Thực trạng tái nghiện ở người bệnh nghiện rượu đã điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần

Tỷ lệ hiện mắc rối loạn sử dụng rượu trong đó có nghiện rượu đang tiếp tục gia tăng trên thế giới cũng

như ở Việt Nam. Nghiện rượu là một bệnh lý tái phát mạn tính và tái nghiện rượu được xác định là tình trạng

người bệnh nghiện rượu đã được cai nghiện, sau một thời gian không dùng rượu quay trở lại sử dụng, đáp

ứng tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu. Nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng tái nghiện ở những người

bệnh nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khoẻ Tâm Thần. Nghiên cứu tiến cứu theo dõi trong sáu tháng

những người bệnh nghiện rượu đã được điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần. 81,1% đối tượng nghiên cứu

đã tái nghiện rượu, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong tháng đầu sau khi cai nghiện (46,5%), giảm dần theo thời

gian. Trong nhóm tái nghiện, phần lớn có ít nhất 4 lần cai nghiện rượu (53,9%), loại rượu sử dụng chủ yếu

là rượu nấu thủ công. Lượng rượu uống trung bình trong ngày cao: 14,4 ± 8,5 đơn vị uống chuẩn. Lý do tái

nghiện rượu chủ yếu là do bạn bè rủ (83,72%), do thèm nhớ và dễ mua (72,09%). Cần thiết đẩy mạnh công

tác tuyên truyền về tác hại của rượu, quản lý việc sản xuất, tiêu thụ rượu cũng như xây dựng kế hoạch can

pdf 9 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tái nghiện ở người bệnh nghiện rượu đã điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng tái nghiện ở người bệnh nghiện rượu đã điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần

Thực trạng tái nghiện ở người bệnh nghiện rượu đã điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
160 TCNCYH 125 (1) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Phương Mai,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 28/11/2019
Ngày được chấp nhận: 21/12/2019
THỰC TRẠNG TÁI NGHIỆN Ở NGƯỜI BỆNH NGHIỆN RƯỢU
ĐÃ ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN
Nguyễn Thị Phương Mai1, 2, , Nguyễn Văn Tuấn1,2, Kim Bảo Giang1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Viện Sức khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai
Tỷ lệ hiện mắc rối loạn sử dụng rượu trong đó có nghiện rượu đang tiếp tục gia tăng trên thế giới cũng 
như ở Việt Nam. Nghiện rượu là một bệnh lý tái phát mạn tính và tái nghiện rượu được xác định là tình trạng 
người bệnh nghiện rượu đã được cai nghiện, sau một thời gian không dùng rượu quay trở lại sử dụng, đáp 
ứng tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu. Nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng tái nghiện ở những người 
bệnh nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khoẻ Tâm Thần. Nghiên cứu tiến cứu theo dõi trong sáu tháng 
những người bệnh nghiện rượu đã được điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần. 81,1% đối tượng nghiên cứu 
đã tái nghiện rượu, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong tháng đầu sau khi cai nghiện (46,5%), giảm dần theo thời 
gian. Trong nhóm tái nghiện, phần lớn có ít nhất 4 lần cai nghiện rượu (53,9%), loại rượu sử dụng chủ yếu 
là rượu nấu thủ công. Lượng rượu uống trung bình trong ngày cao: 14,4 ± 8,5 đơn vị uống chuẩn. Lý do tái 
nghiện rượu chủ yếu là do bạn bè rủ (83,72%), do thèm nhớ và dễ mua (72,09%). Cần thiết đẩy mạnh công 
tác tuyên truyền về tác hại của rượu, quản lý việc sản xuất, tiêu thụ rượu cũng như xây dựng kế hoạch can 
thiệp điều trị, hỗ trợ hiệu quả, lâu dài cho các bệnh nhân ngay sau khi ra viện trở về với gia đình và cộng đồng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Phân loại bệnh Quốc tế về các rối loạn 
tâm thần và hành vi (ICD - 10) 1992 của Tổ 
chức Y tế Thế giới, nghiện rượu là một bệnh 
lý tái phát mạn tính, đặc trưng bởi cảm giác 
thèm nhớ, trạng thái cai sinh lý, sự dung nạp, 
mất kiểm soát và sử dụng liên tục,1 tái nghiện 
rượu được xác định là tình trạng người bệnh 
nghiện rượu đã được cai nghiện, sau một thời 
gian không dùng rượu quay trở lại sử dụng và 
đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu 
theo ICD - 10. Trên thế giới ước tính có 3,8% 
số người tử vong và 4,6% DALYs (số năm sống 
được hiệu chỉnh theo mức độ tàn tật) toàn cầu 
là do rượu, 3,6% dân số thế giới (15 - 64 tuổi) 
có rối loạn sử dụng rượu ở thời điểm hiện tại 
(trong 12 tháng), với tỷ lệ thấp hơn (1,1%) ở 
khu vực châu Phi, tỷ lệ cao hơn (5,2%) ở khu 
vực châu Mỹ (Bắc, Nam, Trung Mỹ và Caribe), 
và tỷ lệ cao nhất (10,9%) ở khu vực Tây Âu.² 
Ở Anh, sự phụ thuộc rượu ảnh hưởng đến 6% 
nam và 2% nữ,³ ở Mỹ 3 - 5% nữ và 10% nam 
đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu 
trong suốt cuộc đời của họ.⁴ 
Một số nghiên cứu trên thế giới đã đề cập 
đến vấn đề tái nghiện rượu sau khi cai và các 
tác giả đều thấy rằng phần lớn những người 
nghiện rượu tái nghiện trong vòng ba đến sáu 
tháng sau khi xuất viện, nguy cơ tái nghiện cao 
nhất trong hai tháng đầu.5,6 Mặc dù trong những 
năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã áp 
dụng các chính sách, chương trình tuyên truyền 
về tác hại của việc lạm dụng rượu cũng như 
nhiều biện pháp điều trị cai nghiện và chống 
Từ khóa: nghiện rượu, tái nghiện rượu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
161TCNCYH 125 (1) - 2020
tái nghiện nhưng tỉ lệ sử dụng, lạm dụng và 
nghiện rượu vẫn tiếp tục gia tăng. Trong năm 
2017, 20% người trưởng thành là những người 
nghiện rượu nặng (so với năm 1990 ước tính 
khoảng 18,5%), và tỷ lệ này dự kiến sẽ tăng 
lên 23% vào năm 2030.⁷ Một phần do số người 
mới sử dụng hoặc mới được chẩn đoán là lạm 
dụng, nghiện rượu tăng lên nhưng mặt khác do 
một số người sau thời gian đã cai nghiện rượu, 
vì lí do nào đó quay trở lại sử dụng ở nhiều mức 
độ khác nhau. 
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả thực 
trạng tái nghiện ở những người bệnh nghiện 
rượu đã điều trị tại Viện Sức khoẻ Tâm Thần 
Quốc gia.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
53 người bệnh rối loạn tâm thần và hành vi 
do sử dụng rượu, thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn 
đoán nghiện rượu theo ICD - 10, đã được điều 
trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch 
Mai trong năm 2018
2. Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc những 
người bệnh nghiện rượu. 
Trong thời gian nằm viện: Phỏng vấn trực 
tiếp người bệnh, người thân trong gia đình và 
những người có liên quan để thu thập các thông 
tin về quá trình nghiện rượu, khám lâm sàng 
một cách toàn diện về tâm thần, thần kinh, nội 
khoa, làm trắc nghiệm tâm lý khi người bệnh 
hợp tác. Theo dõi người bệnh sau khi ra viện: 
Theo dõi việc tái nghiện rượu ở thời điểm một 
tháng, ba tháng và sáu tháng sau khi ra viện 
thông qua phỏng vấn trực tiếp người bệnh và 
người thân trong gia đình, người bệnh được 
làm trắc nghiệm tâm lý ở những thời điểm đánh 
giá.
Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu:
- Bộ câu hỏi nghiên cứu thiết kế theo mẫu 
chuyên biệt dành cho bệnh nhân và người nhà 
bệnh nhân phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. 
- Nghiện rượu: được xác định theo Bảng 
Phân loại bệnh Quốc tế về các rối loạn tâm thần 
và hành vi (ICD - 10) 1992 của Tổ chức Y tế 
Thế giới, khi có ít nhất 3 trong 6 tiêu chuẩn sau, 
đã được trải nghiệm hoặc biểu lộ vào một lúc 
nào đó trong vòng một năm trở lại đây:1
+ Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc 
phải sử dụng rượu.
+ Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử 
dụng rượu về mặt thời gian bắt đầu, kết thúc 
hoặc mức sử dụng.
+ Một trạng thái cai sinh lý khi việc sử dụng 
rượu bị ngừng lại hoặc bị giảm bớt.
+ Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp 
rượu như cần phải tăng liều để chấm dứt hậu 
quả lúc đầu do liều thấp gây ra.
+ Dần dần xao nhãng các thú vui hoặc 
những thích thú trước đây có thể thay thế cho 
sử dụng rượu, tăng số thời gian cần để tìm 
kiếm hay sử dụng rượu, hoặc hồi phục khỏi tác 
động của rượu.
+ Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng 
chứng rõ ràng về hậu quả tai hại.
- Tái nghiện rượu: được xác định là tình 
trạng người bệnh nghiện rượu đã được cai 
nghiện, sau một thời gian không dùng rượu 
quay trở lại sử dụng và đáp ứng tiêu chuẩn 
chẩn đoán nghiện rượu theo ICD - 10.
- Test phân loại các rối loạn sử dụng rượu 
AUDIT (The Alcohol Use Disorders Identification 
Test): do Tổ chức Y tế Thế giới xây dựng, 
đã được chuẩn hoá ở Việt Nam. Đây là một 
phương pháp đơn giản, thực hiện sàng lọc mức 
độ lạm dụng rượu bia, xác định đối tượng sử 
dụng rượu mạo hiểm, có hại hay nghiện rượu. 
Điểm AUDIT < 8 điểm: uống rượu bia hợp lý, 
nguy cơ thấp, 8 - 15 điểm: uống rượu bia ở 
mức nguy cơ, 16 - 19 điểm: uống rượu bia ở 
mức có hại, ≥ 20 điểm: nghiện/lệ thuộc rượu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
162 TCNCYH 125 (1) - 2020
bia.⁸
- Đơn vị uống chuẩn: tương đương với 10 
gram rượu nguyên chất chứa trong dung dịch 
uống. 1 đơn vị uống chuẩn sẽ tương đương: 
100 ml rượu champagne nồng độ 13%, 100ml 
rượu vang trắng hoặc vang đỏ nồng độ 13%, 
425ml bia hơi nồng độ 2,7%, 285ml bia lon 
nồng độ 4,9%, 60 ml rượu vang đỏ nồng độ 
20%, 45 ml rượu vang trắng nồng độ 30%, 30 
ml rượu mạnh nồng độ 40%.⁹
Quá trình thu thập số liệu: được thực hiện 
tại Viện Sức khoẻ Tâm thần hoặc tại nhà người 
bệnh, do các bác sĩ tâm thần học đã được đào 
tạo.
Các chỉ số nghiên cứu: đặc điểm nhân 
khẩu xã hội học của nhóm nghiên cứu, tỷ lệ tái 
nghiện rượu, thời gian tái nghiện rượu sau khi 
ra viện, lý do tái nghiện rượu, số lần cai nghiện 
rượu, lượng rượu uống trung bình trong ngày, 
loại rượu thường sử dụng, địa điểm thường 
uống rượu. Các chỉ số này được theo dõi thông 
qua phỏng vấn trực tiếp người bệnh và người 
thân trong gia đình ở thời điểm người bệnh 
nằm viện, sau ra viện một tháng, ba tháng và 
sáu tháng.
Số liệu thu thập được nhập và xử lý bằng 
phần mềm Stata 13. Thống kê mô tả gồm các 
ước tính về tần suất và tỉ lệ cho các biến định 
tính. 
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu là một phần của đề tài “Nghiên 
cứu các yếu tố liên quan đến tái nghiện rượu ở 
những bệnh nhân đã được điều trị tại Viện Sức 
khỏe Tâm thần”, đã được Hội đồng đạo đức - 
Trường Đại học Y Hà Nội chấp thuận ngày 08 
tháng 02 năm 2018 (quyết định số 09NCS17/
HMU IRB). 
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm nhân khẩu xã hội học của nhóm đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu xã hội học của nhóm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 52 98,1
Nữ 1 1,9
Nghề nghiệp
Quản lý, hành chính 6 11,3
Lao động tự do 34 64,2
Công nhân, nông dân 9 17,0
Bộ đội 2 3,8
Thất nghiệp 2 3,7
Trình độ
học vấn
Tiểu học 4 7,6
THCS 16 30,2
PTTH 21 39,6
CĐ, ĐH, sau ĐH 12 22,6
Tình trạng hôn nhân
Đã kết hôn 41 77,4
Độc thân, ly thân/ly hôn 12 22,6
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
163TCNCYH 125 (1) - 2020
Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Tuổi trung bình 47,2 ± 8,4
Tuổi trung bình lần đầu sử 
dụng rượu
19,6 ± 5,0
Đa số đối tượng nghiện rượu tham gia nghiên cứu là nam (98,1%), chủ yếu là lao động tự do 
64,2%, nhóm người bệnh có trình độ học vấn phổ thông trung học chiếm tỷ lệ cao nhất 39,6%, 77,4% 
người bệnh đã kết hôn. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu: 47,2 ± 8,4. Tuổi trung bình lần 
đầu sử dụng rượu là 19,6 ± 5,0.
2.Thực trạng tái nghiện rượu 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tái nghiện rượu 
Tỷ lệ tái nghiện rượu: 43/53 người bệnh tái nghiện rượu, chiếm tỷ lệ cao 81,1% (Biểu đồ 1).
Một số đặc điểm sử dụng rượu ở nhóm người bệnh tái nghiện rượu
Bảng 2. Một số đặc điểm sử dụng rượu ở nhóm người bệnh tái nghiện rượu
 Thời gian
Đặc điểm
Trước 1 tháng 1 -< 3 tháng 3 - < 6 tháng
n % n % n %
Tái nghiện 20 46,5 13 30,2 10 23,3
Số lần đã cai 
nghiện rượu 
0 lần 3 15 1 7,7 1 10
1 lần 5 25 4 30,8 3 30
2 lần 3 15 1 7,7 2 20
3 lần 0 0 0 0 1 10
>= 4 lần 9 45 7 53,9 3 30
Loại rượu sử 
dụng
Rượu 30 - 40o 17 85 11 84,6 9 90
Rượu vang 2 10 0 0 1 10
Bia 4 - 5o 5 25 4 30,8 1 10
Nấu thủ công 17 85 11 84,6 9 90
Nhà máy sản xuất 6 30 4 30,8 2 20
Tái nghiện Không tái nghiện
81,1%
18,9%
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
164 TCNCYH 125 (1) - 2020
 Thời gian
Đặc điểm
Trước 1 tháng 1 -< 3 tháng 3 - < 6 tháng
n % n % n %
Thời điểm 
uống rượu 
trong ngày
Sáng 8 40 5 38,5 7 46,5
Trưa 17 85 11 84,6 8 80
Chiều 8 40 9 69,2 6 60
Tối 15 75 8 61,5 8 80
Trong bữa ăn 15 75 9 69,2 6 60
Ngoài bữa ăn 10 50 8 61,5 6 60
Trong giờ làm 1 5 1 7,7 0 0
Ngoài giờ làm 11 55 9 69,2 5 50
Lượng rượu Trung bình/ngày 
(đơn vị uống chuẩn)
14,4 ± 8,5
Địa điểm 
uống
Tại nhà 15 75 10 76,9 1 10
Nơi làm việc 1 5 0 0 1 10
Quán 12 60 6 46,2 1 10
Lễ hội, tiệc mừng 5 25 4 30,8 3 30
Tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong tháng đầu sau khi cai nghiện (46,5%), sau đó dường như giảm 
dần theo thời gian. Trong nhóm tái nghiện rượu, 53,9% người bệnh có ít nhất 4 lần cai nghiện trước 
khi vào viện chiếm tỷ lệ cao, rượu 30 - 40⁰ được sử dụng nhiều nhất, phần lớn là rượu nấu thủ 
công, chủ yếu người bệnh uống tại nhà (76,9%), uống nhiều bữa trong ngày, uống cả trong bữa ăn 
và ngoài bữa ăn. Lượng rượu trung bình trong ngày khi tính theo đơn vị uống chuẩn là 14,4 ± 8,5
Mức độ sử dụng rượu ở nhóm tái nghiện khi đánh giá bằng bộ câu hỏi AUDIT
Bảng 3. Mức độ sử dụng rượu ở nhóm tái nghiện khi đánh giá bằng bộ AUDIT
 Thời gian
Đặc điểm 
Trước 1 tháng 1-< 3 tháng 3- < 6 tháng
n % n % n %
AUDIT
An toàn 0 0 0 0 0 0
Sử dụng có nguy cơ 2 10 2 14,3 2 20
Sử dụng có hại 5 25 3 21,4 1 10
Nghiện/Lệ thuộc 13 65 8 57,1 7 70
Khi sử dụng bộ câu hỏi AUDIT, không có bệnh nhân nào sử dụng rượu ở mức độ an toàn, bệnh 
nhân nghiện/lệ thuộc rượu chiếm tỷ lệ cao 57,1 đến 70%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
165TCNCYH 125 (1) - 2020
Lý do tái nghiện rượu
Biểu đồ 2. Lý do tái nghiện rượu
Có rất nhiều lý do các đối tượng tái nghiện rượu, thường gặp hơn cả là do bạn bè rủ: 83,7%, do 
thèm nhớ và dễ mua đều chiếm tỷ lệ 72,1% (Biểu đồ 2). 
72,09%
6,98%
30,23%
13,95%
2,33%
37,21%
6,98%
83,72%
72,09%
16,28%
18,60%
44,19%
9,30%
6,98%
25,58%
Thèm nhớ
Có sẵn rượu trong nhà
Xung đột ngoài xã hội
Lo âu
Dễ mua
Đặc thù nghề nghiệp
Thất nghiệp
Nhiều người xung 
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy 81,1% 
người bệnh tái nghiện rượu sau khi cai. Một số 
nghiên cứu trên thế giới cũng cho kết quả tương 
tự. Theo Thompson và cộng sự, tỷ lệ tái nghiện 
rượu là 60 - 90% mặc dù đã được can thiệp 
điều trị.10 Nghiên cứu của Walitzer và Dearing 
cũng nhận thấy tỷ lệ này vào khoảng 70%.11 
Như vậy, tỷ lệ tái nghiện rượu nhìn chung vẫn 
ở mức tương đối cao, điều này chứng tỏ vấn đề 
duy trì, kéo dài khoảng thời gian không sử dụng 
rượu sau khi đã cai nghiện vẫn là mục tiêu hết 
sức khó khăn trong kế hoạch điều trị chống tái 
nghiện rượu của nhiều quốc gia trên thế giới 
cũng như ở Việt Nam.
Tỷ lệ tái nghiện rượu cao nhất trong khoảng 
một tháng đầu sau khi cai nghiện rượu, chiếm 
46,5%, sau đó giảm dần theo thời gian. Kết quả 
của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Neto 
và cộng sự (2008).12 Điều này đòi hỏi cần có 
các biện pháp điều trị dự phòng tái nghiện tích 
cực cho đối tượng nghiện rượu ngay sau khi 
cai nghiện. 
Trong nhóm đối tượng tái nghiện rượu: 
53,9% đối tượng đã cai nghiện rượu từ 4 lần trở 
lên, chiếm tỷ lệ cao nhất. Theo nghiên cứu của 
Zywwiak và cộng sự, 44% đối tượng nghiện 
rượu đã cai nghiện và tái nghiện rượu từ 4 lần 
trở lên, trung bình là 3,2 ± 1,7 lần.6 Như vậy, 
nhiều đối tượng nghiện rượu đã cai nghiện và 
sau đó lại tái nghiện rượu nhiều lần, chứng tỏ 
rượu là một chất gây nghiện rất khó từ bỏ, dễ 
gây tái nghiện trở lại.
Lượng rượu uống trung bình trong ngày của 
các đối tượng nghiên cứu tái nghiện rượu, tính 
theo đơn vị rượu chuẩn là 14,4 ± 8,5. Đây là 
một vấn đề đáng báo động đối với việc nghiện 
rượu và tái nghiện rượu ở Việt Nam hiện nay, 
do mức độ tiêu thụ rượu của các đối tượng là 
rất cao, vượt quá nhiều so với mức sử dụng 
rượu an toàn đối với sức khỏe mà Tổ chức Y tế 
Thế giới cũng như nhiều quốc gia khác khuyến 
cáo9. 
Loại rượu, bia các đối tượng tái nghiện 
thường sử dụng không thay đổi trước và sau 
khi tái nghiện, phổ biến nhất vẫn là rượu trắng 
30 - 40⁰, phần lớn là rượu nấu thủ công, chủ 
yếu người bệnh uống tại nhà (76,9%), uống 
nhiều bữa trong ngày, uống cả trong bữa ăn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
166 TCNCYH 125 (1) - 2020
và ngoài bữa ăn. Trên thị trường Việt Nam hiện 
nay, rượu trắng bao gồm rượu do tư nhân tự 
nấu thủ công và do nhà máy sản xuất, trong 
đó chủ yếu là loại rượu tự nấu thủ công với 
giá thành rẻ, sẵn có ở mọi nơi, mọi lúc, nên 
người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận hơn. Tuy 
nhiên, rượu trắng tự cất thường không đảm 
bảo các yêu cầu an toàn thực phẩm, có hàm 
lượng aldehyde cao, hầu hết đều dựa vào kinh 
nghiệm cá nhân của người chủ sản xuất. Hơn 
nữa, việc thiếu kiến thức và ý thức chấp hành 
luật pháp, vì lợi nhuận mà sản xuất rượu không 
bảo đảm chất lượng, đã gây ảnh hưởng trực 
tiếp đến tính mạng người dân và sức khoẻ 
cộng đồng.
Khi sử dụng bộ câu hỏi AUDIT để sàng lọc 
mức độ sử dụng rượu, kết quả cho thấy không 
có bệnh nhân nào sử dụng rượu ở mức an toàn, 
bệnh nhân nghiện rượu chiếm tỷ lệ cao 57,1% 
đến 70%. Như vậy, nhiều bệnh nhân sau khi đã 
cai nghiện quay trở lại sử dụng rượu ở các mức 
độ khác nhau và dễ dàng dẫn đến tái nghiện, 
càng khẳng định tính chất khó khăn trong quá 
trình điều trị phòng tái nghiện rượu sau khi cai.
Về lý do tái nghiện rượu, chúng tôi nhận 
thấy có rất nhiều lý do mà những người tái 
nghiện rượu đưa ra để giải thích cho việc tái 
sử dụng rượu thường xuyên của mình, trong 
đó lý do chiếm tỷ lệ cao là do bạn bè rủ: 83,7%, 
do thèm nhớ và dễ mua đều chiếm tỷ lệ 72,1%. 
Một số nghiên cứu trên thế giới cũng có nhận 
xét không khác biệt nhiều với chúng tôi. Theo 
Korlakunta và cộng sự, thèm nhớ là nguyên 
nhân phổ biến nhất dẫn đến tái nghiện rượu, 
chiếm 44,7%; tuy nhiên do bạn bè rủ chỉ chiếm 
14,2%13 có thể do sự khác biệt với nước ta về 
văn hoá sống trong cộng đồng làng xã, quan 
hệ bạn bè. Nhiều người sau khi cai nghiện vẫn 
tiếp tục chơi với những nhóm bạn cũ, trong đó 
có cả những người nghiện rượu khác. Vì không 
muốn làm mất lòng bạn nên đã không đủ tự tin 
để từ chối trước những lời mời rượu mặc dù 
biết rõ tác hại, dần dần dẫn đến lạm dụng và 
nghiện rượu trở lại. Bottlender và Soyka cũng 
nhận định việc thèm nhớ rượu mạnh mẽ là một 
trong những yếu tố tiên lượng tái nghiện rượu.14 
Thực tế, trên thế giới đã có nhiều phương pháp 
điều trị duy trì, chống tái nghiện rượu bằng cách 
tác động làm mất cảm giác thèm nhớ, tuy nhiên 
vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ tái nghiện của các bệnh nhân nghiện 
rượu đã được điều trị tại bệnh viện còn rất cao, 
tái nghiện sớm sau khi ra viện, với lượng rượu 
uống trung bình trong ngày vượt quá rất nhiều 
so với mức an toàn về sức khoẻ do Tổ chức Y 
tế thế giới và nhiều quốc gia khuyến cáo. Do 
vậy, cần thiết phải đẩy mạnh công tác tuyên 
truyền về tác hại của rượu, quản lý việc sản 
xuất và tiêu thụ rượu cũng như xây dựng kế 
hoạch can thiệp điều trị, hỗ trợ hiệu quả, lâu dài 
cho các bệnh nhân ngay sau khi ra viện trở về 
với gia đình và cộng đồng.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Viện 
Sức khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai đã 
cho phép và tạo điều kiện chúng tôi được thực 
hiện đề tài này. 
Chúng tôi xin cam đoan các số liệu và thông 
tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, 
trung thực và khách quan. Các dữ liệu này là do 
chính chúng tôi nghiên cứu và không sao chép, 
lặp lại các nghiên cứu khác tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổ chức Y tế Thế giới. Các rối loạn tâm 
thần và hành vi do sử dụng các chất tác động 
tâm thần. In: Phân Loại Bệnh Quốc Tế Lần Thứ 
10 về Các Rối Loạn Tâm Thần và Hành vi, Mô 
Tả Lâm Sàng và Nguyên Tắc Chỉ Đạo Chẩn 
Đoán. Tổ chức Y tế Thế giới, Geneva; 1992:34-
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
167TCNCYH 125 (1) - 2020
49.
2. American Psychiatric Association. 
Diagnostic and Statistical Manual of Mental 
Disorders, Fifth Edition. Fifth. Washington DC; 
2013.
3. Chithiramohan A, George S. 
Pharmacological interventions for alcohol 
relapse prevention. Internet J Med Update - 
EJOURNAL. 2015;10(2):41. doi:10.4314/ijmu.
v10i2.7
4. Sadock BJ, Sadock VA, Pedro. 
Substance Use and Addictive Disorders. In: 
Kaplan & Sadock’s Synopsis of Psychiatry: 
Behavioral Sciences/Clinical Psychiatry. 
Eleventh edition. Philadelphia: Wolters Kluwer; 
2015:589-604.
5. Prochaska JO, DiClemente CC, 
Norcross JC. In search of how people change: 
Applications to addictive behaviors. Am 
Psychol. 1992;47(9):1102.
6. Zywiak WH, Stout RL, Trefry WB, et al. 
Alcohol relapse repetition, gender, and predictive 
validity. J Subst Abuse Treat. 2006;30(4):349-
353. doi:10.1016/j.jsat.2006.03.004
7. Manthey J, Shield KD, Rylett M, 
Hasan OSM, Probst C, Rehm J. Global alcohol 
exposure between 1990 and 2017 and forecasts 
until 2030: a modelling study. The Lancet. 
2019;393(10190):2493-2502. doi:10.1016/
S0140-6736(18)32744-2
8. Babor TF, Higgins-Biddle JC, Saunders 
JB, Monteiro MG. The Alcohol Use Disorders 
Identification Test Guidelines for Use in Primary 
Care. 2nd ed. World Health Organization: 
Department of Mental Health and Substance 
Dependence; 2001.
9. International Center for Alcohol Policies 
(ICAP), Geneva, World Health Organisation. 
Australian Guidelines to Reduce Health Risks 
from Drinking Alcohol. Commonwealth of 
Australia; 2009:12, 15, 32.
10. Thompson TP, Taylor AH, Wanner 
A, et al. Physical activity and the prevention, 
reduction, and treatment of alcohol and/or 
substance use across the lifespan (The PHASE 
review): protocol for a systematic review. Syst 
Rev. 2018;7(1). doi:10.1186/s13643-018-0674-
0
11. Walitzer KS, Dearing RL. Gender 
differences in alcohol and substance use 
relapse. Clin Psychol Rev. 2006;26(2):128-148. 
doi:10.1016/j.cpr.2005.11.003
12. Neto D, Lambaz R, Aguiar P, Chick 
J. Effectiveness of Sequential Combined 
Treatment in Comparison with Treatment 
as Usual in Preventing Relapse in Alcohol 
Dependence. Alcohol Alcohol. 2008;43(6):661-
668. doi:10.1093/alcalc/agn075
13. Korlakunta A, Chary RSS, Reddy 
CM P. Reasons for relapse in patients with 
alcohol dependence. AP J Psychol Med. 
2012;13(2):108-4.
14. Bottlender M. Impact of craving on 
alcohol relapse during and 12 months following, 
out patient treatment. Alcohol Alcohol. 
2004;39(4):357-361. doi:10.1093/alcalc/
agh073
Summary
THE OCCURRENCE OF ALCOHOL DEPENDENCE RELAPSE 
AMONG IN-PATIENTS AT THE NATIONAL INSTITUTE OF 
MENTAL HEALTH
The prevalence of alcohol use disorder has been increased in several countries in the world as well 
as in Vietnam. This study is to describe the current status of relapse among alcoholic patients underwent 
treatment at the National Institute of Mental Health. This is a prospective study. 53 patients meeting 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
168 TCNCYH 125 (1) - 2020
the ICD-10 diagnostic criteria of alcoholism were treated at the National Institute of Mental Health - 
Bach Mai Hospital in 2018. They were followed up at intervals of 1 month, 3 months and 6 months after 
discharge. 81.1% of participants relapsed, the highest rate of relapse was found in the first month after 
discharge (46.5%). 53.9% relapsed patients had at least 4 previous detoxifications, alcohol strength 
of 30 - 40⁰ was most commonly used and mostly used at home. Average alcohol consumption per day 
in standard drink was 14.4 ± 8.5. The main reasons of alcohol dependence relapse were due to peer 
pressure (83.7%), availability (72.1) and craving (72.1%). There is a need to promote public education 
about the harmful effects of alcohol, to manage the production and consumption of alcohol as well as to 
develop an effective treatment plan and long-term support for patients immediately after detoxification.
Keywords: alcoholism, alcohol dependence relapse

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tai_nghien_o_nguoi_benh_nghien_ruou_da_dieu_tri_n.pdf