm, với 6 triệu người, 
chiếm 70% thị phần. Tuy nhiên, tổng lượng tiền 
gửi chỉ đứng vị trí số 2, với 12% thị phần, xếp 
sau hệ thống các Quỹ TDND với 70% thị phần 
tiền gửi. Các TC/CT/DA TCVM có thị phần 
không đáng kể trên thị trường tiết kiệm vi mô xét 
cả về số lượng khách hàng (chiếm 7%) và quy 
mô tiền gửi (chiếm 2%). Các TCTCVM được 
cấp phép cung cấp các dịch vụ tiết kiệm nhưng 
sức cạnh tranh không cao do chi phí vận hành 
tương đối lớn. Trong khi đó, các CT/DA TCVM 
bán chính thức cũng huy động khoản tiết kiệm 
nhỏ chủ yếu thông qua các hình thức tiền gửi bắt 
buộc mà chỉ có thể được rút khi khách hàng trả 
đủ các khoản nợ. 
Kinh tế & Chính sách 
 173TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
Bảng 2. Tổng quan về tiết kiệm vi mô chính thức ở Việt Nam 
(Đơn vị: triệu) 
Tổ chức 
Số khách hàng tiết kiệm vi mô Tổng lượng tiền gửi (USD) 
2013 2014 2015 
% trên 
tổng 2015 
2013 2014 
2015 
% trên 
tổng 2015 
NHCSXH 6,88 5,4 6 70% 133 147 341 12% 
NHNo&PTNT 1,05 1,05 0,4 5% 1.164 1.164 206 7% 
NHHTX/Các QTDND 1,23 1,44 1,2 14% 22,9 1.837 2.018 70% 
Công ty TKBĐ/LPB) 0,31 0,32 0,33 4% 204 241 267 9% 
Các TCTCVM (chính thức 
& bán CT) 
0,56 0,62 0,62 7% 48 48 
48 2% 
Tổng 9,73 8,83 8,55 100% 1.381,5 3.437 2.880 100% 
Nguồn: (ADB, 2016) và tính toán của tác giả 
Dịch vụ bảo hiểm: Bảo hiểm vi mô có nguồn 
gốc từ TCVM và đã được triển khai độc lập với 
chương trình TCVM từ cuối những năm 90 tại 
Việt Nam. Mặc dù nhiều hộ gia đình nông thôn 
vẫn còn hiểu sai về bảo hiểm vi mô, hoạt động 
này hiện nay đã được công nhận là quan trọng và 
là một loại hình bảo vệ xã hội đối với người 
nghèo, nhóm người dễ bị tổn thương nhất sau 
các cú sốc kinh tế gây ra do chết chóc, bệnh tật 
và mất mát tài sản. Các cơ chế đối phó thông 
thường của các hộ nghèo chống chọi với những 
thay đổi trong cuộc sống - chẳng hạn như dựa 
vào tiền tiết kiệm, vay và/hoặc bán tài sản - có 
thể đẩy họ vào tình cảnh nghèo hơn mà không có 
các biện pháp bảo vệ rủi ro với giá cả phải chăng 
và dễ dàng tiếp cận như bảo hiểm vi mô. 
Theo báo cáo của Cục Quản lý và Giám sát 
Bảo hiểm - Bộ Tài chính năm 2015, tại Việt 
Nam chưa có khái niệm pháp lý trong các luật 
bảo hiểm hiện tại về bảo hiểm vi mô và bảo hiểm 
cho khách hàng thu nhập thấp do các sản phẩm 
bảo hiểm được phân loại theo các hoạt động bảo 
hiểm (tức là nhân thọ và phi nhân thọ), chứ 
không theo phân đoạn thị trường. Một vài công 
ty bảo hiểm cung cấp sản phẩm thiết kế đặc biệt 
cho các nhóm khách hàng thu nhập thấp. Khách 
hàng, kể cả người nghèo, có thể tự do lựa chọn 
sản phẩm dựa trên nhu cầu. Đáng chú ý nhất là 
Công ty CP Bảo hiểm Bảo Việt Nhân Thọ, cung 
cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chi phí 
thấp, bảo hiểm vật nuôi và bảo hiểm sức khỏe. 
Các công ty khác như AIA chuyên môn hóa 
trong cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ tín 
dụng theo các hợp đồng đại lý với các ngân 
hàng. Prudential có sản phẩ ... c dịch 
vụ phi tài chính của các TCTCVM tập trung chủ 
yếu vào các dịch vụ: hỗ trợ sinh kế, đào tạo nâng 
cao năng lực, đào tạo về giới và môi trường 
Mặc dù mạng lưới hoạt động không thể bằng các 
tổ chức lớn cung cấp TCVM chính thức 
(NHNo&PTNT, NHCSXH và QTDND), nhưng 
chính các dịch vụ phi tài chính này đã giúp cho 
các TCTCVM ngày càng dành được sự tín 
nhiệm từ phía khách hàng. Có thể kể đến dịch vụ 
phi tài chính ở một số TCTCVM tiêu biểu như: 
TYM, CEP. Các hoạt động phi tài chính của 
TYM bao gồm: đào tạo, nâng cao năng lực cho 
thành viên, tổ chức các hoạt động xã hội và phát 
triển. TCTCVM CEP thì bên cạnh việc cung cấp 
các dịch vụ tài chính cho khách hàng, CEP còn 
cung cấp dịch vụ phát triển cộng đồng, dịch vụ 
này được thiết kế nhằm nâng cao sự tác động của 
các dịch vụ tài chính đến vấn đề an sinh của các 
khách hàng. Những dịch vụ đó như là cung cấp 
kiến thức về giáo dục sức khoẻ, vệ sinh môi 
trường, kiến thức tự quản lý về tài chính, lập cân 
đối ngân sách, những hỗ trợ lương thực, thực 
Kinh tế & Chính sách 
 176 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
phẩm. Theo báo cáo kết quả khảo sát của 
Worlbank năm 2012, thông qua quá trình khách 
hàng tham gia vào các hoạt động do các 
TCTCVM triển khai với mục đích giúp khách 
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay như xây 
dựng và vận hành các tổ nhóm, tham gia các lớp 
học về tài chính, các buổi tập huấn về kiến thức 
nông nghiệp, kiến thức kinh doanh, bình đẳng 
giới đã giúp cho họ có những thay đổi lớn về 
kiến thức cũng như vị thế xã hội. Hầu hết khách 
hàng đều đánh giá cao về các lợi ích xã hội mà 
các dịch vụ phi tài chính lại. Họ thấy mình hiểu 
biết hơn, tự tin hơn, tham gia nhiều hơn vào các 
hoạt động cộng đồng, chất lượng cuộc sống do 
đó cũng được nâng lên. 
Có thể thấy rằng ngành TCVM Việt Nam đã 
có những động thái tích cực để thực hiện mục 
tiêu phát triển đồng hành cùng cả hệ thống tài 
chính nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược quốc 
gia về tài chính toàn diện. Tuy nhiên, để TCVM 
có thể phát triển tương xứng với tiềm năng và là 
“trợ thủ” đắc lực cho tài chính toàn diện tại Việt 
Nam thì cần phải có nhiều giải pháp và chương 
trình hành động cụ thể hơn nữa từ phía các cơ 
quan quản lý Nhà nước cũng như từ chính bản 
thân các tổ chức TCVM. 
3.2. Đánh giá chung về hoạt động tài chính 
vi mô tại Việt Nam 
3.2.1. Những kết quả đạt được 
Mặc dù ngành TCVM Việt Nam còn chưa 
phát triển tương xứng với tiềm năng, vẫn có 
những “điểm sáng” là cơ sở tiền đề cho TCVM 
Việt Nam phát triển đồng hành cùng cả hệ thống 
tài chính nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược 
quốc gia về tài chính toàn diện trong thời gian 
tới. Nhìn chung các tổ chức TCVM Việt Nam có 
mức độ tiếp cận tương đối tốt kể cả về chiều 
rộng cũng như chiều sâu. 
Về chiều rộng, các TCTCVM được phân bổ 
rộng khắp 64 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó, 
nhiều tổ chức có mạng lưới hoạt động vượt ra 
khỏi phạm vi một địa phương, vùng miền. Một 
số TCTCVM triển khai chính thức hóa hoặc tăng 
thêm chi nhánh để mở rộng hoạt động. Số lượng 
các sản phẩm, dịch vụ tài chính và phi tài chính 
được đa dạng hóa và thiết kế cho phù hợp với 
các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau của 
TCVM. Vì vậy, số lượng khách hàng, dư nợ tín 
dụng đã tăng lên so với những năm trước. 
Về chiều sâu, các TCTCVM Việt Nam đã 
vươn đến nhóm khách hàng yếu thế bao gồm 
phụ nữ và người nghèo tương đối tốt. 
3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân 
* Hạn chế: 
Có thể thấy rằng mặc dù có nhiều cố gắng 
nhưng các TCTCVM Việt Nam còn hoạt động 
khá yếu ớt trên thị trường. Mức độ bền vững 
chưa cao, khả năng cạnh tranh với các định chế 
tài chính khác còn nhiều hạn chế: 
- Mức độ tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài 
chính còn rất thấp so với tiềm năng của Việt 
Nam. 
- Các TCTCVM chiếm thị phần nhỏ bé so với 
các tổ chức lớn của Nhà nước (NHCSXH và 
NHNo&PTNT). 
- Sản phẩm tài chính cung cấp còn kém đa 
dạng , chủ yếu là tín dụng vi mô và tiết kiệm vi 
mô. Trong đó, hoạt động tín dụng vi mô vẫn là 
Kinh tế & Chính sách 
 177TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
hoạt động cốt lõi. Sản phẩm bảo hiểm vi mô đã 
bước đầu được triên khai thực hiện. Tuy nhiên, 
hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm tài 
chính cũng như quy mô còn nhiều hạn chế. 
NHCSXH và các TCTCVM được cấp phép đã 
triển khai các sản phẩm bảo hiểm trên cơ sở liên 
kết với các công ty bảo hiểm thương mại nhưng 
quy mô vẫn còn hạn chế, sự hợp tác còn ít vì các 
công ty bảo hiểm chưa mặm mà với các sản 
phẩm bảo hiểm này do nguồn thu không đáng 
kể. Tuy nhiên, với gần 70% dân số sống ở khu 
vực nông thôn, nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm là 
rất lớn và không thể bỏ ngỏ thị trường do những 
lợi ích an sinh xã hội mà bảo hiểm mang lại là 
hết sức cần thiết. 
- Khả năng huy động vốn từ nguồn tiết kiệm 
của công chúng và các nguồn khác còn rất nhiều 
hạn chế. Đối với các TCTCVM được cấp phép 
có khả năng huy động tiết kiệm tương đối rộng 
rãi. Tuy nhiên, đối với các TCTCVM bán chính 
thức thì khả năng huy động theo quy định còn 
nhiều khó khăn. 
- Đối với các sản phẩm phi tài chính như giáo 
dục tài chính, đào tạo của các TCTCVM rất 
hiệu quả nhưng rất khó khăn trong việc trang trải 
chi phí hoạt động. Điều này sẽ ảnh hưởng đến 
khả năng tồn tại bền vững lâu dài của các 
TCTCVM. 
- Hệ thống quản trị thông tin, mô hình hoạt 
động chưa đáp ứng được khả năng đảm bảo giảm 
thiểu rủi ro hoạt động. 
- Quá trình chuyển đổi các tổ chức còn diễn ra 
chậm. 
* Nguyên nhân: 
- Nguyên nhân từ các tổ chức cung cấp dịch 
vụ TCVM: 
+ Các TCTCVM bán chính thức vừa bị hạn 
chế do quy định, vừa tự hạn chế phạm vi hoạt 
động (về mặt địa lý và thành viên), dẫn đến hạn 
chế sự tăng trưởng và hoạt động của các tổ chức 
này. Có nhiều TCTCVM nhỏ chưa có chiến lược 
cụ thể cũng như chưa cho phép phát triển sản 
phẩm vay vốn để cho vay lại. Đây cũng là 
nguyên nhân khiến cho các TCTCVM chưa lấp 
đầy được khoảng trống khi ngân hàng không tiếp 
cận được với khách hàng. Mặt khác, do còn 
nhiều hạn chế về vốn, về nhân lực và về công 
nghệ đã ảnh hưởng lớn đến khả năng mở rộng 
khách hàng TCVM. 
+ Thực tiễn quản trị kém, hệ thống quản lý 
thông tin và áp dụng các chuẩn mực kế toán thấp 
chưa đáng ứng được yêu cầu về an toàn hoạt 
động của TCTCVM. 
- Nguyên nhân từ môi trường pháp lý 
Cơ chế chính sách chưa hoàn thiện và sự bất 
cập của cơ chế hiện tại đang ảnh hưởng đến 
hoạt động của các TCTCVM như: 
+ Về cơ chế tiếp nhận vốn vay nước ngoài, 
nhiều TCTCVM quy mô vừa và nhỏ đang không 
thể vay và trả nợ nước ngoài do vướng mắc trong 
cơ chế vay vốn từ các tổ chức và cá nhân bằng 
ngoại tệ. 
+ Thiếu các thiết chế hỗ trợ, chẳng hạn các 
dịch vụ tư vấn kỹ thuật, các quy định về chất 
lượng và tiêu chuẩn, các dịch vụ thu nhập, tổng 
hợp dữ liệu, các tổ chức kiểm toán/xếp hạng có 
kinh nghiệm về TCVM. 
+ Trần lãi suất do ngân hàng trung ương định 
ra ảnh hưởng lớn đến ngành TCVM. 
Kinh tế & Chính sách 
 178 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
+ Khung pháp lý cho hoạt động chuyển đổi 
TCTCVM còn chưa thông thoáng như yêu cầu 
cao về vốn pháp định để gia nhập thị trường, thủ 
tục giấy tờ phiền hà, các hạn chế về sở hữu. 
- Nguyên nhân khác: 
+ Thiếu một hệ thống thông tin tín dụng có 
chứa dữ liệu của TCTCVM 
+ Thị trường TCVM Việt Nam còn do các 
ngân hàng nhà nước thống lĩnh và chưa mang 
tính cạnh tranh. Hoạt động cho vay trợ cấp của 
NHCSXH đang bóp méo thị trường hoạt động 
TCVM, sự cạnh tranh của các loại hình tổ chức 
tín dụng khác. 
+ Sau năm 2010 Việt Nam trở thành nước có 
thu nhập trung bình cùng với khủng hoảng kinh 
tế thế giới những năm gần đây đã khiến cho các 
nguồn tài trợ cho hoạt động TCVM giảm dần. 
+ Ngân sách quốc gia suy giảm nhiều năm 
liền đã ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn cho ngành 
TCVM. 
+ Các Ngân hàng thương mại không mặn mà 
khi cho vay đối với các TCTCVM kể cả 
TCTCVM chính thức do các tổ chức này không 
có tài sản thế chấp. 
3.3. Một số giải pháp phát triển hoạt động 
tài chính vi mô tại Việt Nam 
Việt Nam còn thua xa nhiều nước trong khu 
vực trong tiến trình thúc đẩy tài chính toàn diện. 
TCVM lại là nền tảng cho tài chính toàn diện tại 
Việt Nam. Vì vậy, để phát triển hoạt động 
TCVM hướng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam 
cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: 
Thứ nhất, cần tạo lập môi trường chính sách 
và pháp lý thuận lợi để hỗ trợ phát triển thị 
trường TCVM theo hướng thị trường và thúc đẩy 
tài chính toàn diện nhằm tạo sân chơi bình đẳng 
để mở rộng sự lựa chọn nhà cung cấp và dịch vụ 
TCVM cho khách hàng. Hiện nay, thị trường 
TCVM vẫn còn có sự can thiệp của Chính phủ 
và thống lĩnh thị trường thông qua NHCSXH và 
còn thiếu các quy định liên quan đến sự phát 
triển dịch vụ của TCVM, tài chính toàn diện như 
quy định đối với các dịch vụ tài chính số giúp 
giảm chi phí, mở rộng khả năng tiếp cận và phát 
triển dịch vụ: bảo đảm bảo vệ quyền lợi và an 
toàn của khách hàng hay Luật Bảo hiểm không 
đưa ra định nghĩa về bảo hiểm vi mô Vì vậy, 
đây được coi là giải pháp quan trọng cần phải 
được thực hiện trước tiên để “cởi trói” cho ngành 
TCVM qua đó giúp cho TCVM có thể phát triển 
bền vững theo định hướng thị trường, là “hạt 
nhân” quan trọng thúc đẩy tài chính toàn diện tại 
Việt Nam. 
Thứ hai, cần tăng cường củng cố năng lực 
quản lý giám sát TCVM của các cơ quan quản lý 
nhà nước. Sự phát triển nhanh chóng của các 
dịch vụ tài chính số đã tạo ra nhiều lỗ hổng trong 
công tác giám sát. Vì vậy, cần tăng cường kỹ 
năng cũng như năng lực của các cơ quan quản lý 
để đáp ứng sự phát triển mới nhất của các dịch 
vụ tài chính số. Cụ thể: xây dựng văn bản hướng 
dẫn giám sát hoạt động TCVM; đào tạo cán bộ 
quản lý giám sát, thanh tra của NHNN, Bộ Tài 
chính đối với các TCTCVM; tái cơ cấu để xây 
dựng đội ngũ thanh tra giám sát có trình độ và 
giàu kinh nghiệm phụ trách hoạt động TCVM. 
Các TCTCVM và QTDND phải tuân thủ các 
quy định về bảo đảm an toàn theo các tiêu chuẩn 
quốc tế và giám sát tài chính để đảm bảo tính ổn 
định của tổ chức và bảo vệ khách hàng gửi tiền. 
Kinh tế & Chính sách 
 179TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
Quy trình thủ tục và việc thực hành giám sát cần 
được xây dựng phù hợp với đặc tính riêng của 
hoạt động TCVM. 
Thứ ba, cần tăng cường năng lực các tổ chức 
tín dụng hoạt động TCVM, tạo điều kiện cung 
cấp dịch vụ toàn diện, bền vững, giá cả phù hợp 
và đáp ứng nhu cầu khách hàng thu nhập thấp. 
Hoạt động trong một thị trường phân đôi (theo 
định hướng nhà nước và cơ chế thị trường) và 
sân chơi bình đẳng, năng lực của các TCTCVM 
còn hạn chế hoặc yếu kém như NHCSXH tiếp 
tục phụ thuộc vào nguồn vốn Chính phủ với 
gánh nặng tài chính không bền vững và ngày 
càng tăng. Ngân hàng HTX và hệ thống QTDND 
với mức tăng trưởng chậm về độ tiếp cận, nguồn 
lực và dịch vụ, chưa phát huy hết tiềm năng sẵn 
có. Vai trò của các tổ chức, CT/DA TCVM vẫn 
rất thấp dù có tiềm năng lớn do mối quan hệ thị 
trường. Vì vậy, trong thời gian tới cần chuyển 
đổi NHCSXH thành một tổ chức tài chính có khả 
năng tự vững cao và hoạt động theo cơ chế thị 
trường; tăng cường năng lực hoạt động của 
QTDND thông qua hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài 
chính để hệ thống QTDND trở thành các tổ chức 
tài chính do thành viên làm chủ dựa vào cộng 
đồng với hiệu quả hoạt động cao hơn; . 
Thứ tư, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho 
ngành TCVM hướng tới tài chính toàn diện. Mặc 
dù cơ sở hạ tầng cho Ngành đã được xây dựng 
nhưng chưa đạt được tiềm năng đầy đủ. Trung 
tâm TCVM Học viện Ngân hàng chưa đạt được 
vai trò là trung tâm kiến thức cho Ngành. Hệ 
thống trao đổi thông tin tín dụng vi mô được thiết 
lập tại Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) 
nhưng mức độ sử dụng còn thấp. Cần nâng cao 
hiểu biết về tài chính; nhận thức về các nguyên 
tắc và mục tiêu của tài chính toàn diện cho các 
tổ chức. 
IV. KẾT LUẬN 
Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt 
động TCVM tại Việt Nam có thể thấy rằng: Bên 
cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn 
tại không ít những “rào cản” đối với sự phát triển 
hoạt động TCVM tại Việt Nam. Vì vậy, để thúc 
đẩy hoạt động TCVM tại Việt Nam phát triển thì 
phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: cần 
tạo lập môi trường chính sách và pháp lý thuận 
lợi để hỗ trợ phát triển thị trường TCVM theo 
hướng thị trường, tăng cường củng cố năng lực 
quản lý giám sát TCVM của các cơ quan quản lý 
nhà nước, cần tăng cường năng lực các tổ chức 
tín dụng hoạt động TCVM và hỗ trợ phát triển cơ 
sở hạ tầng cho ngành TCVM. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ADB. (2016). Việt Nam tăng tốc phát triển khu 
vực tài chính vi mô hướng tới tài chính toàn diện. Hà 
Nội: Nhóm tư vấn ADB TA 8587- VIE. 
2. Chính Phủ (2015). Báo cáo của Chính Phủ trình 
Quốc hội, tháng 11/2015. 
3. HPN. (2015). Báo cáo khảo sát hoạt động của các 
TCTCVM, quỹ xã hội, chương trình dự án hoạt động 
TCVM thuộc HLHPN Việt Nam. Hà Nội: Báo cáo nội bộ 
cung cấp cho đoàn tư vấn ADB về TCVM. 
4. Nhóm công tác tài chính vi mô (2012 – 2016). 
Báo cáo thường niên về hoạt động của các tổ chức tài 
chính vi mô Việt Nam. 
5. NHNN – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015). 
Báo cáo Kết quả Kiểm tra, Giám sát, Tái cơ cấu và Quản 
lý Nợ xấu năm 2015 và một số nhiệm vụ chính năm 
2016. Báo cáo Hội nghị tổng kết năm ngành Ngân hàng 
số 350/BC-NHNN ngày 24/12/2015. 
Kinh tế & Chính sách 
 180 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
SITUATION AND SOLUTION FOR IMPROVING MICROFINANCE 
IN VIETNAM 
Dao Lan Phuong1, Dao Thuy Van2 
1Vietnam National University of Forestry 
2State bank of Vietnam 
SUMMARY 
Microfinance is not only poverty reduction tool but also considered as an integral part of the financial system in 
Viet Nam to ensure low income households can access sustainable and safe financial services, other objects can 
approach available fund in the system. Through the analysis of the real situation of microfinance operations in 
Vietnam, it can be seen that besides the achievements gained in broadening the access to both breadth and 
depth, there are still many "barriers" to limiting the development of microfinance operations in Vietnam as 
institutional arrangements for inadequate microfinance, unfair competitive environment or the causes 
themselves of microfinance institutions such as these organizations Limited in the development of specific 
strategies for product development, expansion of scope of activity, poor governance practices In order to 
solve these problems, it is important to implement several solutions at the same time such as: creating 
favourable legal enviroment and policy, enhancing the administrative capacity of administrative state 
organizations and microfinance institution as well as supporting microfinance infrastructure development. 
Keywords: Microfinance activities, microfinance institutions, Viet Nam. 
Ngày nhận bài : 12/5/2017 
Ngày phản biện : 10/8/2017 
Ngày quyết định đăng : 02/10/2017 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_giai_phap_phat_trien_hoat_dong_tai_chinh_vi_mo.pdf