Thực trạng tự quản lý đường huyết của người bệnh đái tháo đường type II điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên

Mục tiêu: Đánh giá mức độ tự quản lý đường huyết và xác định một số yếu tố liên quan đến tự quản lý đường huyết của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn với 150 người bệnh đái tháo đường type 2. Kết quả: Tự quản lý đường huyết của đối tượng nghiên cứu ở mức độ trung bình với điểm tự quản lý là 2,83 ± 0,45. Trong đó,tuân thủ chế độ điều trị có điểm số cao nhất (3,55 ± 0,68), tiếp đến là sự tương tác (2,79 ± 0,67), sự tích hợp (2,75 ± 0,66); tự theo dõi (2,57 ± 0,76) và thấp nhất là tự điều chỉnh (2,49 ± 0,72). Giới tính (p < 0,001),="" thời="" gian="" chẩn="" đoán="" bệnh="" (r="0,62;" p="">< 0,001),="" sự="" hỗ="" trợ="" xã="" hội="" (r="0,22;" p="0,007)có" mối="" tương="" quan="" thuận="" với="" tự="" quản="" lý="" đường="" huyết.="" kết="" luận:="" tự="" quản="" lý="" đường="" huyết="" của="" đối="" tượng="" nghiên="" cứu="" ở="" mức="" độ="" trung="" bình.="" giới="" tính,="" thời="" gian="" chẩn="" đoán="" bệnh="" và="" sự="" hỗ="" trợ="" xã="" hội="" có="" mối="" tương="" quan="" với="" điểm="" số="" tự="" quản="" lý="" đường="" huyết="" của="" người="">

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tự quản lý đường huyết của người bệnh đái tháo đường type II điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng tự quản lý đường huyết của người bệnh đái tháo đường type II điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên

Thực trạng tự quản lý đường huyết của người bệnh đái tháo đường type II điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên
141
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THỰC TRẠNG TỰ QUẢN LÝ ĐƯỜNG HUYẾT CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO 
ĐƯỜNG TYPE II ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN A THÁI NGUYÊN
Dương Thị Tố Anh1, Bùi Văn Khanh1, Hoàng Thị Thúy Hằng1, 
Phạm Thị Ngọc Diệp1, Nguyễn Hữu Đức2
1Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
2Bệnh viện Quân y 103
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá mức độ tự quản lý 
đường huyết và xác định một số yếu tố liên 
quan đến tự quản lý đường huyết của người 
bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị 
ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng bộ 
câu hỏi phỏng vấn với 150 người bệnh đái 
tháo đường type 2. Kết quả: Tự quản lý 
đường huyết của đối tượng nghiên cứu ở 
mức độ trung bình với điểm tự quản lý là 
2,83 ± 0,45. Trong đó,tuân thủ chế độ điều 
trị có điểm số cao nhất (3,55 ± 0,68), tiếp 
đến là sự tương tác (2,79 ± 0,67), sự tích 
hợp (2,75 ± 0,66); tự theo dõi (2,57 ± 0,76) 
và thấp nhất là tự điều chỉnh (2,49 ± 0,72). 
Giới tính (p < 0,001), thời gian chẩn đoán 
bệnh (r = 0,62; p < 0,001), sự hỗ trợ xã hội (r 
= 0,22; p = 0,007)có mối tương quan thuận 
với tự quản lý đường huyết. Kết luận: Tự 
quản lý đường huyết của đối tượng nghiên 
cứu ở mức độ trung bình. Giới tính, thời 
gian chẩn đoán bệnh và sự hỗ trợ xã hội 
có mối tương quan với điểm số tự quản lý 
đường huyết của người bệnh.
Từ khóa: Đái tháo đường type 2, tự 
quản lý đường huyết, các yếu tố ảnh hưởng.
SELF-MANAGEMENT OF BLOOD GLUCOSE INOUT-PATIENTS WITH TYPE 
2DIABETES IN THAI NGUYEN HOSPITAL A
ABSTRACT
Objective: To assess the Self-
manangement of bloodglucose level andto 
identify related factors among out-patients 
with diabetes mellitus type 2 in Thai Nguyen 
Hospital A in 2020. Method: A cross-
sectional study design was conducted, a 
self-completed questionnaire was used 
for data collection of 150 out-patients with 
type 2diabetes. Results: The mean score 
of bloodglucose self-management among 
patients with diabetes mellitus type 2was 
2.83 ± 0.45 points equal to moderate level. 
Adherence to recommended regimen 
had the highest mean score (3.55 ± 0.68) 
compared to other dimensions, followed by 
interaction with health care professionals 
and significant othersdimension (2.79 ± 
0.67),Self-integration dimension (2.75 ± 
0.66), Self-monitoring dimension (2.57 ± 
0.6) and the lowest dimension was Self-
regulation dimension (2.49 ± 0.72). Gender 
(p<0.001), time duration of type 2 diabetes 
(r = 0.62; p < 0.001), social surport (r = 
0.22; p = 0.007) was significantly correlated 
with the blood glucose Self-management.
Conclusion: Self-management of blood 
glucose among patients with diabetes 
mellitus type 2was moderate level. Blood 
Người chịu trách nhiệm: Dương Thị Tố Anh 
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 02/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
142
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
glucose self-management among patients 
with diabetes mellitus type 2 was correlated 
with gender, duration of diabetes and social 
support.
Keywords: Type 2 diabetes, blood 
glucose self-management, related factors.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh nội 
tiết chuyển hóa thường gặp nhất và là một 
bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất trên 
toàn cầu. Theo báo cáo của Liên đoàn Đái 
tháo đường Quốc tế năm 2015, trên thế 
giới có khoảng 8,8% dân số trưởng thành 
mắc bệnh đái tháo đường. Tại Việt Nam, 
theo báo cáo của Hiệp hội đái tháo đường 
thế giới IDF Diabetes Atlas năm 2015 có 
khoảng 3,5 triệu người mắc bệnh đái tháo 
đường chiếm tỷ lệ 5,6%và con số này được 
dự báo sẽ tăng lên 6,1 triệu vào năm 2040 
[1]. Mỗi năm, trên thế giới có 5 triệu người 
và cứ 6 giây có một người chết vì căn bệnh 
này. 
Bệnh ĐTĐ type 2 chiếm khoảng 90% các 
trường hợp tiểu đường. Nguyên nhân là do 
tương tác giữa gen, môi trường và hành vi. 
Trong đó, hành vi là một trong những yếu tố 
nguy cơ quan trọng. Kiểm soát được yếu tố 
này có thể phòng tránh được bệnh và hạn 
chế được biến chứng của bệnh ĐTĐ. Điều 
này đòi hỏi người bệnh phải có sự tự quản 
lý tốt. Sự tự quản lý được định nghĩa là 
“khả năng của cá nhân để quản lý các triệu 
chứng, điều trị, các hậu quả thể chất, tâm 
lý và thay đổi lối sống vốn có trong cuộc 
sống với một tình trạng mạn tính. Hiệu quả 
tự quản lý bao gồm khả năng theo dõi tình 
trạng của một người và ảnh hưởng đến các 
phản ứng về nhận thức, hành vi và cảm xúc 
cần thiết để duy trì chất lượng đạt yêu cầu 
của cuộc sống. Do đó, một quá trình năng 
động và liên tục tự điều chỉnh được thiết 
lập” [2]. 
Sự tự quản lý của người bệnh mang lại 
hiệu quả cao trong việc kiểm soát đường 
huyết và hạn chế biến chứng của bệnh ĐTĐ. 
Các nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng việc 
thay đổi lối sống như tập thể dục thường 
xuyên, duy trì cân nặng bình thường và ăn 
uống đúng cách là cần thiết giúp điều chỉnh 
đường huyết, hạn chế biến chứng [3]. Việc 
thường xuyên kiểm tra đường huyết, tuân 
thủ chế độ điều trị cũng được đề cập đến 
để phòng tránh đái tháo đường vì nó có 
ảnh hưởng đáng kể trong việc thay đổi lối 
sống. Tuy nhiên, sự tự quản lý không dễ vì 
nó là một quá trình lâu dài và phức tạp vì 
đòi hỏi người bệnh và người chăm sóc họ 
phải đưa ra quyết định hàng ngày về hành 
động như ăn như thế nào, chế độ luyện tập 
ra sao và phải thực hiện trong một thời 
gian dài để đem lại hiệu quả. Do vậy, nhiều 
người bệnh ĐTĐ có sự tự quản lý kém và 
tỷ lệ biến chứng của ĐTĐ tăng cao. Việc 
tìm hiểu về sự tự quản lý đường huyết và 
các yếu tố ảnh hưởng tới sự tự quản lý của 
người bệnh là việc làm cần thiết của người 
điều dưỡng khi chăm sóc người bệnh ĐTĐ 
type 2, từ đó có những biện pháp can thiệp 
giúp người bệnh kiểm soát đường huyết 
tốt hơn. Nói cách khác, tự quản lý đường 
huyết của người bệnh ngoại trú có vai trò 
quan trọng trong quản lý đái tháo đường. 
Hiện nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên 
cứu về tự quản lý đường huyết của người 
bệnh, đặc biệt chưa có đề tài nào về lĩnh 
vực này được tiến hành ở Bệnh viện A 
Thái Nguyên. Để có cơ sở hỗ trợ người 
bệnh trong tự quản đường huyết, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu “Thực trạng tự quản 
lý đường huyết của người bệnh đái tháo 
đường type 2 tại Bệnh viện A Thái Nguyên” 
với mục tiêu: Đánh giá mức độ tự quản lý 
đường huyết và xác định một số yếu tố liên 
quan đến tự quản lý đường huyết của người 
bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị 
ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh điều trị ĐTĐ type 2 đang 
143
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
điều trị tại ngoại trú tại Bệnh viện A Thái 
Nguyên.
* Tiêu chuẩn chọn:
- Người bệnh ĐTĐ type 2, tuổi ≥18, đồng 
ý tham gia nghiên cứu.
- Có khả năng giao tiếp, đọc và hiểu 
tiếng Việt.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Người bệnh có bệnh lý cấp tính đi kèm 
hoặc tình trạng lúc đến khám phải chuyển 
vào điều trị nội trú.
- Có tiền sử rối loạn thần kinh hoặc tâm 
thần.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: từ tháng 11/2019 đến tháng 
3/2020
- Địa điểm: tại Khoa khám bệnh - Bệnh 
viện A Thái Nguyên.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, trong khoảng thời 
gian thu thập số liệu có 150 người bệnh 
ĐTĐ type 2 đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu 
tham gia nghiên cứu.
2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu
Mục tiêu 1:
- Đặc điểm chung của người bệnh như: 
tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng 
hôn nhân, nghề nghiệp.
- Bệnh kèm theo, thời gian chẩn đoán 
bệnh.
- Sự tự quản lý đường huyết của người 
bệnh ĐTĐ type 2
- Mức độ hỗ trợ xã hội
Mục tiêu 2:
- Mối liên quan giữa tuổi, giới tính,nghề 
nghiệp, bệnh kèm theo, thời gian chẩn đoán 
bệnh với sự tự quản lý của người bệnh.
- Mối liên quan giữa sự hỗ trợ xã hội với 
sự tự quản lý đường huyết của người bệnh.
2.6. Bộ công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi đánh giá tự quản lý đường 
huyết của người bệnh được phát triển bởi 
Lin và cộng sự (2008) đã được Đào Trần 
Tiết Hạnh (2018) sử dụng để đánh giá sự 
tự quản lý đường huyết của người bệnh 
đái tháo đường [4] và được sử dụng trong 
nghiên cứu này. Bộ câu hỏi gồm 35 câu, 
mỗi câu có 4 lựa chọn, phổ điểm từ 1 đến 
4, do người bệnh tự đánh giá. Mức độ tự 
quản lý đường huyết của người bệnh được 
chia ra làm 3 mức độ như sau: 1-2 điểm: 
Mức độ tự quản lý kém, 2,1-3 điểm: Mức 
độ quản lý trung bình và 3,1-4 điểm: Mức 
độ quản lý tốt.
2.7. Phương pháp và qui trình thu 
thập số liệu
- Người thu thập số liệu đến gặp gỡ 
người bệnh đủ tiêu chuẩn để tham gia 
nghiên cứu, giới thiệu về bản thân để xây 
dựng mối quan hệ với người bệnh.
- Thông báo cho người bệnh về nghiên 
cứu, cách thức và thời gian thu thập số liệu.
- Mời người bệnh tham gia vào nghiên 
cứu. Sau khi người bệnh đồng ý tham gia 
vào nghiên cứu, người nghiên cứu đưa 
phiếu điều tra cho người bệnh để người 
bệnh điền vào phiếu điều tra.
2.8. Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0, phân 
tích thống kê mô tả bằng tỷ lệ %, giá trị 
trung bình. Sử dụng các kiểm định thống 
kê phù hợp Independent t-test để xác định 
yếu tố liên quan, Pearon correlation để xác 
định mối tương quan giữa các biến số.
Hạn chế của nghiên cứu: Do hạn chế 
về thời gian, kinh tế, nguồn lực nên chúng 
tôi lấy mẫu theo phương pháp thuận tiện 
chính vì vậy, sai số có thể xảy ra khi sử 
dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện.
3. KẾT QUẢ
Kết quả phân tích số liệu thu được từ 
150 người bệnh đái tháo đường type 2 điều 
trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên 
như sau:
144
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.1. Thông tin chung của người bệnh
Bảng 1. Một số đặc điểm của người 
bệnh tham gia nghiên cứu (n=150)
Đặc điểm SL TL %
Tuổi 
(năm)
41-54 tuổi 64 42,7
55-64 tuổi 54 36,0
≥ 65 tuổi 32 21,3
Trung bình: 57,1 ± 9,2;
Trẻ nhất – Già nhất = 41 – 85
Giới tính
Nam 67 44,7
Nữ 83 55,3
Nghề 
nghiệp
Nông nghiệp 74 49,3
Hưu trí 42 28,0
Khác 34 22,7
Học vấn
Tiểu học trở 
xuống 49 32,7
THPT + THCS 79 52,6
TCCN, Cao 
đẳng 15 10,0
Đại học trở lên 7 4,7
Hôn nhân
Có gia đình 134 89,3
Mất vợ/chồng 9 6,0
Ly hôn 7 4,7
Thời gian 
mắc bệnh 
(năm)
≤5 69 46,0
> 5 81 54,0
Trung bình: 5,66 ± 3,0; 
Thấp nhất –Cao nhất: 1 – 13
Tuổi trung bình của 150 người bệnh 
tham gia nghiên cứu là 57,1 ± 9,2, người 
trẻ tuổi nhất là 41 tuổi, người cao tuổi nhất 
là 85 tuổi. Nhóm tuổi từ 41 - 54 chiếm tỷ lệ 
cao nhất với 42,7%, tiếp đến là nhóm tuổi 
từ 55 - 64 là 36,0%, tỷ lệ người bệnh có độ 
tuổi từ 65 trở lên chiếm 21,3%. 
Thời gian kể từ lúc được chẩn đoán đái 
tháo đường đến thời điểm khảo sát của đối 
tượng nghiên cứu trung bình là: 5,66 ± 3,0 
(năm). Trong đó, đa số người bệnh có thời 
gian chẩn đoán bệnh 5 năm trở lên chiếm 
tỷ lệ 54,0%, có 46,0% người bệnh có thời 
gian chẩn đoán bệnh là từ 5 năm trở xuống. 
Trong nghiên cứu này, nữ giới (55,3%) 
chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới (44,7%). Đa số 
người bệnh có gia đình chiếm tỷ lệ 89,3%. 
Về nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu 
thuộc nhóm lao động nông nghiệp chiếm tỷ 
lệ nhiều nhất với 49,3%, kinh doanh chiếm 
20,7%, nghỉ hưu chiếm tỷ lệ 14,0%, nghề 
nghiệp khác chiếm 16,0%. Tỷ lệ người 
bệnh có trình độ học vấn chủ yếu là trung 
học cơ sở và trung học phổ thông chiếm 
52,6%; tiếp đến là tiểu học trở xuống chiếm 
32,7%, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng 
chiếm 10%; trình độ đại học trở lên chiếm 
tỷ lệ 4,7%.
3.2. Mức độ tự quản lý đường huyết 
và các yếu tố liên quan
3.2.1. Mức độ tự quản lý
Bảng 2. Mức độ tự quản lý đường 
huyết của người bệnh (n=150)
Tự quản lý 
đường huyết
Điểm đạt
(Mean±SD) Mức độ
Tự tích hợp 2,75 ± 0,66 Trung bình
Tự điều chỉnh 2,49 ± 0,72 Trung bình
Tương tác 2,79 ± 0,67 Trung bình
Tự theo dõi 2,57 ± 0,76 Trung bình
Tuân thủ 
điều trị 3,55 ± 0,68 Cao
Tổng 2,83 ± 0,45 Trung bình
Điểm trung bình tự quản lý của người 
bệnh về sự tích hợp (2,75±0,66); Sự tự 
điều chỉnh (2,49±0,72); Sự tương tác 
(2,79±0,67); tự theo dõi (2,57±0,76) và tổng 
điểm trung bình (2,83±0,45) đều ở mức độ 
trung bình. Chỉ riêng sự tuân thủ chế độ 
điều trị ở mức tốt (3,55±0,68).
Bảng 3. Mức độ hỗ trợ xã hội 
đối với người bệnh (n =150)
Điểm hỗ trợ 
xã hội
Điểm đạt
(Mean±SD) Mức độ
Tổng điểm hỗ 
trợ xã hội 57,0 ± 11,2 Trung bình
Những người 
quan trọng 16,2 ± 4,1 Trung bình
Gia đình 21,7 ± 3,9 Cao
Bạn bè 19,2 ± 4,2 Trung bình
Tổng điểm hỗ trợ xã hội ở mức trung 
145
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
bình (57,0 ± 11,2). Trong đó hỗ trợ từ gia 
đình ở mức độ cao (21,7±3,9), hỗ trợ từ 
bạn bè cũng ở mức độ trung bình (19,2 ± 
4,2), hỗ trợ từ những người quan trọng ở 
mức độ trung bình (16,2 ± 4,1).
3.2.2. Một số yếu tố liên quan
Bảng 4. Liên quan giữa tự quản lý 
đường huyết và giới tính (n=150)
Giới 
tính Mean (SD) t p
Nam 2,69 (0,44) -3,67*** 
(T) 0,000Nữ 2,95 (0,43)
(T) Independent T-test, ***p<0,001
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
giới tính với tổng điểm chất lượng cuộc sống 
(p=0,000). Trong đó, nữ giới (2,95±0,43) có 
điểm về sự tự quản lý đường huyết cao 
hơn nam giới (2,69±0,44).
Bảng 5. Tương quan giữa thời gian 
mắc bệnh, hỗ trợ xã hội với tự quản lý 
đường huyết (n=150)
Yếu tố Mean (SD)
Tương 
quan p
Thời gian chẩn 
đoán bệnh
5,66 
(3,0) 0,62***(P) 0,000
Hỗ trợ xã hội 56,9 (10,9) 0,22**(P) 0,007
(P) Pearson correlation, ***p<0,001, 
**p<0,01
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
thời gian chẩn đoán bệnh, sự hỗ trợ xã hội 
với sự tự quản lý đường huyết của người 
bệnh. Trong đó, thời gian chẩn đoán bệnh 
càng lâu thì sự tự quản lý đường huyết của 
người bệnh càng tốt. Mức độ hỗ trợ xã hội 
càng cao thì sự tự quản lý đường huyết của 
người bệnh càng cao.
4. BÀN LUẬN
4.1. Mức độ tự quản lý bệnh tăng 
đường huyết của người bệnh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ 
ra rằng trung bình tổng điểm sự tự quản 
lý tăng đường huyết (2,83 ± 0,45), sự tích 
hợp (2,75 ± 0,66), sự tự điều chỉnh (2,49 
± 0,72), sự tương tác của người bệnh với 
các chuyên gia (2,79 ± 0,67), sự tự theo dõi 
(2,57 ± 0,76) đều ở mức độ trung bình. Kết 
quả của chúng tôi tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của nhiều nghiên cứu khác, sự 
tự quản lý đường huyết của người bệnh ở 
mức độ trung bình và thấp. Kết quả nghiên 
cứu của Đào Trần Tiết Hạnh và cộng sự 
(2018), được tiến hành với 198 người bệnh 
đái tháo đường type 2 đã chỉ ra rằng sự 
tự quản lý đường huyết của người bệnh 
ở mức độ trung bình (98/140) [4]. Kết quả 
nghiên cứu của Kurinia và cộng sự (2017) 
được nghiên cứu trên 127 người bệnh đái 
tháo đường type 2 tại Indonesia, sự tự 
quản lý của người bệnh ở mức thấp với 
điểm số trung bình là 3,81 ± 1,08 (điểm 
trung bình sự tự quản lý từ 1-7). Trong đó, 
63,8% đối tượng nghiên cứu có sự tự quản 
lý kém [3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
xét về các thành phần của sự quản lý chỉ 
có sự tuân thủ chế độ điều trị để chỉ việc sử 
dụng thuốc của người bệnh theo đơn của 
bác sĩ và khám định kỳ là đạt điểm cao nhất 
và ở mức tốt với điểm số 3,55 ± 0,68. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng 
với kết quả của một số nghiên cứu khác 
cho rằng sự tuân thủ chế độ điều trị cao. 
Nghiên cứu của Đào Trần Tiết Hạnh và 
cộng sự (2018), sự tuân thủ chế độ điều trị 
của người bệnh đạt điểm tuyệt đối (12/12) 
[4]. Nghiên cứu của Navicharern (2012) 
ở Thái Lan được tiến hành trên 80 người 
bệnh đái tháo đường type 2 có biến chứng 
ở bàn chân, sử dụng bộ câu hỏi SDSCA 
(Summary of Diabetes Self-Care Activities) 
với sự lựa chọn từ 0 - 7 cũng chỉ ra rằng sự 
tuân thủ chế độ dùng thuốc có điểm số cao 
nhất (5,58 ± 2,39) [5]. Điều này được giải 
thích là do hiệu quả cũng như sự tin tưởng 
của người bệnh về việc dùng thuốc. 
4.2. Liên quan giữa một số yếu tố với 
tự quản lý của người bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
giới tính, thời gian chẩn đoán bệnh và sự 
146
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
hỗ trợ xã hội có mối tương quan với điểm 
số sự tự quản lý đường huyết của người 
bệnh. Điều này phù hợp với kết quả của 
một số nghiên cứu khác.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giới tính có 
mối tương quan với sự tự quản lý đường 
huyết của người bệnh, nữ giới (2,95 ± 0,43) 
có điểm số trung bình về sự tự quản lý cao 
hơn nam giới (2,69 ± 0,44). Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu của Akhter, nữ giới 
(2,73 ± 0,49) có sự tự quản lý tốt hơn nam 
giới (2,47 ± 0,44) [7]. Điều này được giải 
thích do nữ giới có kiến thức về bệnh tốt 
hơn nam giới và thường tuân thủ chế độ 
ăn theo hướng dẫn của cán bộ y tế do vai 
trò trong việc chuẩn bị các bữa ăn [6]. Các 
nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ nữ 
giới thường xuyên gặp gỡ cán bộ y tế để 
trao đổi bệnh cũng như việc tuân thủ chế 
độ dùng thuốc cao hơn nam giới [7].
Thời gian chẩn đoán bệnh có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với sự tự quản lý 
người bệnh với r=0,62 (p=0,000). Kết quả 
này tương đồng với kết quả nghiên cứu của 
Lee và các cộng sự (2010), có mối tương 
quan thuận giữa thời gian chẩn đoán bệnh 
với sự tự quản lý của người bệnh. Thời 
gian chẩn đoán bệnh càng lâu thì điểm của 
sự tự quản lý đường huyết của người bệnh 
càng cao [8]. Kết quả của chúng tôi cũng 
tương đồng với nghiên cứu của Akhter, 
những người có thời gian chẩn đoán bệnh 
từ 6 năm trở lên (2,77 ± 0,50) có sự tự quản 
lý bệnh cao hơn so với những người có thời 
gian chẩn đoán dưới 6 năm (2,49 ± 0,44) (p 
= 0,01) [7]. Điều này có thể lý giải rằng thời 
gian chẩn đoán của bệnh càng lâu thì người 
bệnh càng có kiến thức về bệnh cũng như 
biết cách để kiểm soát bệnh của mình.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy có sự tương quan thuận giữa sự hỗ 
trợ xã hội và sự tự quản lý của người bệnh 
với r = 0,22, có nghĩa là sự hỗ trợ xã hội 
càng cao thì sự tự quản lý đường huyết của 
người bệnh càng tốt. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi tương đồng với nhiều nghiên 
cứu khác, nghiên cứu của Song và cộng 
sự (2017), sự hỗ trợ xã hội có mối tương 
quan thuận với sự tự quản lý đường huyết 
với r = 0,28 (p < 0,001). Nghiên cứu của 
Song (2017) cũng chỉ ra mối tương quan 
mạnh giữa sự tự theo dõi với sự hỗ trợ xã 
hội (r = 0,21) [9]. Nghiên cứu của Walker 
và cộng sự (2016) cũng chỉ ra mối tương 
quan thuận giữa sự hỗ trợ xã hội và sự tự 
quản lý đường huyết của người bệnh [10]. 
Nghiên cứu của Bouldin và cộng sự (2017) 
được tiến hành trên 253 người bệnh đái 
tháo đường có tuổi từ 30-70 cũng chỉ ra 
rằng, tăng một điểm trong hỗ trợ xã hội, tỷ 
lệ tuân thủ điều trị thuốc vừa hoặc cao tăng 
22% (OR=1,22, KTC 95%: 1,03 - 1,45, p = 
0,023) [6]. Nghiên cứu của Đào Trần Tiết 
Hạnh và cộng sự (2018) được tiến hành 
trên 198 người bệnh đái tháo đường type 
2 cũng chỉ ra rằng, sự hỗ trợ từ gia đình, 
bạn bè (r = 0,47, p < 0,001) và cán bộ y 
tế (r = 0,39, p < 0,001) có mối tương quan 
thuận với sự tự quản lý đường huyết [4]. 
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ 
xã hội là yếu tố rất quan trọng với người 
bệnh, giúp người bệnh cải thiện được tình 
trạng thể chất, thay đổi đổi hành vi, tăng 
khả năng tự chăm sóc. Đặc biệt sự quan 
tâm, sự đồng cảm chia sẻ từ bạn bè có thể 
nắm bắt được tâm lý của người bệnh là 
giảm tỷ lệ trầm cảm và giảm tỷ lệ tử vong ở 
người bệnh [3].
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về sự tự quản lý đường 
huyết ở người bệnh ĐTD type 2 điều trị 
ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên, tiến 
hành trên 150 đối tượng, trong thời gian 
nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy:
Tự quản lý đường huyết của đối tượng 
nghiên cứu ở mức độ trung bình(2,83 ± 
0,45). Trong đó, sự tích hợp (2,75 ± 0,66); 
Sự tự điều chỉnh (2,49 ± 0,72); Sự tương 
tác (2,79 ± 0,67); tự theo dõi (2,57 ± 0,76) 
đều ở mức độ trung bình. Chỉ riêng sự 
tuân thủ chế độ điều trị ở mức tốt (3,55 ± 
0,68).
147
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
* Giới tính, thời gian chẩn đoán bệnh 
và sự hỗ trợ xã hội có mối tương quan với 
điểm số sự tự quản lý đường huyết của 
người bệnh.Trong đó, nữ giới (2,95 ± 0,43) 
có điểm số trung bình về sự tự quản lý cao 
hơn nam giới (2,69 ± 0,44) (p < 0,001); thời 
gian chẩn đoán bệnh (r = 0,62; p < 0,001) 
và sự hỗ trợ xã hội (r = 0,22; p = 0,007) 
có mối tương quan thuận với sự tự quản lý 
đường huyết.
Kết quả nghiên cứu tìm ra sự tự quản lý 
đường huyết ở người bệnh đái tháo đường 
type 2 là trung bình. Do vậy, thực hành điều 
dưỡng cần quan tâm và có can thiệp để 
nâng cao sự tự quản lý đường huyết cho 
người bệnh. Đặc biệt là quan tâm những 
người bệnh mới được chẩn đoán bệnh, 
nam giới và không có người chăm sóc vì 
đây là những đối tượng có nguy cơ có sự 
tự quản lý thấp. Nghiên cứu chỉ ra một số 
yếu tố ảnh hưởng mạnh tới sự tự quản lý 
đường huyết của người bệnh là thời gian 
chẩn đoán bệnh và hỗ trợ xã hội. Vì vậy, 
trong thực hành điều dưỡng cần có chiến 
lược xây dựng chương trình can thiệp tập 
trung vào các yếu tố đó.
Từ kết quả của nghiên cứu và hạn chế 
của nghiên cứu chúng tôi có một số đề xuất 
cho nghiên cứu tiếp theo về căn bệnh này 
như: Cần làm trên cỡ mẫu lớn hơn, phương 
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, xem xét thêm 
nhiều yếu tố khác. Ngoài ra có thể tìm hiểu 
thêm về thực trạng kiến thức, những rào 
cản khó khăn đối với sự tự quản lý của 
người bệnh đái đường type 2. Từ đó có cơ 
sở để có những nghiên cứu can thiệp vào 
từng yếu tố để nâng cao sự tự quản lý ở 
người bệnh đái tháo đường type 2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Diabetes Federation 
(2015), IDF diabetes atlas seventh edition.
2. Barlow, J., et al., Self-management 
approaches for people with chronic 
conditions: a review. Patient Educ Couns, 
2002. 48(2): p. 177-87.
3. Kurnia, A. D., Amatayakul, A., & 
Karuncharernpanit, S. (2017). Predictors 
of diabetes self-management among type 
II diabetics in Indonesia: Application theory 
of the health promotion model. International 
journal of nursing sciences, 4(3), 260-265.
4. Dao-Tran, T. H., Anderson, D., 
Chang, A., Seib, C., & Hurst, C. (2018). 
Factors associated with self-management 
among Vietnamese adults with type II 
diabetes. Nursing Open, 5(4), 507-516.
5. Navicharern, R. (2012). Diabetes 
self-management, fasting blood sugar and 
quality of life among type II diabetic patients 
with foot ulcers. Journal of the Medical 
Association of Thailand= Chotmaihet 
thangphaet, 95(2), 156-162.
6. Bouldin ED, Trivedi RB, Reiber 
GE, et al. Associations between 
having an informal caregiver, social 
support, and self-care among low-
income adults with poorly controlled 
diabetes. Chronic Illn. 2017;13(4):239-250. 
doi:10.1177/1742395317690032
7. Akhter, N., Self-management among 
patient with hypertension in Bangladesh. 
2010.
8. Lee JE, Han HR, Song H, et al. 
Correlates of self-care behaviors for 
managing hypertension among Korean 
Americans: a questionnaire survey. 
Int J Nurs Stud. 2010;47(4):411-417. 
doi:10.1016/j.ijnurstu.2009.09.011
9. Song Y, Nam S, Park S, Shin 
IS, Ku BJ. The Impact of Social 
Support on Self-care of Patients With 
Diabetes: What Is the Effect of Diabetes 
Type? Systematic Review and Meta-
analysis. Diabetes Educ. 2017;43(4):396-
412. doi:10.1177/0145721717712457
10. Walker, R. J., Williams, J. S., & Egede, 
L. E. (2016). Influence of race, ethnicity and 
social determinants of health on diabetes 
outcomes. The American journal of the 
medical sciences, 351(4), 366-373.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tu_quan_ly_duong_huyet_cua_nguoi_benh_dai_thao_du.pdf