Thực trạng trầm cảm, lo âu của người mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 175, năm 2019

Mục tiêu: Mô tả thực trạng lo âu, trầm cảm của người mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Quân y 175 năm 2019.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 235 người bệnh ung thư điều trị nội trú tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Quân y 175. Số liệu định lượng được thu thập bằng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ hồ sơ bệnh án, phỏng vấn bằng bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên y văn, đã được thử nghiệm và hoàn thiện.

Kết quả: Tỷ lệ mắc trầm cảm chung là 36,6%. Trong đó trầm cảm nhẹ cao nhất với 48%, tiếp đến là trầm cảm nặng, không loạn thần chiếm 20%, trầm cảm nặng có loạn thần 18%, trầm cảm vừa 14%

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng trầm cảm, lo âu của người mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 175, năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng trầm cảm, lo âu của người mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 175, năm 2019

Thực trạng trầm cảm, lo âu của người mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 175, năm 2019
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn22
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU CỦA NGƯỜI MẮC BỆNH 
UNG THƯ ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 175, 
NĂM 2019
Vũ Sơn Giang1, Võ Thị Kim Anh2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng lo âu, trầm cảm của người 
mắc bệnh ung thư điều trị nội trú tại Trung tâm Ung bướu, 
Bệnh viện Quân y 175 năm 2019. 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 235 
người bệnh ung thư điều trị nội trú tại Trung tâm Ung 
bướu, Bệnh viện Quân y 175. Số liệu định lượng được thu 
thập bằng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ hồ sơ 
bệnh án, phỏng vấn bằng bộ câu hỏi được xây dựng dựa 
trên y văn, đã được thử nghiệm và hoàn thiện. 
Kết quả: Tỷ lệ mắc trầm cảm chung là 36,6%. Trong 
đó trầm cảm nhẹ cao nhất với 48%, tiếp đến là trầm cảm 
nặng, không loạn thần chiếm 20%, trầm cảm nặng có loạn 
thần 18%, trầm cảm vừa 14%. 
Từ khóa: Trầm cảm, ung thư, Bệnh viện Quân y 175.
ABTRACT:
CURRENT SITUATION OF EMERGENCY AND 
HUMANITY OF CANCER CANCER TREATMENT 
AT INTERVENTION CENTER IN 175 MILITARY 
HOSPITAL, 2019
Objectives: To describe the situation of anxiety and 
depression of inpatient cancer patients treated at Oncology 
Center, Military Hospital 175 in 2019
Methods: Cross-sectional descriptive study on 235 
inpatient cancer patients at Oncology center, 175 military 
hospital. Quantitative data were collected by method of 
collecting secondary data from records. Medical history, 
interviews with questionnaires built on literature, were 
tested and perfected.
Results: The overall prevalence of depression was 
36.6%. In which mild depression was highest with 48%, 
followed by severe depression, no psychosis accounted 
for 20%, severe depression with psychosis 18%, moderate 
depression 14%.
Key words: Depression, cancer, 175 military hospital.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư hay còn gọi là u ác tính, là một nhóm các 
bệnh liên quan đến phân chia tế bào một cách vô tổ chức, 
không chịu sự kiểm soát của cơ chế điều khiển bình thường 
của cơ thể; các tế bào này có khả năng xâm lấn những mô 
khỏe bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di 
chuyển đến nơi xa (di căn)[6]. Ung thư là nguyên nhân thứ 
hai dẫn đến tử vong trên toàn cầu, có 9,6 triệu ca tử vong 
trong năm 2018[6]. Theo thống kê của WHO, số ca mắc 
mới ung thư tại Việt Nam không ngừng tăng, từ 68.000 ca 
năm 2000 lên 126.000 năm 2010. Năm 2018, số ca mắc 
mới tăng lên gần 165.000 ca/96,6 triệu dân, trong đó gần 
70% trường hợp tử vong, tương đương 115.000 ca [1]. Khi 
đối diện với căn bệnh ung thư, người bệnh trải qua diễn 
biến tâm lí rất phức tạp, nhiều trạng thái cảm xúc, từ lo sợ 
khi phát hiện bệnh, đến chán nản, bi quan và rất dễ rơi vào 
trạng thái trầm cảm do sợ hãi về điều trị hoặc tác dụng phụ 
của điều trị. Sự lo âu, sợ hãi có thể làm cho việc đối mặt 
với điều trị ung thư trở nên khó khăn hơn, nó cũng có thể 
làm bệnh nhân khó đưa ra các quyết định liên quan tới điều 
trị và chăm sóc. Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra sự 
hỗ trợ giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội đem lại lợi ích 
rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị, nâng cao chất lượng sống 
cho bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, tại Việt Nam, những 
nghiên cứu về vấn đề này còn rất hạn chế, vì vậy chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: “Mô tả thực 
trạng lo âu, trầm cảm của người mắc bệnh ung thư điều trị 
nội trú tại Bệnh viện Quân y 175, năm 2019”.
Ngày nhận bài: 09/10/2019 Ngày phản biện: 25/10/2019 Ngày duyệt đăng: 06/11/2019
1. Bệnh viện Quân y 175
SĐT: 0983425423, Email: [email protected]
2. Trường Đại học Thăng Long
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 23
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn 
đoán xác định là ung thư nguyên phát trong vòng 2 năm 
tính đến thời điểm phỏng vấn, đang điều trị tại Trung tâm 
Ung bướu, Bệnh viện Quân y 175, có đủ sức khỏe và đồng 
ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu: Cỡ mẫu nghiên cứu được xác định dựa trên 
công thức ước lượng một tỷ lệ:
Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu cần thiết điều tra; Z(1 
- α/2): hệ số giới hạn tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% (α = 
0,05), tra bảng Z(1 - α/2) = 1,96, p: ước đoán tỷ lệ người 
bệnh ung thư bị lo âu, theo nghiên cứu của Trần Thanh 
Hương (năm 2018), p = 0,35; d: sai số tuyệt đối cho phép, 
chọn d = 0,06. Cỡ mẫu tối thiểu tính được là 212 người 
bệnh. Dự trù 10% trường hợp từ chối tham gia nghiên cứu, 
chúng tôi lấy cỡ mẫu là 235 người bệnh.
Chọn mẫu: Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện. 
Lựa chọn tất cả người bệnh ung thư nguyên phát đang điều 
trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Quân y 175 đáp 
ứng được tiêu chuẩn lựa chọn cho tới khi đủ cỡ mẫu.
Thu thập thông tin: Phỏng vấn trực tiếp người bệnh, 
sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn để sàng lọc, thu thập thông 
tin về tình trạng, dấu hiệu trầm cảm, các yếu tố liên quan 
đến trầm cảm, nhận thức của bệnh nhân ung thư đối với 
các vấn đề trầm cảm mình mắc phải. Thu thập số liệu thứ 
cấp dựa vào hồ sơ bệnh án nhằm khai thác hoàn cảnh phát 
hiện bệnh; các triệu chứng bệnh nhân gặp phải và một số 
các triệu chứng kết hợp kèm theo.
2.3. Chỉ số nghiên cứu và cách đánh giá: 
Chẩn đoán xác định trầm cảm lo âu và phân mức độ 
trầm cảm theo ICD 10, bao gồm các giai đoạn trầm cảm 
nhẹ (F32.0), trầm cảm vừa (F32.1), trầm cảm nặng không 
có các triệu chứng loạn thần (F32.2) và trầm cảm nặng có 
các triệu chứng loạn thần (F32.3). Các chỉ số về yếu tố 
nguy cơ với trầm cảm bao gồm: các yếu tố nguy cơ về điều 
kiện kinh tế gia đình, các yếu tố nguy cơ về stress trong gia 
đình, các yếu tố nguy cơ về stress trong công việc, xã hội 
và các yếu tố nguy cơ về môi trường, nghề nghiệp. 
2.4. Xử lý và phân tích số liệu: 
Các dữ liệu nghiên cứu định lượng được nhập bằng 
phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng phân tích bằng 
phần mềm SPSS 23.0. 
III. KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n=235)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
Nhóm tuổi
≤ 18 2 0,9
18 – 40 23 9,8
41 – 60 108 46,0
61 – 70 67 28,5
>70 35 14,9
Nghề nghiệp
Làm ruộng 72 30,6
Buôn bán 18 7,7
CNVC 24 10,2
Hưu trí 47 20,0
Nội trợ 38 16,2
Khác 36 15,3
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn24
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Trong 235 đối tượng tham gia nghiên cứu, nhóm tuổi 
41 – 60 tuổi có tỷ lệ cao nhất 46%. Nghề nghiệp làm ruộng 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 30,6%, tiếp đến là hưu trí với tỷ 
lệ 20%. Về học vấn, nhóm trung học phổ thông, trung học 
chuyên nghiệp tỷ lệ cao nhất là 35,3%. Về tình trạng kinh 
tế, nhóm hộ không nghèo có tỷ lệ cao nhất với 50,1%, tỷ 
lệ hộ nghèo là 36,2%. Về tình trạng hôn nhân, nhóm đối 
tượng sống với gia đình có tỷ lệ cao nhất 87,2%.
Học vấn 
Mù chữ 6 2,5
Tiểu học 69 29,4
THCS 54 22.9
THPT, TH chuyên nghiệp 83 35,3
≥ Đại học 23 9,8
Tình trạng kinh tế
Hộ nghèo 85 36,2
Hộ không nghèo 120 50,1
Không rõ 30 12,7
Tình trạng bản thân
Sống với gia đình 205 87,2
Độc thân 16 6,8
Góa 9 3,8
Khác 5 2,1
Bảng 3.2. Tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu trên bệnh nhân điều trị ung thư theo đặc điểm nhân khẩu học (n=235)
Nội dung 
Trầm cảm Không trầm cảm 
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nhóm tuổi
≤ 18 1 0,4 1 0,4
18 – 40 12 5,1 11 4,7
41 – 60 35 15,3 73 30,6
61 – 70 26 11,1 41 17,4
>70 12 5,1 23 9,8
Nghề nghiệp
Làm ruộng 3 1,3 69 29,4
Buôn bán 11 4,7 7 3,0
CNVC 3 1,3 21 8,9
Hưu trí 20 8,5 27 11,5
Nội trợ 18 7,7 20 8,5
Khác 28 11,9 8 3,4
Điều kiện kinh tế
Nghèo 30 12,8 55 23,4
Không nghèo 56 23,8 94 40
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 25
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tỷ lệ trầm cảm, lo âu trên bệnh nhân ung thư là 
36,6%. Tỷ lệ trầm cảm ở nhóm tuổi 41-60 tuổi có tỷ lệ cao 
nhất 15,3%, thấp nhất ở nhóm dưới 18 tuổi với 0,4%. Về 
nghề nghiệp, đối tượng nghiên cứu là hưu trí có tỷ lệ trầm 
cảm cao nhất với 8,5%, tiếp đến là những người làm nội 
trợ với 7,7%, thấp nhất là công nhân viên chức 1,3%. Về 
điều kiện kinh tế, đối tượng có tình trạng kinh tế không 
nghèo có tỷ lệ trầm cảm là 23,8% cao hơn hộ kinh tế nghèo 
12,8%. Những người sống cùng gia đình có tỷ lệ trầm cảm 
cao nhất 31.4%. Những người có học vấn là trung học phổ 
thông có tỷ lệ trầm cảm cao nhất với 13,2%, tiếp đến là 
tiểu học 9,4%.
Bảng 3.3. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu trên bệnh nhân ung thư theo một số yếu tố nguy cơ
Nội dung 
Trầm cảm Không trầm cảm
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Cách xử trí khi phát hiện 
ung thư
Chia sẻ với mọi người 14 5,9 22 9,4
Đi du lịch 1 0,4 3 1,3
Gặp chuyên gia tư vấn 11 4,7 14 6,0
Gặp bác sĩ 48 20,4 88 37,4
Như bình thường 12 5,1 22 9,4
Yếu tố nguy cơ
Môi trường sống 41 17,4 73 31,1
Đặc thù công việc 2 0,9 5 2,1
Chế độ sinh hoạt 6 2,6 15 6,4
Thực phẩm 33 14 52 22,1
Khác 4 1,7 4 1,7
Đối tượng truyền đạt 
thông tin về bệnh ung thư
Nhân viên y tế thông báo 26 11,1 49 20,9
Không phải nhân viên y tế thông báo 60 25,5 100 42,6
Tổng 86 36,6 149 63,4
Tình trạng hôn 
nhân
Kết hôn 74 36,1 131 63,9
Độc thân 7 43,75 9 56,25
Góa vợ, chồng 4 44,44 5 2,1
Khác 1 20 4 80
Trình độ học vấn
Mù chữ 1 0,4 5 2,1
Tiểu học 22 9,4 47 20,0
THCS 17 7,2 37 15,7
THPT 31 13,2 36 15,3
Chuyên nghiệp 9 3,8 7 3,0
Đại học và sau 
đại học
6 2,6 17 7,2
Tổng 86 36,6 149 63,4
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn26
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm bệnh nhân đến gặp bác 
sĩ sau khi được báo thông tin mắc ung thư cao nhất 20,4%, 
tiếp đến là nhóm chia sẻ với mọi người 5,9%. Tỷ lệ mắc 
trầm cảm do môi trường sống cao nhất với 17,4%, tiếp đến 
là thực phẩm 14%. Tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm không phải 
nhân viên y tế thông báo bệnh lí cao hơn (25,5%), nhân 
viên y tế thông tỉ lệ trầm cảm (11,1%).
Bảng 3.4. Phân loại mức độ trầm cảm theo ICD 10 (n=86)
Giai đoạn trầm cảm phân loại theo ICD10 Số lượng Tỷ lệ %
Trầm cảm nhẹ (F32.0) 41 48
Trầm cảm vừa (F32.1) 12 14
Trầm cảm nặng, không loạn thần (F32.2) 17 20
Trầm cảm nặng, có loạn thần (F32.3) 16 18
Tổng 86 100
Trong 86 người bệnh điều trị ung thư mắc trầm cảm, 
tỷ lệ người bị trầm cảm nhẹ cao nhất với 48%, tiếp đến 
là trầm cảm nặng, không loạn thần chiếm 20%, trầm cảm 
nặng có loạn thần 18%, trầm cảm vừa 14%. 
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mắc 
trầm cảm trên bệnh nhân ung thư là 36,6%, nghiên cứu 
của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Kim Lưu 
(2015) tại Bệnh viện Quân y 103 với tỷ lệ trầm cảm là 
57,7% [2]. Nguyên nhân của sự khác biệt này có lẽ do sự 
khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu 
của chúng tôi đã được chẩn đoán xác định ít nhất 2 năm 
tính đến thời điểm nghiên cứu, trong khi đó nghiên cứu 
của Nguyễn Kim Lưu là người bệnh vừa mới phát hiện ung 
thư. Trầm cảm là một bệnh lý gây ức chế quá trình hoạt 
động tâm thần, vì vậy ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống 
của bệnh nhân đặc biệt là những bệnh nhân trong lứa tuổi 
lao động [5]. Tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm tuổi 41-60 tuổi 
có tỷ lệ cao nhất 15,3%, đây là lứa tuổi lao động, mang lại 
kinh tế chính cho gia đình. Người bệnh trầm cảm có thể do 
lo sợ là gánh nặng kinh tế cho gia đình, không chăm sóc 
được cho gia đình. 
Tỷ lệ mắc trầm cảm theo tình trạng hôn nhân: tỷ lệ 
mắc trầm cảm cao nhất ở nhóm ly dị/ly thân (44,44%) sau 
đó là nhóm độc thân (43,75%). So sánh với nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Siêm thì tỷ lệ mắc trầm cảm thấp hơn ở 
nhóm ly thân (1,44%), nhưng ở nhóm góa bụa (10,95%) 
[4]. Theo Scott B. Patten (2006), tại Canada tỷ lệ trầm cảm 
ở nhóm li dị cao nhất (6,5%) sau đó là nhóm độc thân 
(5,3%) và nhóm đang kết hôn (2,8%) [7]. Đây là những 
nghiên cứu cộng đồng dân cư bình thường. Nhiều nghiên 
cứu trong và ngoài nước cũng đã cho kết quả tương tự. 
Trầm cảm là trạng thái cảm xúc bệnh lý có thể do nhiều 
nguyên nhân gây ra. Nó có thể là hậu quả của trạng thái 
phản ứng trước những hoàn cảnh stress đối với cá nhân 
đó. Những vấn đề về gia đình như ly thân, ly dị, là sang 
chấn tâm lý mạnh đối với những người phải trải qua, vì 
vậy tỷ lệ trầm cảm tăng cao hơn ở nhóm này cũng là điều 
cần quan tâm trong công tác chăm sóc trầm cảm ở bệnh 
nhân mắc bệnh ung thư [8]
Tỷ lệ mắc trầm cảm theo trình độ học vấn và nghề 
nghiệp: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc trầm cảm 
cao nhất ở nhóm có trình độ PTTH (13,2%), tiếp đến là 
nhóm tiểu học (9.4%) và nhóm trung học cơ sở (7,2%). 
Nhóm đại học và sau đại học (2,6%) các nhóm khác 
tương đối thấp. Về tỉ lệ trầm cảm của người hưu trí của 
nghiên cứu của chúng tôi (8,5%), tiếp đến là các bệnh 
nhân nhóm nội trợ (7,7%). So sánh với kết quả nghiên 
cứu của Trần Văn Cường, tỷ lệ mắc trầm cảm chủ yếu 
gặp ở đối tượng hưu trí (14,3%), nhóm buôn bán (6,4%), 
các nhóm khác tương đối thấp và ít gặp nhất ở học sinh, 
sinh viên (0,2%) [3]. Theo chúng tôi có thể bệnh nhân 
hưu trí tỉ lệ trầm cảm cao vì ngoài ảnh hưởng tâm lí đang 
lao động để đóng góp cho xã hội, có nơi để giải tỏa các 
vấn đề của tâm lí, nay được nghỉ, chỉ quanh quẩn ở nhà, 
làm xáo trộn tâm lí rất nhiều, kèm theo mắc thêm bệnh 
ung thư, chẳng khác nào chuẩn bị ngã, có người đẩy cho 
ngã luôn, chính vì vậy ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ mắc trầm 
cảm ở nhóm đối tượng này rất lớn. 
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 27
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm không nghèo cao nhất 
(23,8%), sau đó là nhóm nghèo (12,8 %). So sánh với kết 
quả nghiên cứu của Laura A. Pratt (2008) thì tại Hoa Kỳ 
tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ bị mắc trầm cảm rất 
cao 14,3% (so với 4,4% ở người không nghèo) [9]. Theo 
tác giả Scott B Patten (2006), tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm 
người nghèo nhất là 8,5%, nhóm thu nhập trung bình thấp 
là 5,3%, nhóm trung bình là 4,2%, nhóm trung bình khá 
là 3,7%, nhóm giàu là 3,2% [7]. Như vậy nghiên cứu của 
chúng tôi có sự khác biệt đáng kể so với các tác giả khác. 
Sở dĩ có sự khác biệt này có lẽ do bối cảnh kinh tế, văn 
hóa, xã hội khác nhau.
Cách thức xử lý khi nhận thông tin mắc bệnh ung thư 
ở mỗi người bệnh sẽ khác nhau, điều này có thể liên quan 
đến tỷ lệ trầm cảm của người đó. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm bệnh nhân tìm đến bác sĩ 
sau khi nhận thông tin mắc bệnh ác tính (20,4 %) cao nhất 
ở tất cả các nhóm. Điều này có thể cho thấy bác sĩ điều trị 
khi gặp bệnh nhân, họ không quan tâm nhiều đến tâm lí 
của người bệnh, họ đưa luôn phác đồ điều trị, nhiều người 
còn tiên lượng cho bệnh nhân luôn, vô tình làm cho bệnh 
nhân lo lắng, sợ hãi, dẫn đến trầm cảm.
Số bệnh nhân mắc trầm cảm đánh giá yếu tố môi 
trường tác động rất lớn đối với bệnh lí của họ chiếm tỉ 
lệ (17,4%), tiếp đến là yếu tố thực phẩm (14%). Phần 
lớn bệnh nhân ung thư tự nhận định họ mắc bệnh do môi 
trường tác động rất nhiều, tiếp theo là do thực phẩm không 
sạch. Đây có thể là hồi chuông báo động cho chúng ta biết 
về vấn đề lạm dụng chất bảo quản thực phẩm, các chất bảo 
vệ thực vật, làm tỉ lệ ung thư tăng lên rất nhiều.
Bệnh nhân ung thư khi được nhân viên y tế thông báo 
mắc bệnh ác tính có tỷ lệ trầm cảm là 11,1% thấp hơn so 
với không phải nhân viên y tế thông báo (25,5%). Điều này 
rõ ràng, nhân viên y tế đã dần dần làm thay phần việc của 
các nhà tâm lí học, họ đã biết cách làm cho bệnh nhân chấp 
nhận bệnh lí của mình dễ hơn so với trước. Ngoài ra, khi 
được nhân viên y tế thông báo, bệnh nhân có thể tin tưởng 
hơn, họ có thể được trình bày nguyện vọng bản thân, để 
nhân viên y tế giúp đỡ.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ mắc trầm cảm chung là 36,6%. Trong đó trầm 
cảm nhẹ cao nhất với 48%, tiếp đến là trầm cảm nặng, 
không loạn thần chiếm 20%, trầm cảm nặng có loạn thần 
18%, trầm cảm vừa 14%. Tỷ lệ trầm cảm ở nhóm tuổi 41-
60 tuổi có tỷ lệ cao nhất 15,3%, thấp nhất ở nhóm dưới 
18 tuổi với 0,4%. Tỷ lệ mắc trầm cảm theo tình trạng hôn 
nhân: đối tượng góa vợ/chồng cao nhất 44,44%, sau đó 
đến nhóm độc thân 43,75%. Nhóm có tỷ lệ trầm cảm thấp 
nhất là nhóm kết hôn 36,1%. Tỷ lệ mắc trầm cảm theo học 
vấn: nhóm PTTH 13,2%, tiểu học 9,4%, THCS 7,2 %. Tỷ 
lệ mắc trầm cảm theo nghề nghiệp: nhóm hưu trí 8,5 %, 
nội trợ 7,7%, làm nông nghiệp 1,3%. Tỷ lệ mắc trầm cảm 
ở nhóm không nghèo 23,8%, nghèo 12,8%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2018), Điểm tin y tế ngày 24/9/2018, https://www.moh.gov.vn/diem-tin-y-te/-/asset_publisher/sqTag-
DPp4aRX/content/-iem-tin-y-te-ngay-24-9-2018.
2. Nguyễn Kim Lưu, Dương Trung Kiên (2015), nghiên cứu hội chứng trầm cảm ở bệnh nhân ung thư mới được 
phát hiện tại Bệnh viện Quân y 103, kỷ yếu công trình 2010-2015, Học viện Quân y, Bệnh viện Quân y 103.
3. Trần Văn Cường (2011), “Điều tra dịch tễ học lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế xã 
hội khác nhau của nước ta hiện nay”, Tạp chí Y học Thực hành, tr. 1-13.
4. Nguyễn Văn Siêm (2010), “Nghiên cứu dịch tễ lâm sàng rối loạn trầm cảm tại một xã đồng bằng sông Hồng”, 
Tạp chí Y học Thực hành, Số 5, tr. 71-74.
5. Andrea H., Bultmann U, Amelsvoort van L. G., (2009), “The incidence of anxiety and depression among employ-
ees - the role of psychosocial work characteristics”, Depress Anxiety, 26, (11), pp. 1040-1048.
6. World Health Organization (2018), Cancer, https://www.who.int/en/news-room/fact-sheets/detail/cancer 
7. Scott B Patten. (2006), “Descriptive epidemiology of major depression in Canada”, Journal, Vol 51, No 2, Feb-
ruary 2006, (Issue), pp. 80-90.
8. E Antoniou RM (2008), “Correlation of domestic violence during pregnancy with postatal depression”, Health 
Science Journal, 2, pp. 15- 19.
9. Laura A. Pratt, Debra J. Brody. (2008), “Depression in the United States household population, 2005–2006”, 
NCSH Brief, 7, pp. 1-8.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tram_cam_lo_au_cua_nguoi_mac_benh_ung_thu_dieu_tr.pdf