Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018

Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu “Mô tả thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018”. Nghiên cứu áp dụng thiết kế mô tả cắt ngang, phỏng vấn 199 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách bệnh nhân THA đang được quản lý tại Bệnh viện Quận 2. Thang đo “Morisky Medication Adherence Scale - MMAS -8” đã được áp dụng trong nghiên cứu để đánh giá mức độ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân. Các kết quả chính của nghiên cứu: Tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân THA là 41,2%; Có tới trên 50% bệnh nhân không dùng thuốc trong vòng 2 tuần trước ngày điều tra (58,3%); Khoảng 1/3 số bệnh nhân đã từng quên uống thuốc trong vòng 6 tháng trước ngày điều tra (39,7%); gần một nửa số bệnh nhân tự ý giảm liều hoặc ngưng thuốc (46,7%); chỉ có 23,6% bệnh nhân tái khám định kỳ đúng lịch hẹn

pdf 5 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018

Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 43
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu “Mô tả thực 
trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp tại 
Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018”. 
Nghiên cứu áp dụng thiết kế mô tả cắt ngang, phỏng vấn 
199 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách 
bệnh nhân THA đang được quản lý tại Bệnh viện Quận 2. 
Thang đo “Morisky Medication Adherence Scale - MMAS 
-8” đã được áp dụng trong nghiên cứu để đánh giá mức độ 
tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân. Các kết quả chính 
của nghiên cứu: Tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh 
nhân THA là 41,2%; Có tới trên 50% bệnh nhân không 
dùng thuốc trong vòng 2 tuần trước ngày điều tra (58,3%); 
Khoảng 1/3 số bệnh nhân đã từng quên uống thuốc trong 
vòng 6 tháng trước ngày điều tra (39,7%); gần một nửa số 
bệnh nhân tự ý giảm liều hoặc ngưng thuốc (46,7%); chỉ 
có 23,6% bệnh nhân tái khám định kỳ đúng lịch hẹn. 
Từ khóa: Tuân thủ điều trị; tăng huyết áp
SUMMARY:
REAL SITUATION OF TREATMENT 
COMPLIANCE OF HYPERTENSIVE PATIENTS IN 
DISTRICT 2 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY IN 2018
The study was conducted with the goal “Describe the 
current status of treatment compliance of hypertensive 
patients in District 2 Hospital, Ho Chi Minh City in 2018”. 
The study applied cross-sectional descriptive design, 
interviewing 199 patients who were randomly selected 
from the list of hypertensive patients being managed 
at the hospital. The questionaire “Morisky Medication 
Adherence Scale - MMAS-8” was used in this study in 
order to assess the patient’s adherence to medication. The 
main results of the study: The rate of hypertensive patients 
who have complied with the medication is 41.2%; more 
than 50% of patients did not take the drug within 2 weeks 
before the survey date (58.3%); Approximately one third 
of patients who have forgotten to take their medication 
within 6 months before the survey date (39.7%); Nearly 
half of patients arbitrarily reduced the dose or discontinued 
the drug (46.7%); Only 23.6% of patients re-examined 
periodically according to schedule. 
Keywords: Adherence to Medication; hypertension.
I . ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, tăng huyết áp (THA) là 
một bệnh mạn tính phổ biến nhất trong cộng đồng, đặc 
biệt ở các nước đang phát triển. Số liệu thống kê cho 
thấy, tỷ lệ mắc THA ở người lớn khoảng 25-35%. Mỗi 
năm trên thế giới có khoảng 9 triệu người tử vong do 
các biến chứng của THA [1]. Tại Việt Nam, số người 
hiện mắc THA khoảng 12 triệu người. Đồng thời, cùng 
với quá trình già hóa dân số, THA có xu hướng gây ra 
gánh nặng tàn tật và tử vong ngày càng nghiêm trọng 
[2]. THA là một bệnh mạn tính, vì vậy, để kiểm soát 
được bệnh, bệnh nhân cần được điều trị lâu dài và tuân 
thủ việc dùng thuốc cũng như thực hiện chế độ dinh 
dưỡngvà vận động thể lực hợp lý. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị của các bệnh nhân THA 
trên thế giới chỉ khoảng 30% [3]. Một số nghiên cứu 
tại Việt Nam cũng đã chỉ ra tỷ lệ tuân thủ điều trị THA 
trong khoảng 30-45% [4] [5]. Vì vậy, việc đánh giá 
thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân THA và đề 
xuất các can thiệp kịp thời là việc làm cần thiết. Xuất 
phát từ nhu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân 
tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 
Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018”. Kết quả 
nghiên cứu sẽ cung cấp các bằng chứng khoa học cho 
việc đề xuất các kế hoạch can thiệp phù hợp nhằm nâng 
cao hiệu quả điều trị THA cho bệnh nhân.
Ngày nhận bài: 01/06/2019 Ngày phản biện: 06/06/2019 Ngày duyệt đăng: 13/06/2019
THỰC TRẠNG TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ CỦA BỆNH NHÂN TĂNG 
HUYẾT ÁP ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2, 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
Phạm Phương Liên1, Trần Công Trưởng2
1. Trường Đại học Y tế Công cộng
2. Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Phạm Phương Liên, Điện thoại: 0904646695, Email: [email protected]
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn44
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Biểu đồ 1. Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp 
Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân THA
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu áp dụng thiết kế mô tả cắt ngang, thu thập 
số liệu định lượng
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân THA đang 
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 2, TP. Hồ Chí Minh.
Cỡ mẫu nghiên cứu:
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu xác định một tỷ lệ 
(chỉ số chính của nghiên cứu là tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ 
điều trị), chúng tôi tính được cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho 
nghiên cứu là 179. Trên thực tế, chúng tôi đã lựa chọn 199 
bệnh nhân bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn từ 
danh sách 2800 bệnh nhân THA đang được quản lý điều trị 
tại Bệnh viện Quận 2. 
Thu thập số liệu
Số liệu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn 
trực tiếp các bệnh nhân THA đã được lựa chọn vào mẫu 
nghiên cứu dựa trên bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Nghiên cứu sử 
dụng thang đo “Morisky Medication Adherence Scale 
- MMAS -8” để đánh giá thực trạng tuân thủ dùng thuốc 
của bệnh nhân [6]. Ngoài ra, nghiên cứu còn thu thập thêm 
các thông tin về hành vi, lối sống của bệnh nhân như thói 
quen ăn uống, vận động thể lực
Xử lý số liệu
Số liệu sau khi được làm sạch được nhập vào phần 
mềm Epidata 3.1, phân tích bằng phần mềm STATA 13.
Đạo đức nghiên cứu:
Nghiên cứu đã được “Hội đồng Đạo đức - Trường 
Đại học Y tế Công cộng” phê duyệt trước khi tiến hành 
nghiên cứu.
Các đối tượng nghiên cứu được giải thích rõ mục 
đích, ý nghĩa của nghiên cứu, tình nguyện đồng ý tham 
gia nghiên cứu và có quyền từ chối cung cấp thông tin bất 
cứ lúc nào.
Các thông tin cá nhân được giữ bí mật và chỉ 
nhằm mục đích nghiên cứu, không nhằm bất cứ mục 
đích nào khác.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 199 bệnh 
nhân THA đang được quản lý điều trị tại Bệnh viện Quận 
2, TP.HCM. Việc tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân được 
đánh giá bằng thang đo MMAS -8 [6]. Bệnh nhân trả lời 8 
câu hỏi về quá trình dùng thuốc. Trong đó, các câu hỏi từ 
1-7 là loại câu hỏi “có/không”; ví dụ “Có quên uống thuốc 
không?”; “Có uống đủ thuốc không?”; “Có quên mang 
thuốc theo khi đi du lịch, đi chơi không?”... Riêng câu hỏi 
số 8 có 5 lựa chọn theo thang Likert đánh giá về “mức độ 
thường xuyên cảm thấy khó khăn khi phải nhớ uống tất 
cả các loại thuốc”. Người bệnh trả lời “không” đối với 5 
trong số các câu hỏi từ 1-7; và “không bao giờ/hiếm khi” 
đối với câu hỏi số 8 được đánh giá là “tuân thủ điều trị”. 
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong các bảng, biểu đồ 
sau đây:
Biểu đồ 1 cho thấy: có 41,2% số bệnh nhân THA đã 
tuân thủ việc dùng thuốc trong điều trị; có tới trên một nửa 
(58,8%) chưa tuân thủ tốt việc dùng thuốc trong quá trình 
điều trị.
41,2%
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 45
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả bảng 1 cho thấy có tới 78,9% bệnh nhân còn có 
tâm lý cảm thấy phiền khi phải uống thuốc hàng ngày. Trên 
50% bệnh nhân đã không uống thuốc trong vòng 2 tuần trước 
ngày điều tra (58,3%). Khoảng 2/3 số bệnh nhân đã từng quên 
thuốc khi đi du lịch (65,3%). Khoảng 40% bệnh nhân đã từng 
quên uống thuốc trong 6 tháng qua (39,7%) hoặc ngừng thuốc 
khi thấy huyết áp đã được kiểm soát (45,2%). 
Bên cạnh việc tìm hiểu thông tin tuân thủ dùng thuốc 
của bệnh nhân, nghiên cứu của chúng tôi còn tiến hành tìm 
hiểu thực trạng tuân thủ tái khám và các thông tin về thói 
quen ăn uống và vận động thể lực của bệnh nhân. Kết quả 
được trình bày trong các bảng sau:
Kết quả bảng trên cho thấy chỉ có 23,6% bệnh nhân 
tái khám định kỳ theo đúng lịch hẹn của bác sỹ. Tỷ lệ bệnh 
nhân không tuân thủ tái khám định kỳ theo đúng lịch hẹn 
là khá cao (76,4%).
Bảng 1. Thực trạng dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp
Thực trạng dùng thuốc Số trường hợp (N =199) Tỷ lệ (%)
Đã từng quên uống thuốc trong 6 tháng qua 79 39,7
Không uống thuốc trong 2 tuần qua 116 58,3
Từng giảm hoặc ngừng uống thuốc mà không thông báo cho bác sĩ 93 46,7
Đã từng quên thuốc khi đi xa nhà (du lịch) 130 65,3
Không uống thuốc ngày hôm qua 96 48,2
Ngừng uống thuốc khi huyết áp đã kiểm soát 90 45,2
Thấy phiền khi uống thuốc hàng ngày 157 78,9
Khó khăn khi nhớ lịch uống thuốc 95 47,7
Bảng 2. Tỷ lệ bệnh nhân tái khám định kỳ đúng hẹn
Tái khám đúng hẹn Số trường hợp Tỷ lệ %
Có 47 23,6
Không 152 76,4
Tổng số 199 100
Bảng 3. Lý do bệnh nhân không tuân thủ tái khám định kỳ đúng hẹn
 Lý do không đi tái khám đúng hẹn Số trường hợp (N=152) Tỷ lệ (%)
Ngại, không quan tâm 1 0,6
Bận việc 101 66,5
Thấy bình thường nên không cần đi khám 59 38,8
Không có BHYT hoặc BHYT hết hạn 72 47,3
Không có đủ tiền 44 28,9
 (Ghi chú: Tổng số bệnh nhân không đi tái khám định kỳ đúng hẹn là 152)
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn46
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Số liệu trên bảng 3 cho thấy, khoảng 2/3 số bệnh nhân 
(66,5%) trả lời không đi tái khám định kỳ đúng hẹn do bận 
việc; khoảng 1/3 số bệnh nhân (38,8%) không đi tái khám 
do cảm thấy sức khỏe bình thường; gần một nửa số bệnh 
nhân (47,3%) không đi tái khám do không có BHYT hoặc 
BHYT hết hạn. Đặc biệt, có 28,9% bệnh nhân không đi tái 
khám do không có đủ tiền. 
Bảng trên cho thấy phần lớn bệnh nhân có thói quen 
ăn mặn (70,3%); 22,1% bệnh nhân có hút thuốc lá và 
20,6% bệnh nhân vẫn sử dụng rượu bia thường xuyên; 
41,7% bệnh nhân vận động thể lực thường xuyên. 
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã được tiến hành nhằm 
đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của các bệnh nhân đang 
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 2, TP. HCM. Nghiên 
cứu đã sử dụng thang đo “Morisky Medication Adherence 
Scales - MMAS - 8” để đánh giá mức độ tuân thủ điều 
trị thuốc của bệnh nhân THA. Thang đo MMAS- 8 là bộ 
công cụ đã được chuẩn hóa, đảm bảo độ tin cậy và được sử 
dụng tại nhiều nước trên thế giới để đánh giá mức độ tuân 
thủ thuốc của bệnh nhân nói chung và bệnh nhân THA nói 
riêng [6]. Trong nghiên cứu này, ngoài việc sử dụng thang 
đo có độ tin cậy cao, chúng tôi đã sử dụng thiết kế nghiên 
cứu đảm bảo tính khoa học, qui trình thu thập số liệu được 
kiểm soát chặt chẽ để thu được một số kết quả có ý nghĩa 
như sau:
Tỷ lệ bệnh nhân THA tại Bệnh viện Quận 2, TP.HCM 
tuân thủ dùng thuốc theo chỉ định là 42,1%. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn kết quả của một số nghiên cứu 
khác tại Việt Nam, ví dụ như: nghiên cứu của Bùi Thị Nhi 
tại Long An đưa ra tỷ lệ tuân thủ điều trị là 28,4% [7]; 
nghiên cứu của Bùi Thị Mai Tranh tại TP.HCM cho kết 
quả bệnh nhân tuân thủ điều trị là 25% [8]. Sự khác biệt 
này có thể được giải thích do đối tượng nghiên cứu khác 
nhau. Nghiên cứu của Bùi Thị Nhi lựa chọn đối tượng 
nghiên cứu tại cộng đồng, vì vậy, kiến thức về bệnh THA 
của họ có thể không tốt bằng các bệnh nhân đang được 
quản lý điều trị tại bệnh viện dẫn đến tuân thủ điều trị 
kém hơn. Tương tự như vậy, nghiên cứu của Bùi Thị Mai 
Tranh chỉ nghiên cứu trên các bệnh nhân cao tuổi, vì vậy 
khả năng nhớ và tuân thủ dùng thuốc có thể kém hơn bệnh 
nhân ở các nhóm tuổi khác. Khi so sánh với kết quả nghiên 
cứu của Vũ Xuân Phú, có đối tượng gần giống với nghiên 
cứu của chúng tôi (các bệnh nhân trong độ tuổi 25-60, 
sống tại khu vực thành thị) thì kết quả của chúng tôi tương 
đối tương đồng. Nghiên cứu của Vũ Xuân Phú đưa ra tỷ lệ 
tuân thủ điều trị của bệnh nhânTHA là 44,8%.
Ngoài việc đánh giá tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc điều 
trị THA nói chung, nghiên cứu đã tìm hiểu việc thực hành 
dùng thuốc của bệnh nhân đối với một số nội dung cụ 
thể. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ bệnh nhân không uống thuốc 
trong vòng 2 tuần trước ngày điều tra khá cao (58,3%). 
Tỷ lệ bệnh nhân trả lời thỉnh thoảng có quên uống thuốc 
trong vòng 6 tháng trước ngày điều tra là 39,7%; Tỷ lệ 
này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh 
Đức (23,5%) [9] và kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh 
Nguyên tại Trung tâm Y tế thành phố Thủ Dầu Một (21%) 
[10]. 
Trong quá trình sử dụng thuốc điều trị THA, bệnh 
nhân có thể gặp một số tác dụng không mong muốn của 
thuốc gây khó chịu. Vì vậy, bệnh nhân thường có xu 
hướng giảm liều hoặc ngừng thuốc khi thấy chỉ số huyết 
áp đã được kiểm soát. Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ 
bệnh nhân tự ý giảm hoặc ngưng thuốc khá cao (46,7%). 
Chỉ số này cao hơn rất nhiều so với kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Minh Nguyên (8%) [10]. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 23,6% bệnh nhân 
THA tại Bệnh viện Quận 2 tái khám định kì theo lịch hẹn 
của bác sĩ. Chỉ số này thấp hơn kết quả nghiên cứu của 
Bùi Thị Mai Tranh (34,0%) [8] và thấp hơn nhiều so với 
Bảng 4. Thói quen ăn, uống và vận động thể lực của bệnh nhân 
 Thói quen Số trường hợp (N=199) Tỷ lệ (%)
Uống rượu, bia thường xuyên 41 20,6
Hút thuốc lá 44 22,1
Vận động thể lực thường xuyên 83 41,7
Ăn mặn 140 70,3
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 47
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nghiên cứu của Nguyễn Minh Nguyên (71,0%) [10]. 
Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra, một trong các 
lý do chính khiến bệnh nhân không tuân thủ dùng thuốc là 
do họ thiếu kiến thức về bệnh và lo ngại về các tác dụng 
không mong muốn có thể gặp phải khi dùng thuốc. Vì vậy, 
để tăng cường việc tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân, 
các bác sỹ cần cung cấp thông tin chi tiết cho bệnh nhân 
về bệnh THA, tác dụng điều trị cũng như tác dụng không 
mong muốn của thuốc. Đồng thời bệnh nhân cần được giải 
thích rõ tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị và các 
biến chứng có thể gặp phải nếu không dùng thuốc đúng 
cách. Bên cạnh đó, người nhà của bệnh nhân, đặc biệt là 
các bệnh nhân cao tuổi cần quan tâm giúp đỡ, nhắc nhở và 
động viên bệnh nhân dùng thuốc đều đặn để tăng hiệu quả 
điều trị THA cho người bệnh [11, 12].
Nghiên cứu của chúng tôi đã áp dụng thang đo MMAS 
-8 để đo lường mức độ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân 
THA. Thang đo này là một bộ công cụ đã được chuẩn hóa, 
có độ tin cậy cao và sử dụng tại nhiều nước trên thế giới để 
đo lường mức độ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân. Tuy 
nhiên, đây là một thang đo gián tiếp, sử dụng các câu hỏi 
về lịch sử dùng thuốc của bệnh nhân trong vòng 6 tháng 
nên không tránh khỏi sai số nhớ lại. Để giảm thiểu sai số, 
chúng tôi đã sử dụng các điều tra viên có kinh nghiệm, tập 
huấn kỹ lưỡng điều tra viên và giám sát chặt chẽ qui trình 
thu thập và xử lý số liệu. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi 
đã đưa ra được kết quả tương đối tin cậy về mức độ tuân 
thủ điều trị của người bệnh THA tại địa bàn nghiên cứu.
V. KẾT LUẬN
Sau quá trình triển khai nghiên cứu một cách nghiêm 
túc, chúng tôi rút ra một số kết luận chính như sau:
Nhìn chung, bệnh nhân THA tại Bệnh viện Quận 2 
– TP.HCM chưa tuân thủ điều trị tốt: Tỷ lệ tuân thủ dùng 
thuốc của bệnh nhân THA là 41,2%; Có tới trên 50% bệnh 
nhân không dùng thuốc trong vòng 2 tuần trước ngày điều tra 
(58,3%); Khoảng 1/3 số bệnh nhân đã từng quên uống thuốc 
trong vòng 6 tháng trước ngày điều tra (39,7%); gần một nửa 
số bệnh nhân tự ý giảm liều hoặc ngưng thuốc (46,7%); chỉ có 
23,6% bệnh nhân tái khám định kỳ đúng lịch hẹn. 
Lời cảm ơn: 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Bệnh viện Quận 2 
–TP.HCM đã tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này đạt kết quả tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế, Tiếp cận đa ngành với tăng huyết áp, Hội nghị tăng huyết áp Việt Nam, 2016.
2. Nguyễn Minh Nguyên, Tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp tại khoa Khám bệnh, Trung tâm Y tế 
thành phố Thủ Dầu Một năm 2013, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
3. Vũ Xuân Phú và cộng sự, Thực trạng kiến thức về bệnh tăng huyết áp và tuân thủ điều trị của bệnh nhân 25-60 
tuổi ở 4 phường, thành phố Hà Nội năm 2011. Tạp chí Y học Thực hành 2012. 817(4): tr. 10-15.
4. Bùi Thị Nhi, Tỷ lệ tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan của bệnh nhân tăng huyết áp tại xã Phước Lợi, huyện 
Bến Lức, tỉnh Long An năm 2015, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
5. Bùi Thị Mai Tranh, Sự tuân thủ dùng thuốc hạ áp trên bệnh nhân cao tuổi tăng huyết áp. Tạp chí Y học TP.Hồ 
Chí Minh, 2011.
6. Nguyễn Minh Đức, Bùi Thị Mai Tranh, Nguyễn Đỗ Nguyên, Sự tuân thủ dùng thuốc hạ áp trên bệnh nhân cao 
tuổi tăng huyết áp. Tạp chí Y học TP.Hồ Chí Minh, 2012. 16(4).
7. Nguyễn Minh Nguyên, Tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp tại khoa Khám bệnh, Trung tâm Y tế 
thành phố Thủ Dầu Một năm 2013, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
8. Hashmi, S.K., et al., Factors associated with adherence to anti-hypertensive treatment in Pakistan. PLoS One, 
2007. 2(3): p. 280.
9. Osamor, P.E. and B.E. Owumi, Factors associated with treatment compliance in hypertension in southwest 
Nigeria. J Health Popul Nutr, 2011. 29(6): p. 619-628.
10. World Health Organization, International Society of Hypertension statement and management of hypertension. 
Journal of Hypertension, 2012. (21).
11. CDC, Medication Adherence Primary Care Educators may use the following slides for their own teaching 
purposes, CDC’s Noon Conference, 2013.
12. Moon, S.J., et al., Accuracy of a screening tool for medication adherence: A systematic review and meta-
analysis of the Morisky Medication Adherence Scale-8. PLoS One, 2017. 12(11).

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tuan_thu_dieu_tri_cua_benh_nhan_tang_huyet_ap_dan.pdf