Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung học Cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014

Đề tài “Thực trạng sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của học sinh

trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014” được thực

hiện nhằm 2 mục tiêu: mô tả thực trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh và

xác định một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thiết kế

cắt ngang có phân tích với công cụ là phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn bao gồm

thang đo SDQ25 đánh giá thực trạng SKTT và bảng tìm hiểu các yếu tố liên quan

với SKTT. Đối tượng nghiên cứu là 224 học sinh thuộc 4 khối lớp. Thời gian

nghiên cứu từ tháng 3/2014 đến tháng 6/2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ

học sinh có vấn đề SKTT là 21,9%; 15,2% có vấn đề cảm xúc; 17,4% có vấn đề

hành vi; 12,9% có vấn đề tăng động giảm chú ý; 27,7% có vấn đề nhóm bạn và

19,2% có vấn đề kỹ năng tiền xã hội. Kết quả này tương đồng với các kết quả của

các nghiên cứu tương tự. Yếu tố liên quan với SKTT học sinh được xác định trong

nghiên cứu này là bạo lực học đường. Khi bạo lực học đường tăng lên thì nguy cơ

có vấn đề SKTT tăng lên. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một vài

khuyến nghị để giảm thiểu bạo lực học đường, cải thiện SKTT cho học sinh

pdf 9 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung học Cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung học Cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014

Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung học Cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014
 201 
THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN 
QUAN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TAM KHƯƠNG, 
ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI NĂM 2014 
BS. Đào Thị Tuyết 
Trung tâm Truyền thông GDSK Trung ương 
Tóm tắt nghiên cứu 
Đề tài “Thực trạng sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của học sinh 
trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014” được thực 
hiện nhằm 2 mục tiêu: mô tả thực trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh và 
xác định một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thiết kế 
cắt ngang có phân tích với công cụ là phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn bao gồm 
thang đo SDQ25 đánh giá thực trạng SKTT và bảng tìm hiểu các yếu tố liên quan 
với SKTT. Đối tượng nghiên cứu là 224 học sinh thuộc 4 khối lớp. Thời gian 
nghiên cứu từ tháng 3/2014 đến tháng 6/2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ 
học sinh có vấn đề SKTT là 21,9%; 15,2% có vấn đề cảm xúc; 17,4% có vấn đề 
hành vi; 12,9% có vấn đề tăng động giảm chú ý; 27,7% có vấn đề nhóm bạn và 
19,2% có vấn đề kỹ năng tiền xã hội. Kết quả này tương đồng với các kết quả của 
các nghiên cứu tương tự. Yếu tố liên quan với SKTT học sinh được xác định trong 
nghiên cứu này là bạo lực học đường. Khi bạo lực học đường tăng lên thì nguy cơ 
có vấn đề SKTT tăng lên. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một vài 
khuyến nghị để giảm thiểu bạo lực học đường, cải thiện SKTT cho học sinh. 
1. Đặt vấn đề 
Theo điều tra ở các nước trong khu vực và trên thế giới, trung bình khoảng 
20% trẻ em bị tổn thương SKTT dưới nhiều hình thức khác nhau. Tại Việt Nam, 
báo động về bệnh trầm cảm, lo âu, căng thẳng thần kinh, khủng hoảng tâm lý ở 
trẻ em đang có xu hướng tăng mạnh. Kết quả nghiên cứu của Đặng Hoàng Minh 
và cộng sự năm 2012 cho biết có từ 12-13% trẻ em Việt Nam trong độ tuổi 6-16 
gặp phải những vấn đề SKTT một cách rõ rệt. 
Học sinh THCS ở lứa tuổi 11-15 là lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh 
lý. Chương trình học quá tải, thiếu các hoạt động tập thể sinh động, thiếu sự cảm 
thông và giúp đỡ của thầy cô khiến trẻ nhanh mệt mỏi, mất hứng thú học tập dẫn 
đến chán học, bỏ học... Việc cha mẹ ít quan tâm hoặc quan tâm thái quá, dạy con 
bằng bạo lực làm trẻ cảm thấy thiếu vắng tình cảm cũng ảnh hưởng đến vấn đề 
SKTT của các em. 
Trường THCS Tam Khương là 1 trong 15 trường THCS công lập ở quận 
Đống Đa, Hà Nội. Trường có 40 thầy cô giáo, 233 học sinh thuộc 4 khối lớp. 
 202 
Điều kiện kinh tế các gia đình ở đây thuộc loại trung bình, phụ huynh hầu hết đều 
bận rộn với việc kiếm sống nên sự quan tâm đến con cái có phần hạn chế. Hiện 
tượng học sinh chán học, bỏ học, mê chơi game; lấy lý do mệt, đau đầu, đau bụng 
để xuống phòng y tế nằm nghỉ chiếm tỷ lệ đáng kể. 
Tìm hiểu thực trạng vấn đề SKTT của học sinh và xác định những yếu tố 
ảnh hưởng, từ đó đưa ra giải pháp nhằm cải thiện SKTT cho các em là việc làm 
cần thiết, đáp ứng nhu cầu quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường và các bậc 
phụ huynh. 
Vì lý do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng SKTT và các yếu 
tố liên quan của học sinh trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà 
Nội năm 2014”. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
1. Mô tả thực trạng SKTT của học sinh trường Trung học cơ sở Tam 
Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014. 
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến SKTT của học sinh trường Trung 
học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội năm 2014. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
Toàn bộ 224 học sinh trường THCS Tam Khương năm học 2013-2014 
3.2. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích 
3.3. Địa điểm nghiên cứu: Trường THCS Tam Khương, Đống Đa, Hà Nội 
3.4. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 02/2014 đến tháng 6/2014 
3.5. Xử lý và phân tích số liệu 
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. 
Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0, với các test thống kê 
thông thường như tính tỷ lệ %, tính 2, tính OR, P với mức ý nghĩa thống kê (α =0,05), 
mô hình hồi quy logistics. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu 
Số học sinh tham gia nghiên cứu là 224 em có độ tuổi từ 12 đến 16. Số học 
sinh nam nhiều hơn học sinh nữ, có 116 nam chiếm 51,8% và 108 nữ chiếm 
 203 
48,2%. Hầu hết học sinh sống cùng cả cha và mẹ ruột (86,2%). Nghề của cha mẹ 
học sinh chủ yếu là nghề tự do (cha 75%, mẹ 51,8%). 
4.2. Thực trạng SKTT 
Trong 224 học sinh, 49 em có vấn đề SKTT chiếm 21,9%. Tỷ lệ này ở học 
sinh nam là 22,4% và ở nữ là 21,3%. 
Bảng 1: Tỷ lệ vấn đề SKTT theo tuổi 
Tuổi 
(N=224) 
Vấn đề SKTT 
Có Không 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
12 11 21,6 40 78,4 
13 14 20,9 53 79,1 
14 11 26,2 31 73,8 
15 11 19,0 47 81,0 
16 2 33,3 4 66,7 
Tỷ lệ có vấn đề SKTT ở các nhóm tuổi 15 là cao nhất (81,0%) và thấp nhất 
ở nhóm tuổi 16 (66,7%). 
4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với SKTT 
4.3.1. Mối liên quan hai biến 
Bảng 2: Liên quan giữa các yếu tố gia đình với SKTT 
Đặc điểm 
Vấn đề SKTT 
OR, p Có Không 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
Người sống 
cùng 
Khác 13 41,9 18 58,1 OR=3,2 
p<0,01 Cha mẹ 
ruột 36 18,7 157 81,3 
Cha mẹ 
hạnh phúc 
Không 27 47,4 30 52,6 OR=5,9 
p<0,01 Có 22 13,2 145 86,8 
Người 
 chia sẻ 
Không 17 48,6 18 51,4 OR=5,9 
p<0,01 Có 32 16,9 157 83,1 
 204 
Học sinh không được sống cùng cả cha mẹ ruột có nguy cơ mắc vấn đề 
SKTT cao gấp 3,2 lần học sinh được sống cùng cả cha mẹ ruột, học sinh cảm 
nhận cha mẹ không hạnh phúc có nguy cơ mắc vấn đề SKTT cao gấp 5,9 lần học 
sinh cảm nhận cha mẹ hạnh phúc. Học sinh không có người để chia sẻ có nguy cơ 
mắc vấn đề SKTT cao gấp 5,9 lần học sinh có người để chia sẻ. 
Bảng 3: Liên quan giữa các yếu tố trường học với SKTT 
Đặc điểm 
Vấn đề SKTT 
OR, p Có Không 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
Số giờ học 
thêm TB/ngày 
≥ 5 giờ/ngày 23 36,5 40 63,5 OR=3,2 
p<0,05 <5 giờ/ngày 26 16,1 135 83,9 
Bạn bè 
thân thiện 
Không/hiếm 
khi 11 52,4 10 47,6 
OR=4,8 
p<0,05 Thỉnh thoảng/ 
thường xuyên 38 18,7 165 81,3 
Bạn 
thân 
Không 9 60,0 6 40,0 OR=6,3 
p<0,01 Có 40 19,1 169 80,9 
Học sinh học thêm từ 5 giờ/ngày trở lên có nguy cơ mắc vấn đề SKTT cao 
gấp 3 lần học sinh học thêm dưới 5 giờ/ngày, học sinh không/hiếm khi được bạn 
bè cư xử thân thiện có nguy cơ mắc vấn đề SKTT cao gấp 4,8 lần học sinh thỉnh 
thoảng/thường xuyên được bạn bè cư xử thân thiện, học sinh không có bạn thân 
có nguy cơ mắc vấn đề SKTT cao gấp 6,3 lần học sinh có bạn thân. 
Bảng 4: Mô hình hồi quy hai biến giữa điểm lối sống, cha mẹ quan tâm, bạo 
lực gia đình, áp lực học tập, bạo lực học đường với SKTT 
Biến độc lập 
N = 224 
Vấn đề SKTT (không,có) 
B S.E p 95% CI 
Điểm Lối sống -0.366 0,092 0,000 1,205 - 1,727 
Điểm Cha mẹ quan tâm -0.320 0,065 0,000 0,639 - 0,825 
Điểm Bạo lực gia đình -0.475 0,088 0,000 0,523 - 0,739 
Điểm Áp lực học tập -0.391 0,101 0,000 0,555 - 0,825 
Điểm Bạo lực học đường -0.636 0,101 0,000 0,435 - 0,645 
Điểm Thầy cô quan tâm -0.471 0,105 0,000 0,508 - 0,767 
 205 
Có mối liên quan giữa lối sống, cha mẹ quan tâm, bạo lực gia đình, áp lực 
học tập, bạo lực học đường với SKTT (p<0,001, hồi quy binary). Khi điểm về các 
yếu tố này tăng lên nghĩa là tính tích cực của các yếu tố tăng lên thì nguy cơ có 
vấn đề SKTT giảm đi (B<0, p<0,001). 
4.3.2. Mối liên quan đa biến 
Sử dụng mô hình hồi quy logistics với biến phụ thuộc là vấn đề SKTT. 
Các biến độc lập được đưa vào mô hình là các biến được xác định có mối liên 
quan với SKTT khi phân tích đơn biến. 
Bảng 5: Mô hình hồi quy logistics các yếu tố liên quan với vấn đề SKTT 
Biến độc lập 
N = 224 
Vấn đề SKTT (0 = không, 1 = có) 
B S.E p 95%CI 
Người chia sẻ 0,263 0,566 0,642 0,429 - 3,941 
Người nuôi dưỡng 1,267 0,753 0,092 0,064 - 1,232 
Cha mẹ hạnh phúc 0,579 0,563 0,304 0,186 - 1,691 
Bạn bè thân thiện 0,687 0,757 0,365 0,114 - 2,221 
Số bạn thân 0,987 0,850 0,246 0,070 - 1,971 
Giờ học thêm trung bình 0,578 0,532 0,277 0,198 - 1,592 
Điểm Lối sống -0,236 0,137 0,086 0,603 - 1,034 
Điểm Cha mẹ quan tâm -0,068 0,106 0,518 0,759 - 1,149 
Điểm Bạo lực gia đình -0,161 0,133 0,223 0,656 - 1,103 
Điểm Thầy cô quan tâm -0,069 0,175 0,693 0,662 - 1,315 
Điểm Áp lực học tập -0,089 0,174 0,611 0,650 - 1,288 
Điểm Bạo lực học đường -0,441 0,129 0,001 0,500 - 0,828 
Theo mô hình này, yếu tố liên quan với vấn đề SKTT là bạo lực học đường. 
Điểm bạo lực học đường tăng lên (bạo lực học đường giảm đi) thì nguy cơ mắc vấn 
đề SKTT giảm đi (B<0, p<0,05). Điều này cũng có nghĩa là khi bạo lực học đường 
tăng lên thì nguy cơ có vấn đề SKTT tăng lên. 
 206 
5. Bàn luận 
Kết quả tìm hiểu thực trạng SKTT của đối tượng trong nghiên cứu này qua 
bảng hỏi SDQ25 cho thấy tỷ lệ học sinh có vấn đề SKTT là 21,9%. Tỷ lệ này tương 
đồng với kết quả của các nghiên cứu tương tự trong và ngoài nước. 
Không được sống cùng cả cha mẹ ruột, cảm nhận cha mẹ không hạnh 
phúc, bạo lực gia đình là các yếu tố nguy cơ của vấn đề SKTT. Kết quả này cho 
thấy mối quan hệ gia đình có tác động lớn đến SKTT của các em. Gia đình là nơi 
trẻ được lớn lên, được nuôi dưỡng và chăm sóc. Trong ngôi nhà của mình, các em 
được cả cha và mẹ cùng yêu thương, che chở sẽ cảm nhận được đầy đủ tình cảm, 
hạnh phúc gia đình khiến cho tinh thần của trẻ được thoải mái, trẻ luôn cảm thấy ấm 
áp và bình yên. Còn khi thiếu vắng cha/mẹ thì người còn lại dù cố gắng đến mấy 
cũng không thể bù đắp được sự thiếu hụt của người kia, khiến đứa trẻ luôn cảm thấy 
có sự chông chênh khi cảm nhận về vai trò của cha mẹ. Tuy nhiên có một thực tế là, 
đôi khi dù được sống cùng cả cha mẹ ruột nhưng nếu mối quan hệ của họ không 
được hòa thuận, luôn có mâu thuẫn, cãi vã thì tinh thần của trẻ sẽ bị tổn thương 
nghiêm trọng. Theo Đặng Bá Lãm, trẻ em có biểu hiện bất thường về tinh thần có 
thể là do xuất thân trong những gia đình cha mẹ bất hòa. Theo Hoàng Cẩm Tú, cha 
mẹ sống không hạnh phúc, bạo lực gia đình cùng một số yếu tố khác chiếm đến 2/3 
nguyên nhân rối loạn hành vi, chống đối, trầm cảm, tự sát, nghiện hút... ở trẻ em. 
Trong nghiên cứu này, trẻ có cảm nhận cha mẹ không hạnh phúc có nguy cơ mắc 
vấn đề SKTT cao gấp 5,9 lần so với trẻ có cảm nhận cha mẹ hạnh phúc. Từ kết quả 
này, các bậc cha mẹ cần tạo cho mình phong cách ứng xử phù hợp và chú ý điều 
chỉnh mối quan hệ cha mẹ với nhau và mối quan hệ cha mẹ với con cái theo hướng 
tích cực. Điều đó sẽ tạo không khí gần gũi, thân thiện, cởi mở trong gia đình giúp trẻ 
có được đời sống tinh thần lành mạnh, vui vẻ. 
Những yếu tố từ môi trường học tập như học thêm từ 5 giờ/ngày trở lên, 
bạn bè thiếu thân thiện, không có bạn thân là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc 
vấn đề SKTT của học sinh. Chương trình học quá tải, nội dung bài học khó hiểu 
khiến các em tỏ ra chán nản, tinh thần luôn nặng nề. Không những học chính khóa, 
các em còn phải học thêm cả ở trong và ngoài trường tạo ra một khối lượng kiến 
thức không nhỏ mà các em phải tiếp thu hàng ngày, thật quá sức đối với sức chịu 
đựng non nớt của trẻ. Học thêm không chỉ ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu các môn 
học mà còn ảnh hưởng xấu đến cảm xúc của học sinh. Các em bị suy giảm cả thể 
lực, trí lực và đánh mất sự hồn nhiên của tuổi học trò. Theo kết quả nghiên cứu của 
nhóm tác giả Lê Thị Kim Dung, Lã Thị Bưởi, Đinh Đăng Hòe thì gần 100% số 
học sinh các cấp phải học thêm, trong đó 17% số học sinh phải học thêm trên 5 
giờ/ngày. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ học sinh phải học thêm trên 5 giờ/ngày là 
 207 
5,8%; con số này không cao so với nghiên cứu của các tác giả nói trên bởi các em 
là học sinh THCS trong khi đối tượng của nghiên cứu trên gồm cả 3 cấp học, có 
thể học sinh cấp tiểu học và THPT phải học thêm nhiều hơn. 
Bạn bè chiếm tỷ lệ cao nhất trong các đối tượng được các em tin tưởng 
trao gửi tâm sự, chia sẻ mỗi khi các em vui buồn (48,7%). Cũng vì mối liên hệ 
mật thiết với bạn bè, cần có bạn mà những học sinh không có bạn thân có nguy 
cơ mắc vấn đề SKTT cao gấp 6,3 lần học sinh có bạn thân. Kết quả này cho thấy 
sự trợ giúp đúng đắn và phù hợp thông qua bạn bè là một cách can thiệp hiệu quả 
đối với học sinh, các bậc cha mẹ cần có sự gần gũi, chia sẻ, trò chuyện với con 
cái để hiểu con và giúp đỡ con nhiều hơn. 
Yếu tố liên quan với SKTT khi phân tích đa biến trong nghiên cứu này là 
bạo lực học đường. Trường học, nơi diễn ra mối quan hệ giữa học sinh với thầy 
cô và bạn bè đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phong cách sống của 
học sinh. Không gian học tập, sự quan tâm, cư xử của thầy cô và bạn bè có ảnh 
hưởng nhất định đến thể chất và tâm thần của trẻ. 
Bạo lực học đường được đề cập đến là một trong những yếu tố nguy cơ 
của SKTT trong nhiều nghiên cứu trên Thế giới và tại Việt Nam. Bạo lực học 
đường là yếu tố làm tăng nguy cơ có vấn đề SKTT của học sinh. Trường học là nơi 
trẻ sử dụng phần lớn thời gian trong ngày. Sự thân thiện trong quan hệ bạn bè, 
thầy trò, không khí học tập sôi nổi là những yếu tố khiến các em cảm thấy hào 
hứng, say mê nhưng điều ngược lại sẽ trở thành nguyên nhân khiến các em chán 
nản, tiêu cực và có ảnh hưởng không nhỏ đến SKTT của các em. 
Mối quan hệ thân thiết và gần gũi ở trường học khiến cho học sinh thêm 
yêu trường, yêu thầy cô và việc học tập của các em trở nên nhẹ nhàng. Thế 
nhưng, bạo lực học đường đã và đang là một vấn nạn nhức nhối hiện nay. Hiện 
tượng học sinh đánh chửi nhau, thầy cô đánh mắng học sinh, học trò chửi bới 
thầy cô thậm chí học trò chém giết nhau, giết thầy xảy ra và được đăng tải trên 
các phương tiện thông tin đại chúng đã làm chúng ta thêm lo ngại. Bạo lực học 
đường không chỉ ảnh hưởng đến bản thân học sinh mà còn ảnh hưởng đến gia 
đình, nhà trường và xã hội. Bạo lực học đường cũng như những hình thức bạo lực 
khác có thể gây ra những tổn thương về tinh thần hoặc thể xác cho người bị hại 
và cả người gây hại. Những đứa trẻ bị ảnh hưởng bởi bạo lực học đường thường 
cảm thấy bị tổn thương, chán nản, lo âu, cô đơn Sự sợ hãi hoặc nỗi ám ảnh làm 
thế nào để đối phó với bạo lực có thể khiến trẻ bị suy sụp tinh thần. Các em 
không cảm thấy yên tâm mỗi khi đến trường, ngại ngần khi chơi đùa với bạn, tiếp 
xúc với thầy cô. Thậm chí, sự căng thẳng quá mức về mặt tâm lý có thể buộc học 
sinh kết thúc việc học của mình, hoặc cũng có thể vì gây ra hành vi bạo lực mà 
 208 
học sinh phải nhận kỷ luật đuổi học. Từ đó, tương lai của các em rẽ sang một 
bước ngoặt khác không mấy khả quan. Bạo lực học đường gây nên sự căng thẳng 
cho phụ huynh. Cha mẹ thường xuyên lo lắng cho việc học của con em mình, lại 
thêm mối lo về sự an toàn của con cái, điều đó ảnh hưởng đến cuộc sống và công 
việc của họ rất nhiều. Thậm chí, nhiều bậc phụ huynh phải sắp xếp thời gian 
hoặc thuê người đưa đón con hàng ngày vì lo cho sự an toàn của trẻ trước nhiều 
nguy cơ trong đó có vấn nạn bạo lực học đường. 
Bạo lực học đường ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường. Khi học sinh 
không muốn đến trường vì sợ bị bạn trêu, bạn đánh có nghĩa là môi trường nhà 
trường không còn lành mạnh, không còn sức hút đối với học sinh mà trở thành 
nỗi sợ hãi của các em. Những hành vi bạo lực do giáo viên gây ra khiến cho môi 
trường giáo dục mất đi tính sư phạm, mất đi sự trang trọng của nghề giáo. Bạo 
lực từ giáo viên làm cho học sinh có cảm giác lo lắng và sợ hãi khi nghĩ đến thầy 
cô. Lứa tuổi các em rất nhạy cảm với cách hành xử của thầy cô. Vì vậy sự răn đe 
học sinh bằng cách đánh, mắng của thầy cô giáo và sự trêu chọc, gây gổ của bạn 
bè ảnh hưởng rất lớn đến các em. Nhìn rộng ra, bạo lực học đường là một phần 
không nhỏ làm mất trật tự xã hội khi bạo lực không chỉ xảy ra trong trường mà 
còn xảy ra ở ngoài trường. 
6. Khuyến nghị 
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy cần có các biện pháp ngăn chặn và giảm 
thiểu bạo lực học đường là yếu tố làm tăng nguy cơ có vấn đề SKTT ở học sinh. 
 Đối với cha mẹ học sinh 
- Xây dựng không khí gia đình hòa thuận, không bạo lực, cha mẹ thương yêu, 
dạy dỗ bảo ban con nhưng không can thiệp thô bạo vào các hoạt động của 
con, ủng hộ và tôn trọng con trong mọi hoàn cảnh. 
- Dạy trẻ cách đối phó với bạo lực học đường, chỉ cho con những nguyên nhân 
dễ dẫn đến bạo lực để phòng tránh, đặt ra những tình huống giả định nếu có 
bạo lực xảy ra thì phải làm gì (nói với thầy cô, tìm sự giúp đỡ của những 
người xung quanh, tránh xa nơi có bạo lực nếu không biết làm gì). 
 Đối với Ban Giám hiệu và giáo viên nhà trường 
- Xây dựng kế hoạch cải thiện SKTT cho học sinh song song với kế hoạch dạy 
và học cùng các phong trào thi đua của trường ngay trong năm học mới. 
- Tổ chức các buổi giao lưu giữa các lớp, các trường nhằm tạo điều kiện cho 
các em chia sẻ, gần gũi nhau, biết hợp tác chung sống trong môi trường tập 
thể, biết cách thể hiện tình yêu thương và tôn trọng người khác. 
 209 
 Đối với chính quyền phường Khương Thượng 
- Chỉ đạo công an phường trong việc đảm bảo an ninh trường học, không để 
các phần tử xấu gây mất an ninh trật tự bên ngoài trường học. 
- Chỉ đạo trạm y tế có kế hoạch phổ biến kiến thức chăm sóc SKTT giúp giáo 
viên và học sinh của trường có nhận thức đúng về chăm sóc SKTT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương (2010), Báo cáo kết quả khảo sát 
sức khỏe tâm thần của học sinh trường học Hà Nội 2005-2007. 
2. Lê Thị Kim Dung và cs (2011), Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến 
SKTT học sinh 1 số trường THCS và THPT tại Hà Nội. 
3. Đàm Thị Bảo Hoa (2014), Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp 
sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 – 15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên, 
Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên. 
4. Nguyễn Cao Minh (2012), Điều tra tỉ lệ trẻ em và vị thành niên ở miền Bắc 
có các vấn đề sức khỏe tâm thần, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành tâm lý học, 
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
5. Lê Sơn (2012), “Bạo lực học đường – sự cảnh báo về thiên lệch trong giáo 
dục”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học toàn quốc “Đổi mới tư duy giáo dục theo 
tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng CSVN lần thứ XI” do Hội Khoa học Tâm 
Lý-Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Nha Trang ngày 14 tháng 5 năm 2012. 
6. Trung tâm Nghiên cứu đào tạo và Phát triển cộng đồng (2011), Báo cáo kết 
quả nghiên cứu Thí điểm sử dụng bộ công cụ sàng lọc RNTT học sinh SDQ25 
tại các trường phổ thông của Hà Nội. 
7. Amstadter et al (2011), “Prevalence and correlates of probable adolescent 
mental health problems reported by parents in Vietnam”, Psychiatry 
Psychiatr Epidemiology, 46, pg. 95-100 
8. John S. Lyons (2008), An Information Integration Tool for Children and 
Adolescents with Mental Health Challenges CANS –MH, Child & Adolescent 
needs & Strengths, University of Ottawa Children’s Hospital of Eastern Ontario. 
9. National Association of School Nurses (2011), “School Violence, Role of the 
School Nurse in Prevention”, pg.154-156. 
10. Shoba S et al (2010), "Epidemiology of child and adolescent mental 
health in Asia", Current Opinion in psychiatry, 23 (4), pg. 330-36. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_suc_khoe_tam_than_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_cua.pdf