Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay

TÓM TẮT

Nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ

và phát triển rừng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Vì trong giai

đoạn hiện nay tình trạng mất rừng diễn ra ở hầu khắp các tỉnh thành trên phạm vi cả nước. Nguyên nhân mất

rừng có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân chủ quan bao gồm: cơ chế,

chính sách, thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xử lý vi phạm Trong đó, cơ chế pháp lý bao gồm từ bộ

máy, quy định của pháp luật, thực trạng về sự phối hợp trong xử lý có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, việc

đánh giá thực trạng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết.

Từ khóa: Bảo vệ và phát triển rừng, cơ chế pháp lý, xử lý vi phạm pháp luật.

pdf 7 trang phuongnguyen 4080
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay
Kinh tế & Chính sách 
184 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ 
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ 
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
Nguyễn Thị Tiến 
Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ 
và phát triển rừng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Vì trong giai 
đoạn hiện nay tình trạng mất rừng diễn ra ở hầu khắp các tỉnh thành trên phạm vi cả nước. Nguyên nhân mất 
rừng có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân chủ quan bao gồm: cơ chế, 
chính sách, thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xử lý vi phạm Trong đó, cơ chế pháp lý bao gồm từ bộ 
máy, quy định của pháp luật, thực trạng về sự phối hợp trong xử lý có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, việc 
đánh giá thực trạng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh 
vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. 
Từ khóa: Bảo vệ và phát triển rừng, cơ chế pháp lý, xử lý vi phạm pháp luật. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thực tế cho thấy, vấn đề xử lí vi phạm pháp 
luật về bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện 
nay không hiệu quả, không đảm bảo được tính 
nghiêm minh của pháp luật. Nhiều hành vi vi 
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng 
không được xử lí trên thực tế, bị “bỏ lọt”. 
Cùng với đó, mục đích phòng ngừa và đấu 
tranh nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về bảo 
vệ và phát triển rừng không đạt được như 
mong muốn. Thực tế đó đã và đang ảnh hưởng 
tiêu cực đối với hiệu quả và chất lượng của 
pháp luật cũng như ngành lâm nghiệp trong đời 
sống xã hội hiện nay. Trong đó, tổng số vụ vi 
phạm pháp luật giai đoạn 2011 - 2015 là 
136,325 vụ, bình quân 27,265 vụ/năm; giai 
đoạn 2016 - 2018 là 37,995 vụ với bình quân là 
18,998 vụ/năm.1 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng 
nêu trên như: Pháp luật về xử lí vi phạm pháp 
luật về bảo vệ và phát triển rừng còn thiếu chế 
tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh; Cơ chế xử lí vi 
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng 
chưa chặt chẽ và chưa đáp ứng được yêu cầu 
trong thực tiễn; Hệ thống văn bản qui phạm 
pháp luật về xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ 
và phát triển rừng chưa hoàn thiện, đồng bộ. Vì 
vậy việc đánh giá thực trạng và đề xuất 
phương hướng giải pháp nhằm hoàn thiện cơ 
1 Số liệu thống kê, Tổng cục Lâm nghiệp 2018. 
chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật ở nước 
ta hiện nay là vấn đề cần nghiên cứu. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nội dung nghiên cứu 
- Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý 
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát 
triển rừng; những hạn chế, khó khăn trong việc 
áp dụng cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp 
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. 
- Đề xuất được một số phương hướng và 
giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện và áp 
dụng pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý vi 
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát 
triển rừng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Sử dụng phương pháp thống kê, phương 
pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá 
về thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm 
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. 
- Phương pháp phân tích và tổng hợp, 
phương pháp luật học so sánh, phương pháp 
hệ thống để phân tích kinh nghiệm của các 
nước và gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn 
thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp 
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở 
Việt Nam. 
- Phương pháp phân tích luật học, phương 
pháp thống kê trên cơ sở khảo sát thực tiễn để 
phân tích và đánh giá những thực trạng cơ chế 
pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 185 
vực bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam. 
Đồng thời, sử dụng phương pháp hệ thống để 
chỉ ra những mặt hạn chế, bất cập của cơ chế 
pháp lý này. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng là sự 
ràng buộc có tính hệ thống được tổ chức thực 
hiện trên cơ sở các nguyên tắc, các quy định 
của pháp luật và được tổ chức, đảm bảo cũng 
như thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền trong quá trình truy cứu trách 
nhiệm pháp lý đối với các vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. 
Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng có đối 
tượng tác động là các quan hệ xã hội phát sinh 
khi các cá nhân tổ chức có hành vi vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển 
rừng. Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp 
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng có 
sự tham gia, phối hợp của nhiều loại chủ thể 
với vai trò khác nhau. Cơ chế pháp lý về xử lý 
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và 
phát triển rừng có nội dung là đảm bảo tính 
hiện thực, hữu hiệu của chế độ trách nhiệm 
pháp lý. 
3.1. Thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý vi 
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và 
phát triển rừng 
3.1.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm 
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng 
Thực trạng pháp luật trong công tác xử lý vi 
phạm pháp luật bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý 
cho công tác xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh 
vực bảo vệ rừng thì tuỳ theo hành vi vi phạm, 
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội quy 
định trong pháp luật bảo vệ rừng, chúng ta có 
thể phân thành 2 loại chủ yếu là: vi phạm pháp 
luật hình sự (tội phạm) và vi phạm pháp luật 
hành chính, dẫn tới hai loại trách nhiệm pháp 
lý cơ bản là trách nhiệm hành chính và trách 
nhiệm hình sự. Việc xử lý vi phạm hành chính 
chủ yếu là cơ quan kiểm lâm và UBND các cấp, 
cùng các cơ quan có thẩm quyền liên ngành. 
Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015, 
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị 
định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, bảo 
vệ rừng và quản lý lâm sản khi tổ chức cá nhân 
phát hiện hành vi vi phạm hành chính phải 
chuyển giao cho cơ quan cấp có thẩm quyền 
quyết định xử lý. Việc áp dụng pháp luật xử lý 
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo 
vệ rừng và quản lý lâm sản cơ bản do kiểm lâm 
các cấp thực hiện, còn Uỷ ban nhân dân các 
cấp chỉ giải quyết chủ yếu ở giai đoạn cuối 
cùng của quá trình áp dụng luật, ký quyết định 
xử phạt trên cơ sở tham mưu đề nghị của cơ 
quan kiểm lâm. 
Thẩm quyền xử lý hình sự là quyền hạn và 
nhiệm vụ của kiểm lâm và cơ quan điều tra 
theo quy định của pháp luật hiện hành. Theo 
quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong 
giai đoạn điều tra của quá trình tố tụng hình sự 
đối với các tội xâm phạm trật tự bảo vệ rừng, 
có hai hệ thống cơ quan thực hiện là kiểm lâm 
và cơ quan điều tra. Tuy nhiên kiểm lâm chỉ có 
thẩm quyền thực hiện một số hoạt động điều 
tra hình sự đối với các tội nghiêm trọng, đặc 
biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm 
trọng nhưng có tình tiết phức tạp cơ quan kiểm 
lâm quyết định khởi tố vụ án, điều tra ban đầu 
và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm 
quyền. Pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý 
vi phạm pháp luật đối với lĩnh vực bảo vệ rừng 
hiện hành đã quy định tương đối cụ thể để xử 
lý vi phạm hành chính và vi phạm hình sự. 
Pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý vi 
phạm pháp luật có vai trò quan trọng trong 
việc quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà 
nước trong việc xử lý vi phạm pháp luật, trong 
đó thẩm quyền chủ yếu thuộc về hệ thống cơ 
quan Kiểm lâm. Trong nhiều năm qua, quá 
trình thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của các 
cơ quan nhà nước đã góp phần kìm chế và 
ngăn chặn sự gia tăng các hành vi vi phạm, 
việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà 
nước ngày càng nghiêm minh, đúng pháp luật 
và khách quan hơn. 
3.1.2. Thực trạng vi phạm pháp luật trong 
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng 
Kinh tế & Chính sách 
186 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
Theo báo cáo của Cục Kiểm lâm, từ đầu 
năm đến nay trong cả nước đã xảy ra hơn 
26.000 vụ vi phạm lâm luật, giảm 5.300 vụ so 
với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tại một số 
tỉnh có số vụ vi phạm tăng, như tỉnh Thái 
Nguyên (1.296 vụ), Tuyên Quang (1.200 vụ), 
Thanh Hoá (1.070 vụ), Quảng Nam (1.223 
vụ)... Các hành vi vi phạm chủ yếu là: Phá 
rừng trái phép; khai thác, mua bán và vận 
chuyển lâm sản trái pháp luật; vi phạm các quy 
định về phòng cháy, chữa cháy rừng; vi phạm 
quy định về quản lý động vật hoang dã... Đặc 
biệt là có gần 3.000 vụ phá rừng gây thiệt hại 
hơn 1.500 ha rừng, bao gồm có 60 ha rừng đặc 
dụng, 380 ha rừng phòng hộ và hơn 1.000 ha 
rừng sản xuất. Đã có 21.500 vụ vi phạm về 
quản lý bảo vệ rừng (QLBVR) trong 9 tháng 
đầu năm 2010 bị xử phạt vi phạm hành chính, 
trong đó khởi tố hình sự có 300 vụ với 117 bị 
can; Tuy nhiên số vụ án đưa ra xét xử vẫn còn ở 
mức thấp, chiếm khoảng 10%. 
3.1.3. Thực trạng tổ chức bộ máy 
Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm 
quyền chung: Hệ thống này có trách nhiệm liên 
quan trong xử phạt vi phạm hành chính về bảo 
vệ và phát triển rừng (BV&PTR). Tuy nhiên 
chính quyền một số địa phương chưa chỉ đạo 
thực hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý Nhà 
nước về rừng và đất lâm nghiệp theo quy định 
của pháp luật; ban hành nhiều văn bản, nhưng 
chưa kiên quyết chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc 
thực hiện, thiếu quyết liệt trong tổ chức thực 
hiện các biện pháp bảo vệ rừng theo quy định 
của pháp luật (chủ yếu các địa phương giao 
cho kiểm lâm và chủ rừng). Một số địa phương 
do lợi ích cục bộ, chính quyền cơ sở đã làm 
ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các 
hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, 
sang nhượng đất lâm nghiệp trái pháp luật. 
Việc xử lý vi phạm chưa nghiêm minh, đặc 
biệt là đối với những cán bộ thiếu trách nhiệm, 
tiếp tay cho lâm tặc. Cơ quan quản lý đất đai 
chưa thực sự "vào cuộc" để ngăn chặn, xử lý vi 
phạm pháp luật về đất lâm nghiệp. Xử lý đối 
với người có hành vi vi phạm pháp luật, chủ 
rừng, người có trách nhiệm quản lý không kịp 
thời, thiếu nghiêm túc. 
Bên cạnh đó, tại các xã có rừng đều có bố 
trí một cán bộ lâm nghiệp xã. Vị trí, vai trò và 
nhiệm vụ của cán bộ lâm nghiệp xã đã được 
xác định một cách cụ thể, nhưng trên thực tế, ở 
một số địa phương, hiệu quả công việc của cán 
bộ lâm nghiệp xã chưa được phát huy, thậm 
chí trong bộ máy chính quyền có người không 
biết cán bộ lâm nghiệp xã là ai? Nhiệm vụ của 
họ là gì? Thực tế hiện nay cán bộ lâm nghiệp 
xã còn bất cập thể hiện ở một số điểm sau: Hầu 
hết cán bộ lâm nghiệp xã chưa được trang bị 
kiến thức về lĩnh vực luật và hành chính lâm 
nghiệp, kỹ năng tuyên truyền vận động quần 
chúng nhân dân thực hiện Luật Bảo vệ và Phát 
triển rừng. Hoạt động lâm nghiệp ở địa phương 
hầu như trông chờ vào kế hoạch do kiểm lâm 
địa bàn đề ra, cán bộ lâm nghiệp xã ít khi chủ 
động xây dựng kế hoạch hoặc tham mưu cho 
lãnh đạo địa phương điều hành công tác bảo vệ 
rừng. Tất cả các vụ việc như đi tuần tra, kiểm 
tra lập biên bản các vụ vi phạm, tổ chức các 
buổi tuyên truyền... thì sự có mặt của cán bộ 
lâm nghiệp xã được xem như là sự có mặt và 
đại diện chính quyền địa phương chứ ít người 
suy nghĩ sự có mặt của cán bộ lâm nghiệp xã 
sẽ đóng vai trò gì, tham mưu như thế nào cho 
lãnh đạo địa phương để có kế hoạch hạn chế 
các vụ vi phạm hoặc định hướng phát triển lâm 
nghiệp trên địa bàn một cách ổn định, lâu dài. 
Hiện nay, ở cấp xã, chức danh lâm nghiệp 
được cơ cấu trong hệ thống các ban, ngành ở 
chính quyền địa phương thông qua Ban Lâm 
nghiệp (ban này thường do chủ tịch hoặc phó 
chủ tịch xã làm trưởng ban, cán bộ lâm nghiệp 
xã làm phó ban trực). Tuy nhiên, do điều kiện 
ở một số địa phương, định suất chi trả cho hoạt 
động cán bộ lâm nghiệp xã chưa được quan 
tâm đúng mức (chưa bằng lương tối thiểu) nên 
thường bố trí cho cán bộ lâm nghiệp xã kiêm 
nhiệm nhiều việc để tăng thu nhập, với tính 
chất công việc như vậy chất lượng hoạt động 
của cán bộ lâm nghiệp thường không đảm bảo. 
Việc chọn, bố trí cán bộ lâm nghiệp xã ở các 
địa phương cũng gặp nhiều bất cập. Thường 
gặp nhất đó là chọn, bố trí cán bộ lâm nghiệp 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 187 
xã theo cảm tính, người quen trong gia đình. 
Đây là khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động 
của cán bộ lâm nghiệp xã; bởi một cán bộ lâm 
nghiệp xã khi được tuyển chọn hầu như không 
am hiểu về luật và hành chính lâm nghiệp, kỹ 
năng tuyên truyền vận động quần chúng nhân 
dân thực hiện Luật bảo vệ và phát triển rừng... 
nhưng qua làm việc và sự hướng dẫn nghiệp vụ 
của kiểm lâm địa bàn, thì kiến thức về lâm 
nghiệp của cán bộ lâm nghiệp xã được nâng 
lên, thời gian cùng công tác chưa lâu thì được 
chuyển sang làm công tác khác. Ở một số địa 
phương chưa có sự quan tâm đến cơ sở vật 
chất và các dụng cụ khác để cán bộ lâm nghiệp 
xã thực hiện nhiệm vụ. 
Như vậy việc xác định rõ trách nhiệm của 
các cấp chính quyền trong lĩnh vực lâm nghiệp 
đặc biệt là trong hoạt động xử lý vi phạm pháp 
luật về BVR là một việc làm hết sức quan trọng. 
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có 
thẩm quyền chuyên môn trong lĩnh vực bảo vệ 
và phát triển rừng là Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn (NN&PTNT). Bộ NN&PTNT 
là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng 
quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, 
diêm nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn 
trong phạm vi cả nước; Trong công tác quản lý 
về rừng, Bộ NN&PTNT tổ chức và phân công 
trách nhiệm cho Tổng cục Lâm nghiệp và Cục 
Kiểm lâm, trong đó Cục Kiểm lâm là cơ quan 
chuyên ngành trực thuộc Bộ NN&PTNT thực 
hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên 
ngành về bảo vệ tài nguyên rừng, thừa hành 
pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý 
lâm sản trên phạm vi toàn quốc. Do đó, hệ 
thống các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm 
quyền chuyên môn về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng bao gồm: 
Ủy ban nhân dân các cấp, Kiểm lâm các cấp. 
3.1.4. Thực trạng về sự phân công phối hợp để 
thực hiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp 
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng 
Để thực hiện cơ chế pháp lý về xử lý vi 
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát 
triển rừng thì việc phân công, phối hợp trong 
thực hiện các nhiệm vụ có liên quan là hết sức 
cần thiết. Hiện nay, việc phân công, phối hợp 
để thực hiện công tác xử lý vi phạm pháp luật 
về bảo vệ và phát triển rừng còn một số bất 
cập sau: 
Sự phân công về các hoạt động giữa các cơ 
quan thanh tra với cơ quan công an thiếu đồng 
bộ, chặt chẽ, nhiều trường hợp chuyển giao hồ 
sơ các vụ vi phạm có dấu hiệu phạm tội giữa 
các cơ quan thanh tra và cơ quan điều tra thiếu 
thống nhất, thường quá chậm so với thời hạn 
so pháp luật quy định, việc xử lý tiếp theo không 
có sự trao đổi thông tin để quản lý đối tượng. 
Pháp luật chưa quy định rõ ràng về thẩm 
quyền kiểm tra lâm sản trong khâu lưu thông 
và cất giữ gây khó khăn trong việc kiểm tra 
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 
Pháp luật chưa phân biệt rõ ràng giữa các hệ 
thống thanh tra, kiểm tra; giữa thanh tra nhà 
nước và thanh tra chuyên ngành nên dẫn tới 
việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lặp 
gây tâm lý không tốt và ảnh hưởng tới hoạt 
động của các đối tượng bị kiểm tra. 
Việc quy định về phạm vi, quyền hạn và 
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước 
về lâm nghiệp chưa rõ ràng, cơ chế phối hợp 
giữa các cơ quan nhà nước có liên quan thiếu 
chặt chẽ. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất lâm nghiệp còn chậm trễ tạo nên tâm 
lý chưa yên tâm sản xuất của chủ rừng. 
Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân 
đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự 
có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ 
điểm phá rừng trái phép chưa có phương án 
giải quyết của liên ngành. 
3.2. Nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của 
cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng 
Có rất nhiều nguyên nhân làm hạn chế hiệu 
quả của cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp 
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. 
Trong đó phải kể đến những nguyên nhân 
mang tính khách quan và chủ quan, đặc biệt là 
những nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách 
và ý thức. 
Bảo vệ rừng không phải là vấn đề hoàn toàn 
mới, nhưng chúng ta chưa có nhiều kinh 
Kinh tế & Chính sách 
188 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
nghiệm, tổ chức bộ máy chưa hoàn thiện mà 
lĩnh vực này mang tính đặc thù riêng. Đa số 
các địa phương nơi mà đời sống của đồng bào 
dân tộc ít người gắn liền với rừng lại là những 
nơi khó khăn về cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiếu 
cán bộ trong quản lý nhà nước, nhất là các địa 
phương miền núi, vùng sâu, vùng xa Hệ 
thống pháp luật của nước ta đang trong quá 
trình hoàn thiện có nhiều sửa đổi, bổ sung, số 
lượng văn bản rất nhỏ, điều chỉnh ở nhiều lĩnh 
vực khác nhau; một số quy định không phù 
hợp vói thực tiễn; việc tổng kết rút kinh 
nghiệm chưa được quan tâm đúng mức, ý thức 
tôn trọng pháp luật và phối hợp giữa các cơ 
quan và nhân dân chưa cao trong lĩnh vực bảo 
vệ rừng. 
Áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng 
nhanh do tăng cơ học, di cư tự do từ nơi khác, 
đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác, những đối 
tượng này chủ yếu là những hộ nghèo, đời 
sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa 
vào khai thác tài nguyên rừng. Nhận thức về 
bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục 
phá rừng kiếm kế sinh nhai, lấy đất canh tác 
hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để 
phá rừng hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép. 
Do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt 
hàng nông, lâm sản tăng cao, nhu cầu về đất 
canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên 
đã kích thích người dân phá rừng để lấy đất 
trồng các loại cây có giá trị cao hoặc buôn bán 
đất, sang nhượng trái phép. 
Việc tiếp nhận các vườn quốc gia, khu bảo 
tồn thiên nhiên từ các cơ quan khác nhau về 
lực lượng kiểm lâm thống nhất quản lý đã tăng 
thêm một khối lượng công việc làm cho việc 
bảo vệ càng khó khăn hơn. Giá trị lâm sản các 
loại, nhất là các loại quý hiếm tăng cao. Đây là 
nguyên nhân làm cho tình hình phá rừng ở một 
số địa phương, nhất là các khu rừng giáp ranh 
các tỉnh vẫn còn xảy ra, có lúc, có nơi khá 
nghiêm trọng. Tình hình chống người thi hành 
công vụ vẫn tiếp diễn, gây thiệt hại về tính 
mạng, sức khỏe cho công chức kiểm lâm trong 
khi thi hành công vụ. Các văn bản liên quan 
đến chế độ thâm niên, chế độ thương binh, liệt 
sỹ... chậm được ban hành nên ảnh hưởng đến đời 
sống, tinh thần của cán bộ công chức kiểm lâm... 
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội 
trong tình hình mới, nhiều công trình xây 
dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được 
xây dựng gây áp lực lớn đối với rừng và đất 
lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các 
hoạt động phá rừng, khai thác và vận chuyển 
lâm sản trái phép. 
Nguyên nhân của việc phá rừng giảm chưa 
đáng kể là do một số địa phương chưa tích cực 
thực hiện các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ 
nên một số vùng trọng điểm phá rừng, buôn 
bán, vận chuyển lâm sản trái phép có chiều 
hướng gia tăng. 
Các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là 
cấp xã nhận thức chưa đầy đủ, tổ chức thực 
hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà 
nước về rừng và đất lâm nghiệp. Ở những điểm 
nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, 
thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi 
phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang 
nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý 
nghiêm túc. Sau một thời gian thực hiện các 
biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá 
rừng theo chỉ đạo của Thủ tướng, một số nơi 
có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không 
duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình 
trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp 
luật tiếp tục tái xuất hiện. 
Chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, 
Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng 
không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích 
rừng được giao. Công tác tuyên truyền, phổ 
biến pháp luật nói chung, pháp luật trong 
quản lý bảo vệ rừng nói riêng chưa được chú 
trọng đúng mức và chưa được thực hiện tốt 
trong cả nước. 
Cán bộ, công chức ngành kiểm lâm vẫn 
chưa đủ số lượng, một số bộ phận còn bất cập, 
không đồng đều về trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ, trong khi đó công tác đào tạo, bồi 
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mặc dù đã được 
quan tâm, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu 
cầu. Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm 
pháp luật ranh giới giữa hành chính và hình sự 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 189 
chưa rõ ràng cho nên nhiều hành vi nguy hiểm 
cho xã hội đáng lẽ xử lí hình sự nhưng vẫn 
được vận dụng “lách luật” để xử lý hành chính 
dẫn đến các chế tài được áp dụng không đủ sức 
trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa 
chung. Ngược lại có rất nhiều vụ việc lại bị hình 
sự hoá các vi phạm hành chính làm mất thời 
gian trong việc xem xét và xử lý vi phạm. 
Việc tổ chức điều tra, truy tố, xét xử các 
loại tội phạm trong lĩnh vực bảo vệ rừng 
thường chậm, áp dụng các chế tài xử phạt chưa 
nghiêm minh, có dấu hiệu thiếu minh bạch. 
Pháp luật chưa quy định cơ chế giám sát 
việc xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực 
bảo vệ rừng một cách rõ ràng, cụ thể. 
Chưa huy động được các lực lượng của xã 
hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp giữa các lực 
lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều 
địa phương chưa thật sự có hiệu quả, còn mang 
tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái 
phép chưa có phương án giải quyết của liên 
ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, 
thiếu kiên quyết, còn có những quan điểm 
khác nhau của các cơ quan chức năng ở một 
số địa phương. 
3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử 
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ 
và phát triển rừng 
Giải pháp đối với việc hoàn thiện quy định 
của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong 
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng: Tiếp tục 
hoàn thiện về hình thức và tính hệ thống của 
văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Tiếp tục 
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung pháp luật 
về cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực bảo vệ rừng; Đặc biệt là có quy 
định rõ ràng hơn về chế độ trách nhiệm pháp lý 
về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này 
vì trên thực tế quy định về chế độ trách nhiệm 
pháp lý là cơ sở cho hoạt động xử lý vi phạm 
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền. Phải rà soát, bổ sung sửa đổi các quy 
định trong luật BV&PTR và các văn bản 
hướng dẫn thi hành cụ thể hoá luật cho đầy đủ, 
cụ thể, trong đó chú trọng tới công tác tổ chức 
và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước 
các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp; công 
tác kiểm lâm; quyền và nghĩa vụ của các tổ 
chức cá nhân được nhà nước giao đất để trồng 
rừng và bảo vệ rừng; kinh doanh lâm nghiệp, 
vấn đề cho thuê rừng, đất lâm nghiệp. Mặt 
khác cần phải tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ 
sung một số quy định trong các văn bản quy 
phạm pháp luật hiện hành của các ngành luật 
có liên quan đến pháp luật bảo vệ rừng như: 
Pháp luật đất đai, Pháp luật về môi trường, Tài 
nguyên nước, Pháp luật hình sự, các quy định 
về xử phạt vi phạm hành chính Loại bỏ 
những quy định không còn phù hợp để đảm 
bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản 
này với Luật BV&PTR. 
Hoàn thiện các quy định về tổ chức của các 
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo 
vệ rừng. Các văn bản quy phạm pháp luật ban 
hành kèm theo hướng xây dựng và hoàn thiện 
bộ máy quản lý nhà nước hiện nay, trước hết 
và chủ yếu là cải cách hành chính nhà nước, 
xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống 
nhất, thông suốt có hiệu lực và hiệu quả, đủ 
năng lực thực thi nhiệm vụ. Cần phân định rõ 
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ 
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lâm 
nghiệp. Trên thực tế hiện nay đặc biệt trong 
lĩnh vực lâm nghiệp còn có rất nhiều điểm 
chồng chéo về mặt chức năng nhiệm vụ. 
Về sự phối hợp thực hiện xử lý vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển 
rừng: Lực lượng công an cần hỗ trợ và phối 
hợp thường xuyên với lực lượng kiểm lâm 
trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng 
theo một cơ chế thống nhất; tổ chức điều tra 
nắm chắc các đối tượng phá rừng, kinh doanh 
buôn bán lâm sản trái phép, đặc biệt phải triển 
khai các biện pháp kiên quyết trừng trị thích 
đáng; ngăn chặn triệt để tình trạng chống người 
thi hành công vụ; phối hợp với các lực lượng 
có liên quan truy quét bọn phá rừng và kiểm 
tra, kiểm soát lưu thông lâm sản. Rà soát và xử 
lý dứt điểm các vụ án hình sự tồn đọng trong 
lĩnh vực bảo vệ rừng. 
Kinh tế & Chính sách 
190 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
IV. KẾT LUẬN 
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về pháp 
luật, xử lý vi phạm pháp luật trong cơ chế pháp 
lý xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát 
triển rừng chúng ta có thể nhận thấy tình hình 
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này diễn ra 
ngày càng nghiêm trọng với quy mô ngày càng 
lớn, công cụ phương tiện vi phạm ngày càng 
tình vi hơn. Vì vậy để cơ chế pháp lý về xử lý 
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và 
phát triển rừng thực sự đạt hiệu quả thì một 
mặt cần phải có các quy phạm pháp luật chặt 
chẽ, đồng bộ, bên cạnh đó cần phải đổi mới 
hơn nữa các cơ quan có thẩm quyền chuyên 
môn trong lĩnh vực này, đặc biệt là cơ quan 
Kiểm lâm và Ủy ban nhân dân cấp xã. Bởi vì 
đây sẽ là hai cơ quan có chức năng, có nhiệm 
vụ chuyên trách trong công tác xử lý vi phạm 
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài 
ra việc thực hiện tốt cơ chế phối hợp để xử lý 
vi phạm, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng 
dân cư, của các tổ chức xã hội đóng trên địa 
bàn cũng là một trong những hoạt động hết sức 
có ý nghĩa để thực hiện có hiệu quả cơ chế 
pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh 
vực bảo vệ và phát triển rừng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Luật hình sự (2017). Nhà xuất bản Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
2. Bộ NN&PTNT (2017). Quyết định số 1819 về 
công bố hiện trạng rừng toàn quốc. 
3. Bạch Xuân Hòa (2014). Bảo vệ tài nguyên rừng 
bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam. Luận văn thạc sỹ 
Luật học. 
4. Một số quy định pháp luật về xử phạt hành chính 
và hình sự trong quản lý và bảo vệ rừng, quản lý lâm sản 
(2017). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
5. Tổng cục Lâm nghiệp (2017). Báo cáo tổng kết 
năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ năm 2018. 
SITUATION AND SOLUTIONS FOR THE SURVEY 
OF THE LEGAL MECHANISM OF HANDLING VIOLATIONS 
IN THE FIELD OF FOREST PROTECTION AND DEVELOPMENT 
IN THE LAST YEAR 
Nguyen Thi Tien 
Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
The research on the current status and solutions to improve the legal mechanism for dealing with violations of 
the law in the field of forest protection and development is very necessary and extremely important both in 
theory and practice. As in the current period, forest degradation occurs in most provinces and cities nationwide. 
The causes of deforestation and forest loss are many, including both subjective and objective causes. The 
subjective causes include: mechanisms, policies and current status of staff involved in the handling of 
violations... Accordingly, the legal mechanism including from the mechanism, the law, the reality of the 
coordination in the treatment is very important. Therefore, the assessment of the current situation to propose 
solutions to perfect the legal mechanism on the handling of violations in the field of forest protection and 
development in our country today is very necessary. 
Keywords: Forest protection and development, handling of violations of law, legal mechanism. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_giai_phap_hoan_thien_co_che_phap_ly_xu_ly_vi_p.pdf