Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước

kiểm toán nhà nước Khu vực VI được thành lập từ năm 2007. Trải qua hơn 10 năm hình thành và phát triển, bên cạnh các cuộc kiểm toán “truyền thống”, đơn vị đã tiến hành thực hiện nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề với kết quả đáng ghi nhận. Bài viết giới thiệu sơ bộ về các cuộc kiểm toán chuyên đề của KTNN Khu vực VI cũng như những khó khăn, hạn chế và

đề ra giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán chuyên đề thời gian tới.

pdf 10 trang phuongnguyen 5720
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước
19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
THÖÏC TRAÏNG VAØ GIAÛI PHAÙP NAÂNG CAO CHAÁT LÖÔÏNG 
KIEÅM TOAÙN CHUYEÂN ÑEÀ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC
1. Công tác tổ chức kiểm toán chuyên đề của 
kTNN khu vực VI thời gian qua
Từ khi thành lập năm 2007, KTNN khu vực 
VI đã tham gia thực hiện những cuộc kiểm toán 
chuyên đề do ngành xây dựng kế hoạch như: 
Những cuộc kiểm toán lồng ghép (Chuyên đề Công 
tác đầu tư, mua sắm, quản lý, sử dụng thuốc, vật tư 
y tế, trang thiết bị y tế tại một số địa phương, bộ, 
ngành; Chương trình MTQG về nông thôn mới; 
Việc quản lý, sử dụng đất dự án khu đô thị tại các 
địa phương; Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà 
ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg); bên cạnh 
đó còn có những cuộc kiểm toán tập trung nguồn 
lực toàn ngành mà KTNN Khu vực VI cùng tham 
gia (Chuyên đề Công tác phát hành, quản lý và sử 
dụng vốn Trái phiếu Chính phủ; Chương trình 
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các 
huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP; 
Kiểm toán Chuyên đề công tác quản lý và sử dụng 
kinh phí NSNN đầu tư cho hoạt động Khoa học và 
Công nghệ; Kiểm toán Chương trình MTQG Việc 
làm và Dạy nghề; Chuyên đề việc giao đất có thu 
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất Khu đô thị và việc 
thực hiện các dự án giao đất; Chuyên đề công tác 
quản lý, hoàn thuế GTGT...).
Kiểm toán chuyên đề không phải là hoạt động 
kiểm toán mới triển khai tại KTNN. Tuy vậy, việc 
kiểm toán chuyên đề được KTNN khu vực VI 
chú trọng và dành nguồn lực thích đáng để thực 
hiện kể từ năm 2012. Quá trình tổ chức thực 
hiện kiểm toán chuyên đề của KTNN khu vực VI 
trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả 
chủ yếu như sau: 
- Chuyên đề chương trình MTQG về nông thôn 
mới giai đoạn 2010 - 2014: Kiến nghị HĐND tỉnh 
xem xét điều chỉnh kế hoạch, mục tiêu xây dựng 
nông thôn mới cho phù hợp với điều kiện thực tế 
và khả năng huy động vốn của địa phương hoặc 
có kế hoạch huy động vốn để đảm bảo cho việc 
hoàn thành mục tiêu đã đề ra; chỉ đạo các huyện, 
xã xem xét điều chỉnh, bổ sung Đề án xây dựng 
nông thôn mới đảm bảo bám sát thực tế tại địa 
phương để việc tổ chức xây dựng nông thôn mới 
đạt hiệu quả; chỉ thực hiện phê duyệt công nhận 
các xã đạt chuẩn nông thôn mới khi đã đạt đủ các 
tiêu chí trong Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn 
mới theo Đề án được phê duyệt. Kiến nghị sửa đổi 
mục đánh giá kết quả tiêu chí số 6 (Cơ sở vật chất 
văn hóa về sân vận động của xã thôn) tại bảng đánh 
giá kết quả thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về nông 
thôn mới ban hành kèm theo Quyết định số 1010/
NGUYỄN LAN ANH*
*KTNN Khu vực VI
Kiểm toán nhà nước Khu vực VI được thành lập từ năm 2007. Trải qua hơn 10 năm hình thành và phát triển, bên cạnh các cuộc kiểm toán “truyền thống”, đơn vị đã tiến hành thực hiện nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề với kết quả đáng ghi nhận. Bài viết giới thiệu sơ bộ về các cuộc kiểm toán chuyên đề của KTNN Khu vực VI cũng như những khó khăn, hạn chế và 
đề ra giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán chuyên đề thời gian tới.
Từ khóa: Kiểm toán chuyên đề
Current status and solutions to improving thematic audit quality of SAV
Regional State Audit Office No. VI went into operation in 2007. Over the past 10 years of establishment 
and development, in addition to the “traditional” audits, the unit carried out many thematic audits with 
remarkable results. The article introduces the preliminary examination of Regional State Audit Offices No 
VI as well as difficulties, limitations and solutions to improve the audit quality in the coming time.
Keywords: Thematic audit
20
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
QĐ-UBND ngày 23/4/2014 quy định tạm thời về 
việc đánh giá kết quả thực hiện Bộ tiêu chí Quốc 
gia về nông thôn mới và Quy trình xét công nhận, 
công bố xã đạt chuẩn nông thôn mới cho phù hợp 
với Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 và 
Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của 
Thủ tướng Chính phủ.
 - Chuyên đề Công tác quản lý và sử dụng kinh 
phí NSNN đầu tư cho hoạt động khoa học công 
nghệ năm 2014: Kiến nghị UBND tỉnh tổng hợp 
những tài sản của đề tài, dự án được đầu tư từ 
nguồn NSNN để theo dõi và có hướng xử lý khi 
các đề tài, dự án được nghiệm thu, quyết toán; 
nâng cao chất lượng lập dự toán kinh phí nghiên 
cứu khoa học đảm bảo sát với nhu cầu thực tế và 
phù hợp với nguồn lực của địa phương; thực hiện 
đầy đủ việc công bố thông tin về nhiệm vụ khoa 
học và công nghệ đang tiến hành và kết quả thực 
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, thông tin 
về ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học 
và công nghệ theo quy định tại Chương V - Thông 
tư 14/2014/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công 
nghệ ngày 11/6/2014.
- Kiểm toán công tác quản lý và sử dụng biên 
chế công chức, viên chức, lao động hợp đồng tại 
các bộ, ngành, địa phương: Một số lĩnh vực không 
tuyển dụng đủ chỉ tiêu biên chế được giao hoặc có 
mặt cao hơn được giao; còn có đơn vị có số lượng 
cấp phó vượt quy định, ký hợp đồng lao động làm 
công tác chuyên môn sai quy định. 
- Kiểm toán công tác quản lý hoàn thuế GTGT 
lồng ghép trong cuộc kiểm toán NSĐP năm 2017 
của tỉnh Hải Dương: Qua kiểm toán phát hiện 
nhiều vướng mắc, bất cập của cơ chế, chính sách, 
phát hiện việc ban hành văn bản có nội dung không 
phù hợp với hiệu lực của Thông tư, kiến nghị Tổng 
cục Thuế hủy bỏ nội dung “Trường hợp kỳ đề nghị 
hoàn thuế vừa chịu sự điều chỉnh của Thông tư 
26, vừa chịu sự điều chỉnh của Thông tư 130 thì 
việc xác định số thuế GTGT đầu vào của HHDV 
xuất khẩu được áp dụng Thông tư số 130/2016/
TT-BTC” trong Thông báo số 6294/TB-TCT ngày 
23/11/2016, kiểm điểm, rút kinh nghiệm trong việc 
tham mưu ban hành Thông báo số 6294/TB-TCT 
ngày 23/11/2016 trong đó có trả lời về nội dung 
“Trường hợp kỳ đề nghị hoàn thuế vừa chịu sự điều 
chỉnh của Thông tư 26, vừa chịu sự điều chỉnh của 
Thông tư 130 thì việc xác định số thuế GTGT đầu 
vào của HHDV xuất khẩu được áp dụng Thông tư 
số 130/2016/TT-BTC” không phù hợp với hiệu lực 
của từng thông tư. Đề nghị Bộ Tài chính kiểm tra 
việc hoàn thuế theo Thông báo số 6294/TB-TCT 
ngày 23/11/2016 của Tổng cục Thuế, không phù 
hợp với hiệu lực của từng thông tư (Thông tư 
số 26/2015/TT-BTC và Thông tư số 130/2016/
TT-BTC) để xử lý theo đúng quy định của pháp luật 
21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
số tiền 43,7 tỷ đồng tại Cục thuế Hải Dương và kiến 
nghị điểm điểm, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân 
có liên quan trong việc: Tham mưu, ban hành nội 
dung quy định tại Thông tư số 130/2016/TT-BTC 
không phù hợp quy định của Luật 106/2013/QH13 
(Quy định dự án đầu tư có thời hạn trên 01 năm).
- Kiểm toán Chuyên đề việc giao đất có thu tiền 
sử dụng đất, tiền thuê đất khu đô thị và việc thực 
hiện các dự án giao đất tại các địa phương (thành 
phố Hải Phòng; tỉnh Quảng Ninh). Qua kiểm 
toán ngoài kiến nghị xử lý tài chính còn kiến nghị 
UBND tỉnh, các cơ quan chức năng rà soát các dự 
án có điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng, hoặc 
được giao đất bổ sung để kịp thời xác định lại số 
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp vào NSNN; 
tham mưu cho UBND tỉnh về việc quản lý, sử dụng 
nguồn tiền tương đương giá trị quỹ đất 20% theo 
giá đất của các dự án phát triển nhà ở thương mại, 
dự án đầu tư phát triển đô thị có quy mô sử dụng 
đất dưới 10ha thực hiện nghĩa vụ NSNN nhằm tạo 
nguồn để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội trên phạm 
vi toàn địa bàn; chỉ đạo các cơ quan chức năng 
trong công tác tham mưu phê duyệt dự án phải có 
phương án tối ưu sử dụng tài nguyên đất, đã đổ thải 
và san lấp giữa các dự án trên địa bàn; quy định cụ 
thể các đơn vị phải thực hiện nghĩa vụ với NSNN 
đối với sản lượng tài nguyên phát sinh từ việc san, 
lấp mặt bằng để thuận tiện trong công tác quản lý 
thu, tăng hiệu quả thu NSNN; chỉ đạo các cơ quan 
chức năng giám sát chặt chẽ quá trình triển khai 
thực hiện dự án của các chủ đầu tư theo đúng các 
nội dung cam kết bảo vệ môi trường đã được phê 
duyệt; tuân thủ các quy định trong triển khai thực 
hiện dự án, tuân thủ các mốc giới của diện tích đất 
đã giao của các dự án triển khai trên địa bàn.
Qua kết quả kiểm toán các chuyên đề, KTNN 
Khu vực VI đã đưa ra những kiến nghị về công tác 
quản lý, tư vấn cho các đơn vị về tình trạng sử dụng 
chưa hiệu quả, lãng phí các nguồn lực, chỉ ra những 
tồn tại, bất cập của cơ chế chính sách và các văn 
bản quản lý. Qua đó, đưa ra những kiến nghị nhằm 
nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách, 
tiền, tài sản nhà nước. Kiến nghị kiểm điểm, xử 
lý trách nhiệm tập thể, cá nhân có sai phạm trong 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công góp 
phần phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết 
kiệm chống lãng phí. 
2. Những hạn chế và khó khăn trong công tác 
tổ chức kiểm toán chuyên đề
Ngoài những kết quả đã đạt được như trên, 
kiểm toán chuyên đề của KTNN trong những năm 
qua còn một số hạn chế và gặp những khó khăn 
chủ yếu như sau:
- Xây dựng đề cương kiểm toán chuyên đề còn 
dàn trải, nhiều trọng tâm, nội dung kiểm toán 
không cần thiết, không phù hợp với thực tế tổ chức 
về nhân sự, thời gian của các Đoàn kiểm toán hiện 
nay. Một số trọng tâm, nội dung, phạm vi xác định 
trong một số đề cương không phù hợp với thông tin 
thu thập, không phù hợp với các quy định của pháp 
luật, về phân cấp quản lý của từng địa phương.
- Mỗi mô hình tổ chức thực hiện kiểm toán 
chuyên đề có những ưu điểm, hạn chế nhất định: 
Việc tổ chức Đoàn kiểm toán theo mô hình tập 
trung có thể gặp phải rủi ro bởi quy mô Đoàn 
kiểm toán quá lớn nên công tác kiểm tra, giám sát 
của lãnh đạo Đoàn phải được thực hiện thường 
xuyên, sâu sát; quy mô Đoàn kiểm toán lớn, khối 
lượng công việc nhiều nên công tác tổng hợp 
BCKT cũng mất nhiều thời gian, trong khi BCKT 
của một số Tổ còn dài, mang tính liệt kê, thiếu 
tính khái quát, nhiều nội dung chưa được thể hiện 
đầy đủ trong báo cáo. Đối với mô hình lồng ghép, 
mặt hạn chế là thiếu tính thống nhất trong chỉ 
đạo thực hiện, dễ dẫn tới sự thiếu nhất quán trong 
hoạt động kiểm toán, trong các ý kiến nhận xét, 
đánh giá gây khó khăn cho công tác tổng hợp kết 
quả kiểm toán chung, cũng như khó tham mưu 
kịp thời cho Lãnh đạo KTNN những bất cập trong 
hoạt động kiểm toán.
- Thu thập thông tin về phân cấp quản lý, tình 
hình thực hiện của các vấn đề, hoạt động, chương 
trình được lựa chọn kiểm toán chuyên đề chưa 
chính xác dẫn đến việc lựa chọn đầu mối, đơn vị 
kiểm toán chủ yếu trên cơ sở nhân sự hiện có của 
Đoàn kiểm toán mà không trên cơ sở yêu cầu, mục 
tiêu, trọng yếu, nội dung của cuộc kiểm toán; lựa 
chọn đơn vị, đầu mối kiểm toán nhưng không có 
đủ thông tin làm cơ sở lựa chọn. Nguyên nhân chủ 
yếu là do chưa dành thời gian đảm bảo cho việc 
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT, đội ngũ 
KTV lập KHKT còn thiếu kỹ năng phân tích, tổng 
hợp đánh giá các thông tin thu thập trọng tâm, nội 
dung, phạm vi kiểm toán làm cơ sở bố trí nhân sự, 
22
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
thời gian phù hợp, còn lệ thuộc nhiều vào đề cương 
kiểm toán.
- Nội dung kiểm toán chuyên đề nghiêng về 
kiểm toán hoạt động, tuy nhiên kinh nghiệm của 
KTVNN về kiểm toán hoạt động còn hạn chế. Kết 
quả các cuộc kiểm toán chuyên đề phần nhiều vẫn 
là các phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính, việc 
tuân thủ các quy định pháp luật, nội quy, quy chế 
mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện; việc 
đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong 
quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công 
được đề cập nhưng còn sơ sài, chưa có tính thuyết 
phục cao. Hệ thống tiêu chí đánh giá cho các cuộc 
kiểm toán chuyên đề tuy được tập trung xây dựng 
nhưng chất lượng chưa như mong muốn. Sự phối 
kết hợp giữa các đơn vị tham gia kiểm toán chuyên 
đề chưa chặt chẽ, còn xuất hiện tâm lý không chú 
trọng đến chuyên đề kiểm toán lồng ghép khiến 
chất lượng BCKT chuyên đề chưa cao.
3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công 
tác tổ chức kiểm toán chuyên đề của kTNN
Để nâng cao chất lượng công tác tổ chức kiểm 
toán chuyên đề của KTNN, KTNN Khu vực VI xin 
đưa ra một số giải pháp sau:
- Trong chiến lược phát triển KTNN tăng cường 
hơn số lượng cuộc kiểm toán chuyên đề. Song song 
đó cần tổ chức nghiên cứu ban hành các văn bản 
quy định hướng dẫn đối với hoạt động cho các 
cuộc kiểm toán chuyên đề.
- Các cuộc kiểm toán chuyên đề cần có sự 
đồng thuận, thống nhất giữa các đơn vị trong toàn 
ngành, các quy định phải thống nhất về mục tiêu, 
phương pháp, nội dung kiểm toán; thống nhất các 
nhận định và xử lý tài chính, tập hợp được toàn bộ 
nhân lực, trí tuệ để có thể thực hiện thành công các 
cuộc kiểm toán.
- Các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực 
cần tích cực nghiên cứu các chủ trương đường lối 
phát triển của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các 
Nghị quyết, nắm bắt các thông tin, các vấn đề đang 
được dư luận quan tâm hoặc trên định hướng mục 
tiêu chung của ngành, các kế hoạch chiến lược 
kiểm toán từng giai đoạn từ đó đề xuất, định hướng 
để lựa chọn các chuyên đề kiểm toán.
- Đối với từng cuộc kiểm toán chuyên đề cần 
xây dựng đề cương khảo sát cụ thể, chi tiết, phân 
tích, nhận định được trọng yếu kiểm toán. Bố trí 
nhân sự, thời gian phù hợp cho công tác xây dựng 
đề cương kiểm toán chuyên đề; tổ chức thu thập 
thông tin về phân cấp quản lý, tình hình tổ chức 
thực hiện tại các địa phương, bộ, ngành, doanh 
nghiệp đối với vấn đề, nội dung, hoạt động, chương 
trình được lựa chọn kiểm toán chuyên đề; nghiên 
cứu, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quy định 
pháp luật có liên quan đến chủ đề, vấn đề sẽ thực 
hiện kiểm toán chuyên đề cho KTV trực tiếp tham 
gia xây dựng đề cương.
- Thiết lập hệ thống thông tin điện tử với đầy 
đủ dữ liệu cần thiết về các đơn vị được kiểm toán, 
phục vụ cho việc xây dựng KHKT chuyên đề hàng 
năm và KHKT của Đoàn kiểm toán; thường xuyên 
thu thập và cập nhật, bổ sung.
- Kiểm toán chuyên đề nghiêng nhiều về kiểm 
toán hoạt động, vì vậy KTV bên cạnh các phương 
pháp kiểm toán thông thường (phương pháp kiểm 
tra, quan sát hiện trường, phỏng vấn,...) nên áp 
dụng các cách tiếp cận của kiểm toán hoạt động 
để thực hiện kiểm toán chuyên đề. Kiểm toán hoạt 
động có ba phương pháp tiếp cận chính, đó là 
phương pháp tiếp cận theo hệ thống, tiếp cận theo 
kết quả và tiếp cận theo vấn đề. Ngoài ra phương 
pháp tiếp cận theo định hướng tuân thủ cũng được 
sử dụng trong những tình huống cụ thể.
- Giải pháp quan trọng và là yếu tố quyết định 
đến kết quả và chất lượng của các cuộc kiểm toán 
chuyên đề đó là trình độ, năng lực của những người 
tổ chức, thực hiện. Cần lựa chọn các KTV có trình 
độ, năng lực phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm 
vụ kiểm toán chuyên đề để bảo đảm tính chuyên 
sâu. Trước khi triển khai kiểm toán chuyên đề cần 
phải tổ chức tập huấn để KTV nắm bắt được mục 
tiêu, nội dung, trọng tâm và các thông tin cần thiết 
của cuộc kiểm toá ... quản lý, sử dụng thuốc, trang thiết 
bị, vật tư y tế và hoạt động đầu tư xây dựng cơ 
bản ngành y tế giai đoạn 2015 - 2017 của các tỉnh, 
thành phố trực thuộc trung ương; Đánh giá hiệu 
quả các chính sách ưu đãi đầu tư tại các Khu kinh 
tế ven biển... Đặc biệt, trong kế hoạch năm 2019, 
KTNN định hướng bám sát Nghị quyết của Đảng, 
Quốc hội và Chính phủ để lập KHKT và đặc biệt 
là kiểm toán các lĩnh vực nóng trong xã hội, giảm 
kiểm toán báo cáo tài chính, tăng cường kiểm toán 
chuyên đề để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả 
của các chương trình mục tiêu, các chuyên đề, để 
hoàn thiện cơ chế, chính sách, tránh xảy ra thất 
thoát, tập trung vào một số lĩnh vực như lĩnh vực 
mà nhiều người quan tâm và những khu vực hay 
xảy ra thất thoát lãng phí như BT, BOT, đất đai... 
KTNN đã tập trung lần lượt vào các chuyên đề, từ 
đó kiến nghị với Chính phủ sửa cơ chế chính sách 
phù hợp và sát hợp tránh thất thoát tài chính công, 
tài sản công nhà nước; đất đai của một số doanh 
nghiệp sau cổ phần hóa, tài nguyên khoáng sản, 
thuế, chuyển giá và những vấn đề liên quan đến cơ 
chế chính sách; kiểm toán về một số chương trình 
26
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
thu thuế, xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan và 
một số chuyên đề về BT, BOT, chuyên đề đất đai 
Kiểm toán về môi trường, đối với việc xử lý rác thải, 
khai khoáng của Tập đoàn Khoáng sản Việt Nam; 
Kiểm toán việc quản lý, cấp phép sử dụng phế liệu. 
Đây là vấn đề nóng và cần thiết để ngăn chặn rác 
thải sang Việt Nam rồi biến Việt Nam thành nơi tập 
kết phế liệu thế giới. 
Kết quả của các cuộc kiểm toán chuyên đề 
đều để lại những dấu ấn đáng kể trong hoạt động 
kiểm toán của KTNN và để lại những bài học kinh 
nghiệm quý giá cho việc lập kế hoạch và thực hiện 
các cuộc kiểm toán tiếp theo. Ngoài kiến nghị về 
xử lý tài chính lớn của các cuộc kiểm toán này, 
còn đưa ra những kiến nghị về bất cập về cơ chế 
và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan quản 
lý nhà nước, những kiến nghị về yếu kém của các 
hệ thống quản lý đã mang lại những lợi ích lâu dài 
cho đơn vị trực tiếp được kiểm toán và các cơ quan 
quản lý của Nhà nước, được Quốc hội và Chính 
phủ đánh giá cao.
2.2. Tình hình thực hiện kiểm toán chuyên đề 
tại KTNN chuyên ngành VI
Kiểm toán chuyên ngành VI là một trong những 
đơn vị đầu tiên thuộc KTNN thực hiện các cuộc 
kiểm toán chuyên đề, bắt đầu từ các cuộc kiểm 
toán lồng ghép và cho tới thời điểm hiện tại, KTNN 
chuyên ngành VI đã thực hiện ít nhất 2 cuộc kiểm 
toán chuyên đề riêng biệt mỗi năm. Trong 5 năm 
kể từ năm 2014 đến hết năm 2018, KTNN chuyên 
ngành VI đã thực hiện 10 cuộc kiểm toán chuyên 
đề với những lĩnh vực mang tính thời sự như: Tình 
hình tạm trữ lúa gạo giai đoạn 2012-2013; Tình 
hình quản lý sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu giai 
đoạn 2015-2016; Việc công khai giá bán điện giai 
đoạn 2014-2016; Tình hình cổ phần hóa, thoái vốn 
và việc sử dụng giá trị lợi thế quyền thuê đất nhà 
nước để góp vốn đầu tư các dự án bất động sản của 
các doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2010-2016; 
Việc quản lý, sử dụng Quỹ Thăm dò, Quỹ Môi 
trường than - khoáng sản giai đoạn 2010-2014 của 
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt 
Nam; Việc thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp 
Nhà nước giai đoạn 2010-2015 trọng tâm là tại 
các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước... Qua quá 
trình kiểm toán đã phát hiện một số trường hợp 
lỗ hổng trong quản lý và điều hành tài sản công và 
KTNN đã có kiến nghị để doanh nghiệp rà soát, 
chấn chỉnh hoạt động để quản lý vốn và tài sản của 
Nhà nước một cách hiệu quả. Điển hình cuộc kiểm 
toán chuyên đề có quy mô lớn, thực hiện kiểm toán 
trong toàn ngành, đó là cuộc kiểm toán chuyên đề 
tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các Tập đoàn, Tổng 
Công ty giai đoạn 2011-2015.
Kết quả của các cuộc kiểm toán chuyên đề đều 
đem lại đóng góp đáng kể cho hoạt động kiểm toán 
của KTNN chuyên ngành VI. Cuộc kiểm toán đã 
chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực hiện tái 
cơ cấu DNNN giai đoạn 2011 - 2015 như: Cơ chế, 
chính sách về quản lý doanh nghiệp, sắp xếp, cổ 
phần hóa, thoái vốn nhà nước... ban hành chậm so 
với kế hoạch đề ra; một số chính sách ban hành 
chưa phù hợp với thực tiễn, còn bất cập nhưng 
chậm được bổ sung, sửa đổi, đặc biệt có một số cơ 
chế, chính sách liên quan đến cổ phần hóa, thoái 
vốn nhà nước đang có sơ hở, cần phải bổ sung, 
sửa đổi kịp thời nhằm ngăn ngừa thất thoát vốn, 
tài sản nhà nước. Ngoài ra, công tác triển khai các 
nhiệm vụ thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý liên 
quan đến tài chính công của các bộ, ngành chưa 
tốt như: Phân công, phân cấp, thực hiện các quyền, 
trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước 
tại doanh nghiệp chưa triệt để, thiếu chuyên trách, 
chưa tách bạch chức năng chủ sở hữu nhà nước 
với chức năng quản lý nhà nước khác của Nhà 
nước dẫn đến hiệu lực, hiệu quả thực hiện chưa 
cao; công tác xây dựng đề án của các Tập đoàn kinh 
tế, Tổng công ty nhà nước chưa sát với tình hình 
thực tế của doanh nghiệp phải điều chỉnh, bổ sung 
nhiều lần làm chậm tiến độ thực hiện; một số Đề 
án tái cơ cấu có chất lượng chưa cao, còn hình thức, 
các giải pháp đề ra chủ yếu vẫn mang tính định 
hướng, thiếu tính cụ thể; trình bày một cách khái 
quát chung gây khó khăn khi triển khai thực hiện.
Trong quá trình thực hiện Đề án tái cơ cấu, còn 
một số Tập đoàn, Tổng công ty chưa đạt kế hoạch 
cổ phần hóa, thoái vốn đã đề ra, kết quả thoái 
vốn đầu tư ngoài ngành và tại các doanh nghiệp 
mà Nhà nước không cần nắm giữ còn thấp so với 
yêu cầu (các TĐ, TCT mới thoái được 42% tổng 
số vốn phải thoái ra khỏi 5 lĩnh vực: chứng khoán, 
ngân hàng, bảo hiểm, tài chính, bất động sản). 
Nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa không bán được 
hết cổ phần theo phương án được phê duyệt, tỷ lệ 
bán ra ngoài thành công rất nhỏ (Nhà nước vẫn 
27NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
giữ 98%-99% vốn điều lệ) dẫn đến chưa đạt mục 
tiêu của cổ phần hóa là đổi mới quản trị và thu hút 
nguồn vốn từ xã hội. Còn nhiều trường hợp thực 
hiện thoái vốn chưa theo nguyên tắc thị trường, 
một số trường hợp doanh nghiệp thua lỗ, thậm 
chí mất hết vốn nhưng vẫn được bàn giao nguyên 
trạng hoặc chuyển nhượng cổ phiếu giá ghi sổ sách 
theo mệnh giá, dẫn đến tiềm ẩn rủi ro cho đơn vị 
nhận doanh nghiệp thua lỗ.
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, UBND các 
tỉnh với SCIC để chuyển giao quyền đại diện chủ 
sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp về SCIC chưa 
tốt và chưa có sự đồng thuận dẫn đến việc chuyển 
giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn về SCIC diễn 
ra chậm, có hiện tượng bán bớt phần vốn nhà nước 
trước khi bàn giao, phần lớn các doanh nghiệp 
chưa được bàn giao là các doanh nghiệp có chuyên 
ngành cao về kinh tế- kỹ thuật, có vai trò quan 
trọng trong phát triển kinh tế tại địa phương, phục 
vụ chiến lược phát triển ngành của các bộ hoặc các 
doanh nghiệp quản lý nhiều đất đai (công ty nông, 
lâm nghiệp). Công tác hướng dẫn, chỉ đạo của cấp 
có thẩm quyền chưa đồng bộ, nhất quán dẫn đến 
lúng túng trong thực hiện, một mặt Chính phủ ban 
hành nhiều công văn đôn đốc, nhắc nhở, yêu cầu 
bàn giao về SCIC, nhưng mặt khác lại ban hành 
nhiều công văn cá biệt cho phép Bộ, UBND các tỉnh 
giữ lại quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 
một số doanh nghiệp, hoặc cho phép bán một phần 
hoặc toàn bộ vốn nhà nước tại doanh nghiệp thuộc 
diện bàn giao; thí điểm thực hiện quyền đại diện 
chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã cổ 
phần hóa trực thuộc địa phương (thành lập Công 
ty Đầu tư tài chính nhà nước thuộc UBND TP.Hồ 
Chí Minh) nhưng chưa tổng kết, đánh giá, rút kinh 
nghiệm để nhân rộng cho các tỉnh/thành phố khác.
Từ các đánh giá, phát hiện kiểm toán đã kiến 
nghị các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, các 
bộ, ngành, UBND các tỉnh/thành phố, đặc biệt là 
có công văn thông báo kết quả kiểm toán, đồng 
thời kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo 
sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách thuộc chức 
năng, nhiệm vụ; tháo gỡ vướng mắc, xử lý tồn tại, 
hạn chế như ý kiến kiểm toán đã nêu và tiếp tục chỉ 
đạo tổ chức thực hiện tái cơ cấu đạt mục tiêu và có 
hiệu quả. Kết quả kiểm toán là tài liệu tham khảo 
quan trọng cho Ban chỉ đạo đổi mới và Phát triển 
doanh nghiệp tổng kết công tác sắp xếp, đổi mới 
DNNN giai đoạn 2011-2015 và nhiệm vụ, giải pháp 
giai đoạn 2016-2020.
2.3. Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức một 
cuộc kiểm toán chuyên đề
* Khó khăn, vướng mắc
Quá trình triển khai thực hiện các cuộc kiểm 
toán chuyên đề của KTNN chuyên ngành VI cho 
thấy còn một số tồn tại, hạn chế cũng như một số 
khó khăn vướng mắc như sau:
(1) Chưa chủ động nghiên cứu để lựa chọn chủ 
đề kiểm toán, chủ yếu thực hiện cuộc kiểm toán 
chuyên đề theo định hướng chung. Cơ sở dữ liệu, 
thông tin phục vụ cuộc kiểm toán chưa đầy đủ, 
nhất là hệ thống thông tin về các đầu mối thuộc 
phạm vi kiểm toán của KTNN do đó việc lựa chọn 
chủ đề kiểm toán chủ yếu thông qua việc thu thập 
thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng dẫn 
đến chưa có được các thông tin chính xác về tình 
hình thực hiện của chương trình/đối tượng để có 
thể xác định được các nội dung, phạm vi, đối tượng 
dự kiến kiểm toán. KTNN chưa xây dựng được quy 
trình và tổ chức hướng dẫn công tác lựa chọn chủ 
đề, công tác lựa chọn chủ đề chưa được thực hiện 
bài bản, khoa học; chưa trên cơ sở tầm quan trọng 
và tính thời sự của chủ đề.
(2) Việc khảo sát, thu thập thông tin để lập 
KHKT chưa được chú trọng cả về nhân lực và thời 
gian thực hiện dẫn đến chất lượng thông tin thu 
thập được chưa đảm bảo đánh giá được đầy đủ 
trọng yếu và rủi ro. Năng lực, kinh nghiệm trong 
việc phân tích thông tin để xác định chủ đề kiểm 
toán và lập KHKT còn hạn chế.
(3) Việc sử dụng chuyên gia cho các cuộc kiểm 
toán có nội dung kiểm toán đặc thù và phức tạp 
chưa có tiền lệ (đối với lĩnh vực môi trường, than 
khoáng sản, giá xăng dầu, quỹ bình ổn xăng dầu, 
giá điện, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai 
trong doanh nghiệp...). Nhiều chủ đề kiểm toán 
cần có sự hiểu biết chuyên môn về nhiều lĩnh vực 
nên việc sử dụng chuyên gia là rất cần thiết. Tuy 
nhiên, để tìm kiếm, lựa chọn được chuyên gia có 
năng lực chuyên môn và đảm bảo tính độc lập với 
đơn vị được kiểm toán vẫn còn khó khăn. Nhiều 
vấn đề có tính chuyên sâu nhưng chưa có các tài 
liệu quy định, hướng dẫn cụ thể nên vẫn dựa vào ý 
kiến chuyên gia (có thể mang tính chủ quan) dẫn 
28
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
đến ý kiến, kết luận của KTNN không đạt được sự 
đồng thuận cao của đơn vị (trong khi KTNN phải 
chịu trách nhiệm khi sử dụng ý kiến chuyên gia).
(4) Chưa phân tích, đánh giá rủi ro gắn với các 
tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả làm cơ sở chọn mẫu 
các nội dung kiểm toán tổng hợp và chi tiết. Các 
cuộc kiểm toán chuyên đề nhưng chưa chú trọng 
vào kiểm toán tổng hợp (thông qua kiểm toán tổng 
hợp để đánh giá các rủi ro và chọn mẫu các nội 
dung chi tiết để thu thập bằng chứng) mà vẫn tập 
trung vào kiểm toán chi tiết là chủ yếu.
(5) Chưa xác định rõ cơ sở chọn mẫu và phương 
pháp thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. 
(6) Kết quả kiểm toán chủ yếu đánh giá việc 
tuân thủ các quy định hiện hành, chưa phân tích 
được sâu về công tác quản lý, điều hành trong công 
tác quản lý nhà nước để có kiến nghị phù hợp.
* Giải pháp hoàn thiện
(1) Tiếp tục nâng cao năng lực, trình độ chuyên 
môn của KTV về kiểm toán chuyên đề thông qua việc 
tổ chức phổ biến, hướng dẫn CMKTNN, hồ sơ mẫu 
biểu về kiểm toán chuyên đề; tổ chức thường xuyên 
các khóa đào tạo, các hội thảo, tọa đàm về kiểm toán 
chuyên đề, đặc biệt là việc nghiên cứu, học tập kinh 
nghiệm của các nước có nhiều kinh nghiệm. 
(2) Chú trọng công tác thu thập thông tin để lựa 
chọn chủ đề kiểm toán, trong đó cần tăng cường 
việc thu thập thông tin trực tiếp (thông quan văn 
bản khảo sát, thu thập thông tin và thực hiện khảo 
sát trực tiếp tại các đơn vị, đầu mối dự kiến được 
kiểm toán) để đảm bảo chủ đề được lựa chọn có 
tính khả thi cao. Với nguồn lực và thời gian có hạn, 
không thể kỳ vọng kiểm toán lĩnh vực rộng lớn mà 
phải xác định phạm vi cho phù hợp, cần xác định 
phạm vi trọng tâm, kiểm toán theo từng chuyên đề 
nhỏ, chia thành nhiều “lát cắt” để đánh giá sâu sắc 
từng chủ đề.
(3) Các đơn vị chủ trì thực hiện cuộc kiểm toán 
chuyên đề cần ưu tiên bố trí các KTV có năng lực, 
kinh nghiệm để tham gia Đoàn kiểm toán (ngay từ 
khi thu thập thông tin lựa chọn chủ đề kiểm toán, 
khảo sát thu thập thông tin để xây dựng KHKT); 
tăng cường thời gian khảo sát thu thập thông tin 
để nâng cao chất lượng lập KHKT, đặc biệt là việc 
xây dựng các nội dung, tiêu chí kiểm toán đảm 
bảo được mục tiêu của cuộc kiểm toán cũng như 
tính khả thi của các kiến nghị kiểm toán. Yếu tố 
con người rất quan trọng, tính chất của cuộc kiểm 
toán chuyên đề tái cơ cấu cần kiến thức tổng hợp, 
hiểu biết sâu sắc về ngành nghề đặc thù của đơn vị, 
ngoài ra còn phải hiểu biết sâu sắc về thị trường tài 
chính, chứng khoán, thị trường vốn, bất động sản... 
do đó cần lựa chọn đội ngũ KTV có kinh nghiệm, 
nghiệp vụ chuyên sâu, có khả năng phân tích tổng 
hợp, có thể lựa chọn các KTV xuất sắc đã có kinh 
nghiệm đã từng thực hiện kiểm toán chuyên đề này 
năm trước nhằm đảm bảo tính kế thừa, rút ngắn 
thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
(4) Hoàn thiện các quy định, quy chế cụ thể 
trong việc sử dụng chuyên gia tham gia các cuộc 
kiểm toán của KTNN, trong đó cần hướng dẫn việc 
đánh giá năng lực chuyên môn và tính độc lập của 
chuyên gia.
(5) Xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu, thông 
tin về các đầu mối/đối tượng thuộc phạm vi kiểm 
toán của KTNN để giúp nâng cao chất lượng trong 
việc thu thập thông tin, lựa chọn chủ đề kiểm toán, 
xác định mục tiêu, tiêu chí và phương pháp kiểm 
toán thích hợp.
(6) Tăng cường thực hiện các cuộc kiểm toán 
lồng ghép với kiểm toán tài chính và kiểm toán 
tuân thủ để kết hợp các phát hiện nhằm phân tích 
làm rõ các tồn tại, hạn chế và trách nhiệm trong 
việc quản lý, điều hành của đơn vị, nhất là trong 
việc phân tích nguyên nhân, tác động của các tồn 
tại, hạn chế; qua đó từng bước nâng cao nhận thức 
của đơn vị, đồng thời đảm bảo tính khả thi, hiệu 
lực của các kiến nghị của KTNN.
(7) Cuộc kiểm toán chuyên đề sẽ không có 
tiêu chí đánh giá chung nên vai trò của lãnh đạo, 
chỉ đạo kiểm toán rất quan trọng trong việc định 
hướng, hướng dẫn. Do đó Lãnh đạo Đoàn kiểm 
toán phải sát sao nắm bắt, tháo gỡ kịp thời những 
vướng mắc phát sinh và đặc biệt phải đưa ra những 
định hướng, chỉ dẫn cho các KTV nhằm thống 
nhất quan điểm đánh giá từng nội dung tái cơ cấu.
(8) Tổ chức phối hợp các đơn vị trong ngành 
với đơn vị chủ trì kiểm toán chưa được chặt chẽ, 
chưa gắn kết từ khâu lập KHKT đến khâu tổ chức 
thực hiện kiểm toán, lập BCKT. Do đó, giải pháp 
cần phải phối hợp giữa các đơn vị trong ngành chặt 
chẽ hơn nữa.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_chat_luong_kiem_toan_chuyen.pdf