Thực trạng sử dụng và kiến thức, thái độ của người uống rượu, bia ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2014

Để có căn cứ xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng, chống tác hại của lạm

dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 tại tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi tiến hành nghiên

cứu: "Thực trạng sử dụng, kiến thức và thái độ của người uống rượu, bia tại thị

trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn". Bằng phương mô tả cắt ngang trên 400

đối tượng sử dụng rượu bia. Kết quả cho thấy có tới 25% số đối tượng lạm dụng

rượu bia. Tỷ lệ đối tượng có anh/em trai đang sử dụng rượu chiếm 37,8%, tiếp đó

là bố (35,8%). Lý do chủ yếu dẫn đến uống rượu bia nhiều nhất là khi gặp bạn

bè/người thân/khách chiếm 82%. Tỷ lệ đối tượng có thời gian sử dụng rượu bia từ

5 - 10 năm chiếm 29,25%; dưới 5 năm là 26,25%; 11- 20 năm là 25,25%, trên 20

năm là 19,0%. Thái độ đối với việc bỏ rượu bia, 60% đối tượng cho rằng có thể

bỏ được rượu bia. Trong khi đó 23,25% cho rằng không bỏ được. 100% các đối

tượng nghiên cứu đều cho rằng lạm dụng rượu bia (khi say rượu) có thể sẽ gây tai

nạn khi tham gia giao thông và ảnh hưởng đến sức khỏe; gây mất trật tự an ninh

là 57,3%; ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chiếm 48,8%; Các đối tượng nghiên cứu

đều nêu được các loại bệnh tật có thể mắc khi lạm dụng rượu bia, lần lượt là:

Bệnh gan mật chiếm 80%; bệnh tim mạch 70%, nguy cơ tử vong 67,5%. Chỉ có

21,3% đối tượng muốn bỏ ngay; vẫn có 27,3% cho rằng không muốn bỏ; 22,2%

cho rằng sẽ bỏ nhưng không phải lúc này; lưỡng lự là 15,8%.

pdf 12 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sử dụng và kiến thức, thái độ của người uống rượu, bia ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sử dụng và kiến thức, thái độ của người uống rượu, bia ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2014

Thực trạng sử dụng và kiến thức, thái độ của người uống rượu, bia ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2014
 14 
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ 
CỦA NGƯỜI UỐNG RƯỢU, BIA Ở THỊ TRẤN CHỢ RÃ, 
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN NĂM 2014 
BSCK II. Tạc Văn Nam 
Trung tâm Truyền thông GDSK Bắc Kạn 
Tóm tắt nghiên cứu 
Để có căn cứ xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng, chống tác hại của lạm 
dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 tại tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu: "Thực trạng sử dụng, kiến thức và thái độ của người uống rượu, bia tại thị 
trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn". Bằng phương mô tả cắt ngang trên 400 
đối tượng sử dụng rượu bia. Kết quả cho thấy có tới 25% số đối tượng lạm dụng 
rượu bia. Tỷ lệ đối tượng có anh/em trai đang sử dụng rượu chiếm 37,8%, tiếp đó 
là bố (35,8%). Lý do chủ yếu dẫn đến uống rượu bia nhiều nhất là khi gặp bạn 
bè/người thân/khách chiếm 82%. Tỷ lệ đối tượng có thời gian sử dụng rượu bia từ 
5 - 10 năm chiếm 29,25%; dưới 5 năm là 26,25%; 11- 20 năm là 25,25%, trên 20 
năm là 19,0%. Thái độ đối với việc bỏ rượu bia, 60% đối tượng cho rằng có thể 
bỏ được rượu bia. Trong khi đó 23,25% cho rằng không bỏ được. 100% các đối 
tượng nghiên cứu đều cho rằng lạm dụng rượu bia (khi say rượu) có thể sẽ gây tai 
nạn khi tham gia giao thông và ảnh hưởng đến sức khỏe; gây mất trật tự an ninh 
là 57,3%; ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chiếm 48,8%; Các đối tượng nghiên cứu 
đều nêu được các loại bệnh tật có thể mắc khi lạm dụng rượu bia, lần lượt là: 
Bệnh gan mật chiếm 80%; bệnh tim mạch 70%, nguy cơ tử vong 67,5%. Chỉ có 
21,3% đối tượng muốn bỏ ngay; vẫn có 27,3% cho rằng không muốn bỏ; 22,2% 
cho rằng sẽ bỏ nhưng không phải lúc này; lưỡng lự là 15,8%.... 
1. Đặt vấn đề 
 Ở Việt Nam nói chung, tỉnh Bắc Kạn nói riêng, quá trình đổi mới và phát 
triển nền kinh tế trong những năm qua đã giúp cho đời sống nhân dân ngày càng 
được nâng cao. Cùng với đó thì xu hướng sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt hàng 
ngày, trong những dịp lễ, hội, trong quan hệ công việc đang ngày càng gia 
tăng. Tình trạng sử dụng rượu, bia "tràn lan" ở một số nơi đã làm cho trật tự an 
toàn xã hội, an toàn giao thông trở thành những vấn đề đáng báo động. Cũng từ 
vấn đề này mà một số bệnh tật cũng có phần gia tăng do các yếu tố có liên quan 
tới hành vi sử dụng nhiều rượu, bia của người dân. 
Cho đến nay trên địa bàn toàn tỉnh chưa có một đề tài nghiên cứu về việc 
sử dụng rượu, bia của người dân, cũng như đánh giá về hành vi của những người 
 15 
 2
2
2/1 . d
pqZn 
thường xuyên sử dụng rượu. Bản thân những người thường xuyên sử dụng cũng 
chưa biết mình đã uống rượu bia ở mức nào? Đã đến mức lạm dụng chưa? Tác 
hại ra sao? Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Thực trạng sử 
dụng và kiến thức, thái độ của người uống rượu, bia tại thị trấn Chợ Rã, huyện 
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn", nhằm khảo sát tình hình sử dụng và mức độ lạm dụng 
rượu, bia của người dân nơi đây, đồng thời đánh giá về kiến thức và thái độ của 
họ với hành vi này. Kết quả của nghiên cứu này sẽ là cơ sở để các ngành, các cấp, 
nhất là ngành y tế có cơ sở dữ liệu cụ thể để tham mưu cho UBND tỉnh về kế 
hoạch phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020, bao gồm 
rượu, bia và đồ uống có cồn khác, nhằm giảm tình trạng lạm dụng rượu bia và 
giảm tác hại do việc sự dụng nhiều rượu bia gây ra đối với sức khỏe, tính mạng 
cũng như trật tự an toàn xã hội ở địa phương. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
1. Mô tả thực trạng sử dụng rượu, bia của người lớn đủ 16 tuổi trở lên đang 
sinh sống tại thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. 
2. Mô tả kiến thức và thái độ của người lớn đủ 16 tuổi trở lên đang sinh sống 
tại thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn về rượu, bia. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Người lớn đủ 16 tuổi trở lên đang sinh sống tại thị trấn Chợ Rã, huyện Ba 
Bể, tỉnh Bắc Kạn. 
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Người đã từng sử dụng rượu hoặc hiện tại đang sử 
dụng rượu bia thường xuyên, còn minh mẫn, có khả năng trả lời phỏng 
vấn, tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: Người không có khả năng tiếp xúc phỏng vấn hoặc từ 
chối tham gia nghiên cứu. 
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
- Địa điểm: Tại thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. 
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4-tháng 11/2014. 
3.3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang . 
- Cỡ mẫu: Tính theo công thức: 
 16 
Trong đó: Z: là chỉ số giới hạn của khoảng tin cậy 95% là 1,96; p = 0,5; 
q = 1 – p = 0,5; d = sai số tối đa 5% = 0,05; 
Thay vào các trị số ta có: n = 1,962.0,5.(1-0,5)/0,052 = 384. Với công thức 
trên, cỡ mẫu được tính là 384, làm tròn là n=400. 
3.4. Xử lý số liệu: Bằng phần mềm SPSS 18.0 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Tình hình sử dụng rượu bia của các đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1: Tình trạng sử dụng rượu bia của các đối tượng điều tra 
Sử dụng rượu bia 
Nam 
 (n=326) 
Nữ 
(n=74) 
Chung 
(n=400) 
Tần 
số 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần 
số 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần 
số 
Tỷ lệ 
(%) 
Hiện tại còn uống rượu, bia 315 96,7 71 95,9 386 96,5 
Lạm dụng rượu, bia. 95 29,1 5 6,8 100 25 
 96,5% đối tượng nghiên cứu hiện tại còn uống rượu bia. Tỷ lệ lạm dụng 
rượu bia ở nam chiếm 29,1%, Nữ chiếm 6,8%. Tỷ lệ chung cho cả hai giới chiếm 
25%. 
 Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, Các thành viên khác trong gia đình cũng 
uống rượu, bia, trong đó chủ yếu đàn ông trong gia đình (ông/bố/anh em trai) 
(7,8%; 35,8%; 37,8%), phụ nữ có uống nhưng ít hơn nhiều (<10%). 
Bảng 2: Lý do uống rượu bia của đối tượng 
Lý do Số lượng 
(n = 386 ) 
Tỷ lệ (%) 
Uống vì thích mùi vị của rượu bia 45 11,3 
Uống vì cảm thấy thư giãn 48 12,0 
Uống vì có chút rượu thấy tự tin hơn 51 12,8 
Uống vì thói quen khi gặp bạn bè/người thân/khách 328 82,0 
Uống vì cho là bổ/tăng cường sức khỏe 29 7,3 
Uống vì có đồ ăn(đồ nhắm) ngon 83 20,8 
Uống vì khi có rượu thấy ngủ ngon hơn 38 9,5 
 17 
 Lý do uống rượu bia nhiều nhất là vì thói quen khi gặp bạn bè/người 
thân/khách (82%); tiếp đến là do có đồ ăn ngon (20,8%); chỉ 12,8% cho rằng thấy 
tự tin hơn khi có chút rượu. Điều này cũng phù hợp với tần suất sử dụng rượu bia 
hiện tại của các đối tượng cao nhất là khi gặp bạn bè (53,5%); Uống hằng ngày là 
26%; tại các bữa tiệc là 20,5%. 
 Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, thời điểm đối tượng uống nhiều rượu bia 
nhất là những dịp đặc biệt đó là lễ tết (37%), bữa ăn tối (18,5%), uống cả ngày 
(26%), bữa ăn trưa (6,4%). Vẫn còn 4,4% đối tượng trong khi làm việc, dừng làm 
việc để uống rượu bia. 
Bảng 3: Thời gian sử dụng rượu bia của đối tượng 
Số năm Số lượng (n = 386 ) Tỷ lệ (%) 
< 5 năm 105 26,25 
5 - 10 năm 118 29,50 
11-20 năm 101 25,25 
>20 năm 76 19,0 
 Thời gian sử dụng rượu bia của các đối tượng trong từ 5-10 năm chiếm cao 
nhất 29,25%; dưới 5 năm là 26,25%; 11- 20 năm là 25,25%, và có tới 19,0% 
người uống rượu trên 20 năm. 
Bảng 4: Số lượng rượu, bia sử dụng hiện tại của đối tượng 
Tần suất, số lượng rượu bia Số lượng (n = 386 ) Tỷ lệ (%) 
Số lần uống trong 
ngày 
1 -2 lần/ ngày 213 55,2 
 > 2 lần/ ngày 173 44,8 
Số chén rượu mỗi lần 
uống (Chén tiêu chuẩn 
30 ml) 
1-3 chén 178 46,1 
4-6 chén 88 22,8 
7 - 10 chén 64 16,6 
>10 chén 56 14,5 
Số cốc bia mỗi lần 
uống (cốc 300ml) 
≤ 1 cốc 228 59,1 
2-3 cốc/lần 91 23,6 
4-5 cốc/lần 40 10,4 
>5 cốc/lần 27 6,9 
 Theo kết quả bảng 4, tỷ lệ đối tượng có số lần uống rượu bia nhiều hơn 2 
lần/ngày chiếm 44,8%. Tỷ lệ đối tượng sử dụng 1-3 chén rượu/lần chiếm 46,1%. 
 18 
Vẫn có tới 14,5% số đối tượng uống trên 10 chén rượu/lần. Tỷ lệ dùng ≤ 1 cốc 
bia/lần chiếm 59,1%; 2-3 cốc/lần chiếm 23,6%; >5 cốc/lần chiếm 6,9%. 
Bảng 5: Thực hành từ bỏ rượu, bia của đối tượng 
Bỏ rượu, bia Số lượng Tỷ lệ (%) 
Tự đánh giá 
khả năng bỏ 
rượu bia 
Có thể bỏ được 240 60 
Không thể bỏ được 93 23,25 
Không biết/không chắc chắn 67 16,75 
Số lần thử bỏ 
rượu không 
thành công 
(n=386) 
1 lần 184 48 
2 - 3 lần 34 9 
> 3 lần 22 6 
Không nhớ 146 37 
Lý do không bỏ 
được rượu bia 
(n=386) 
Do thói quen 111 29 
Không uống rượu thấy khó chịu 18 4,7 
Khó từ chối khi có người mời 182 47 
Uống vì giao tiếp trong công 
việc/đối tác ngoại giao 67 17,3 
Không biết lý do 8 2 
 60% số đối tượng hiện tại vẫn còn uống rượu bia cho rằng có thể bỏ được rượu 
bia. Số cho rằng không thể bỏ được chiếm 23,25%; số đã thử bỏ 1 lần nhưng không 
thành công chiếm 48%, trên 3 lần chiếm 6%. Lý do không bỏ được là do khó từ chối 
khi có người khác mời chiếm cao nhất (47%), do thói quen chiếm 29%, do giao 
tiếp/đối ngoại chiếm 17,3%, thấy khó chịu trong người nếu không uống chiếm 4,7%. 
Bảng 6: Thu nhập của gia đình và chi tiêu cho rượu, bia 
Ảnh hưởng của rượu bia Số lượng Tỷ lệ (%) 
Thu nhập bình 
quân của gia đình 
hàng tháng 
(n = 400) 
< 3triệu 46 11,5 
3 - <4 triệu 84 21 
4-5 triệu 90 22,5 
> 5 triệu 180 45 
Chi tiêu cho bia 
rượu/ tháng 
(n=386) 
< 100,000đ 148 38,3 
100,000 - <200,000đ 91 23,6 
200,000 - 300,000đ 76 19,7 
> 300,000đ 71 18,4 
 19 
 Thu nhập bình quân trong tháng của các gia đình ở mức trên 5 triệu đồng 
chiếm tỷ lệ cao nhất (45%). Mức dưới 3 triệu/tháng vẫn chiếm tới 11,5%. Trong 
đó chi tiêu cho việc mua rượu, bia hàng tháng ở mức dưới 100.000 đ/tháng 
chiếm 38,3%, từ 100.000- dưới 200.000 đ/tháng chiếm 23,6%, từ 200.000-
300.000đ/tháng chiếm 19,7%; Trên 300.000 đ/tháng chiếm 18,4%. 
4.2. Đánh giá về kiến thức và thái độ của các đối tượng điều tra về rượu bia 
Bảng 7: Tác hại chung của lạm dụng rượu, bia 
Tác hại của rượu bia Số lượng (n = 400) Tỷ lệ (%) 
Gây mất an ninh trật tự 229 57,3 
Ảnh hưởng hạnh phúc của gia đình 195 48,8 
Thiếu văn minh 158 39,5 
Gây tai nạn khi tham gia giao thông 400 100 
Ảnh hưởng đến sức khoẻ (gây bệnh tật) 400 100 
Ảnh hưởng đến kinh tế 139 34,8 
Ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội. 108 27 
Con cái hư hỏng 69 17,25 
Không ảnh hưởng gì 05 1,25 
 Trong số 400 đối tượng nghiên cứu thì 100% đều cho rằng việc lạm dụng 
rượu bia có thể sẽ gây tai nạn và ảnh hưởng đến sức khỏe (bệnh tật); gây mất 
trật tự an ninh là 57,3%; ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chiếm 48,8%. Ảnh 
hưởng đến kinh tế gia đình và cộng đồng xã hội được đánh giá ở mức độ thấp 
hơn (34,8% và 27%). 
Bảng 8: Tác hại của rượu, bia đến sức khoẻ 
Tác hại của rượu bia 
Số lượng 
(n = 400) Tỷ lệ (%) 
Bệnh Gan mật 320 80 
Bệnh tim mạch 280 70 
Bệnh tiêu hoá 227 56,8 
Bệnh thận/tiết niệu 111 27,8 
Bệnh ung thư 206 51,5% 
Nguy cơ tử vong 270 67,5 
Không tác hại gì 8 2 
 20 
Các đối tượng nghiên cứu đều nêu được các loại bệnh tật có thể mắc khi 
lam dụng rượu bia, lần lượt là: Bệnh gan mật chiếm 80%; bệnh tim mạch 70%; 
nguy cơ tử vong 67,5%; bệnh đường tiêu hóa 56,8%; ung thư 51,5%, bệnh thận 
tiết niệu 27,8%. Vẫn còn 2% cho rằng không tác hại gì. 
Bảng 9: Thái độ của đối tượng về sử dụng rượu, bia 
Thái độ Số lượng (n = 400) Tỷ lệ (%) 
Uống nhiều rượu bia không/ không chắc đã có hại 104 26,0 
Nên uống rượu bia trong các cuộc hội họp, tiệc tùng 204 51,0 
Uống cũng được/Không uống cũng không sao 107 26,8 
Không thích khi có người khuyên bỏ rượu 142 35,5 
Hơn một nửa đối tượng nghiên cứu cho rằng nên uống rượu bia trong các 
cuộc hội họp, tiệc tùng, lễ tết (51%). 26% cho rằng uống không có hại và 26,8% 
khẳng định uống cũng không sao. Đặc biệt có tới 35,5% đối tượng nghiên cứu 
không thích có người khuyên bỏ rượu. 
Bảng 10: Thái độ của những người thân và người trong gia đình 
về hành vi uống rượu bia của đối tượng 
Thái độ Số lượng (n = 386) Tỷ lệ (%) 
Tức giận 123 31,8 
Khuyên cai bỏ 188 48,7 
Không quan tâm 66 17,1 
Không biết phản ứng 9 2,4 
Có tới 48,7% người thân trong gia đình khuyên cai rượu/bia (điều mà đối 
tượng nghiện rượu không muốn), gần 32% có thái độ tức giận. 
Bảng 11: Mong muốn từ bỏ rượu bia của đối tượng 
Thái độ Số lượng (n = 386) Tỷ lệ (%) 
Muốn bỏ ngay 82 21,3 
Không muốn bỏ 105 27,2 
Sẽ bỏ nhưng chưa phải lúc này 86 22,2 
Lưỡng lự 61 15,8 
Không quan tâm 32 8,3 
Không biết, không trả lời 20 5,2 
 21 
Bảng trên cho thấy có 27,3% đối tượng đang sử dụng rượu bia không 
muốn bỏ; 22,2% cho rằng sẽ bỏ nhưng không phải lúc này; 21,3% muốn bỏ ngay; 
15,8% vẫn còn đang lưỡng lự. 
5. Bàn luận 
5.1. Thực trạng sử dụng rượu bia của người thường xuyên uống rượu bia ở 
thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số đối tượng tường sử dụng rượu, bia, 
tỷ lệ đối tượng hiện tại còn sử dụng rượu tương đối cao (96,5%). Tương đương 
với nghiên cứu của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao 
Bằng tỉnh Cao Bằng năm 2007 là 96%; 
Đặc biệt tỷ lệ cần lưu ý nhất vẫn là tỷ lệ lạm dụng rượu bia chung cho cả 
hai giới là 25%, trong đó ở nam là 29,1%, nữ là 6,8%. Tỷ lệ này là tương đối cao, 
cao hơn với kết quả nghiên cứu của Đàm Bảo Hoa, Bùi Đức Trình ở phường 
Quang Trung thành phố Thái Nguyên (16,43%)(2008), cao hơn gấp đôi với kết 
quả nghiên cứu của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao 
Bằng tỉnh Cao bằng (2007) là 14,6% nam giới lạm dụng rượu (chung cho cả 2 
giới là 12%). Gần tương đương với kết quả nghiên cứu Đàm Viết Cương, Vũ Thị 
Minh Hạnh và cộng sự (Viện Chiến lược chính sách y tế - Bộ Y tế) về đánh giá 
tình trạng lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam (2006): Lạm dụng rượu chiếm tỷ lệ 
cao nhất trong nhóm nông dân (28%), tiếp đến là nhóm những người làm trong 
các doanh nghiệp (26%), lao động tự do (21%); tỷ lệ lạm dụng rượu trong cán bộ 
nhà nước cũng chiếm 17 %. 
Lý do mà đối tượng uống rượu bia nhiều nhất là thói quen khi gặp bạn 
bè/người thân/khách chiếm 82%. Kết quả nghiên cứu này là phù hợp, nhưng thấp 
hơn so với kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược – Chính sách Bộ Y tế về tình 
hình lạm dụng rượu ở Việt Nam (86%) và thấp hơn kết quả nghiên cứu của nhóm 
tác giả Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng tỉnh Cao 
bằng" (2007) là 92%. 
Số đối tượng uống nhiều rượu bia vào dịp lễ tết chiếm 37%. Bên cạnh đó 
vẫn còn 4,4% đối tượng uống rượu bia vào thời điểm làm việc. Đáng chú ý vẫn còn 
một tỷ lệ đáng kể uống cả ngày 26%, kết quả này phù hợp với kết quả về tần suất 
uống rượu của đối tượng. Nhưng tỷ lệ này khác với kết quả nghiên cứu của Viện 
Chiến lược – Chính sách Bộ y tế về tình hình lạm dụng rượu ở Việt Nam. Khác với 
kết quả của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng tỉnh 
Cao bằng(2007). 
 22 
Thời gian sử dụng rượu bia của các đối tượng trong 5- 10 năm chiếm cao 
nhất 29,25%; tiếp đến là dưới 5 năm là 26,25%; 11- 20 năm là 25,25%, trên 20 
năm là 19,0%. Kết quả này là phù hợp, vì tuổi trung bình của đối tượng điều tra 
khá cao (43,6 tuổi), hơn nữa hành vi sử dụng nhiều rượu tại những vùng miền núi 
và vùng cao như thị trấn Chợ Rã đã hiện hữu từ lâu, đi vào thói quen tập quán của 
địa phương. Tỷ lệ này tương đương với kết quả của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường 
(Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng tỉnh Cao Bằng" (tỷ lệ đối tượng có thời gian sử 
dụng rượu trên 10 năm (44%); từ 5-10 năm (36%). 
Số lượng rượu bia sử dụng hiện tại: Tỷ lệ đối tượng ngày uống ≥ 2 lần 
chiếm cao nhất là 44,8%; Tỷ lệ đối tượng sử dụng nhiều rượu 4-6 chén/lần chiếm 
cao 22,8%, >10 chén/lần chiếm 14,5%. Về sử dụng bia: Tỷ lệ 2-3 cốc/lần chiếm 
23,6%; >5 cốc/lần chiếm 6,9%. Như vậy mức uống rượu bia của đối tượng quy ra 
đơn vị chuẩn về rượu bia đã lý giải về tỷ lệ lạm dụng rượu bia ở các đối tượng 
này luôn cao hơn các nghiên cứu khác. Chính nhóm đối tượng này cũng là nhóm 
đã lạm dụng rượu hoặc nguy cơ cao dẫn đến lạm dụng rượu. 
Số đối tượng hiện tại vẫn còn uống rượu bia cho rằng có thể bỏ được 
rượu bia là 60%; Tỷ lệ đối tượng không bỏ được khá cao (23,25%), đây chính là 
nhóm đối tượng đã lạm dụng rượu hoặc có nguy cơ cao dẫn đến lạm dụng rượu 
bia. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường 
(Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng tỉnh Cao Bằng (28%). 
Mức thu nhập của toàn gia đình các đối tượng nghiên cứu tập trung vào 
mức >5 triệu đồng/tháng chiếm 45%. Trong đó, chi tiêu cho việc mua rượu bia 
hàng tháng ở mức <100.000 đồng/tháng chiếm 38,3%, từ 100.000-<200.000 
đồng/tháng chiếm 23,6%, 200.000-300.000đồng/tháng chiếm 19,7%; trên 300.000 
đồng/tháng chiếm 18,4%. Từ kết quả này cho thấy tiền mua rượu bia có thể đã 
chiếm tới 3-10% thu nhập hàng tháng của đối tượng, điều này ảnh hưởng trực tiếp 
tới tích lũy tiền bạc, phát triển kinh tế hộ gia đình, chưa kể tới những tác hại hiện 
hữu khi sử dụng nhiều rượu. 
5.2. Thực trạng kiến thức, thái độ về sử dụng rượu bia ở đối tượng nghiên cứu. 
5.2.1. Thực trạng về kiến thức 
100% đối tượng nghiên cứu biết lạm dụng rượu bia (khi say rượu) có thể 
sẽ gây tai nạn khi tham gia giao thông và ảnh hưởng đến sức khỏe (bệnh tật); gây 
mất trật tự an ninh là 57,3%. hư vậy hiểu biết về tác hại chung của việc lạm dụng 
rượu bia của các đối tượng tương đối tốt. Kết quả này cao hơn so với kết quả 
 23 
nghiên cứu của Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng 
tỉnh Cao Bằng. 
 Các loại bệnh được nhắc đến là: Bệnh gan mật chiếm 80%; bệnh tim mạch 
70%; nguy cơ tử vong 67,5%; bệnh đường tiêu hóa 56,8%; ung thư 51,5%, thận 
tiết niệu 27,8%. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Mã Thị Nông, Hà 
Thu Hường (Dự án Adra) tại thị xã Cao Bằng tỉnh Cao bằng và cũng cao hơn kết 
quả của Nguyễn Viết Thêm và cộng sự về "Tình trạng nghiện rượu ở một số 
phường của Hà Nội" (2008). Như vậy chúng ta thấy kiến thức của các đối tượng 
điều tra về tác hại sức khoẻ do lạm dụng rượu tương đối tốt. 
5.2.2. Thực trạng về thái độ 
Thái độ của đối tượng về hành vi lạm dụng rượu bia: 51% cho rằng nên 
uống rượu bia trong các cuộc hội họp, tiệc tùng, lễ tết. 
Có đến 26% cho rằng uống nhiều rượu bia không/không chắc đã có hại 
cho sức khỏe, những đối tượng này có thể là đối tượng đang lạm dụng rượu 
hoặc có nguy cơ lạm dụng rượu. Đặc biệt có tới 35,5 % không thích có người 
khuyên bỏ rượu, từ thái độ này cho thấy tỷ lệ lạm dụng rượu bia vẫn còn ở 
mức cao. Trong khi kiến thức hiểu biết về tác hại chung của hành vi lạm dụng 
rượu bia là rất tốt nhưng thái độ về việc từ bỏ hoặc hạn chế sử dụng rượu bia 
thì lại chưa tốt, chưa tích cực. Như vậy, việc thực hành từ bỏ thói quen có hại 
này sẽ là rất khó khăn. Kết quả này cũng tương đương với các kết quả nghiên 
cứu của của "Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” 
(SAVY) năm 2003, hay nghiên cứu của Nguyễn Viết Thêm và cộng sự về 
"Tình trạng nghiện rượu ở một số phường của Hà Nội" (2008), nghiên cứu của 
Đàm Bảo Hoa và cộng sự về Dịch tễ học lâm sàng lạm dụng rượu, nghiện rượu 
ở cộng đồng một số khu vực miền núi phía bắc (2007). 
 Có tới 31,8% những người thân của đối tượng tức giận khi họ uống rượu 
và 48,7% khuyên cai bỏ. Như vậy, hành vi lạm dụng rượu bia của đối tượng đã 
tác động đến mối quan hệ của họ với người thân trong gia đình. Tuy nhiên, vẫn 
còn 17,1% số người thân của đối tượng không quan tâm tới hành vi lạm dụng 
rượu bia của đối tượng, những người này có thể cũng là người đang sử dụng 
nhiều rượu bia như đối tượng, hoặc họ đã quá quen với hành vi này tại địa 
phương. 
 Chỉ có 21,3% là muốn bỏ ngay, tỷ lệ này là rất thấp nếu so với tỷ lệ lạm 
dụng hiện có, thấp hơn kết quả nghiên cứu của tại Cao Bằng (58%). Vẫn có 
27,3% cho rằng không muốn bỏ; 22,2% cho rằng sẽ bỏ nhưng không phải lúc 
 24 
này; 15,8% lưỡng lự. Như vậy, ở những đối tượng này việc thay đổi hành vi từ 
lạm dụng rượu bia sang từ bỏ hoặc hạn chế uống dưới mức lạm dụng cần có một 
thời gian lâu dài, cần có tác động bằng việc truyền thông nâng cao nhận thức. 
6. Kiến nghị 
 Thực hiện tốt các quan điểm, mục tiêu của quyết định số 244/QĐ-TTg, 
Ngày 12 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách quốc gia 
phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020, bao gồm 
rượu, bia và đồ uống có cồn khác, cũng như các kế hoạch thực hiện vấn đề này 
tại địa phương. 
Tăng cường các hoạt động truyền thông phòng chống lạm dụng rươụ bia 
tại cộng đồng bằng cả các hình thức trực tiếp và trên các phương tiện thông tin 
đại chúng. Nhấn mạnh mức độ lạm dụng, tác hại của việc lạm dụng rượu bia. 
Phát triển các loại tài liệu truyền thông về lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả công 
tác tuyên truyền. Hoạt động tuyên truyền cần nhấn mạnh việc nâng cao kiến thức 
nhưng phải lấy mục tiêu thay đổi được thái độ của những người đang lạm dụng 
rượu bia theo hướng tích cực, tiến tới việc thực hành từ bỏ hoặc hạn chế sử dụng 
rượu bia. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đàm Viết Cương, Vũ Thị Minh Hạnh và cộng sự (Viện chiến lược - chính 
sách y tế – Bộ y tế), Đánh giá tình trạng lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam, 
(2006). 
2. Nguyễn Chí Công, Phạm Thị Hồng, Bùi Quang Huy, Đặc điểm công tác điều 
dưỡng đối với bệnh nhân loạn thần do rượu. Bệnh viện Tâm thần TW II, Hà 
Nội, 2009. 
3. Đàm Bảo Hoa, Bùi Đức Trình và Cộng sự, Dịch tễ học lâm sàng lạm dụng 
rượu, nghiện rượu ở cộng đồng một số khu vực miền núi phía Bắc. Tạp chí y 
học thực hành số 461/2003, Hà Nội, 2007. 
4. Nguyễn Xuân Ninh, Sử dụng và lạm dụng rượu bia ở vị thành niên và thanh 
niên Việt Nam. Báo cáo toàn văn hội nghị khoa học toàn quốc Hội y tế công 
cộng Việt Nam. Hà Nội 12/2006. 
5. Mã Thị Nông, Hà Thu Hường (Dự án Adra), Thực trạng sử dụng rượu bia của 
người trưởng thành tại thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao bằng, (2007) 
6. SAVY, Điều tra quốc gia về vị thành niên, Hà nội, 2003. 
 25 
7. Nguyễn Viết Thêm và cộng sự, Tình trạng nghiện rượu ở một số phường của 
Hà Nội, Hà nội 2008. 
8. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 
2014 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại 
của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020, bao gồm rượu, bia và đồ uống 
có cồn khác. Hà nội, 2014. 
9. Trường Đại học Y Hà Nội“Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y học và 
sức khỏe cộng đồng” Hà Nội 2004. 
10. Nguyễn Thị Xuyên (Bộ Y tế), Tình hình lạm dụng bia rượu trên thế giới và 
các chính sách phòng ngừa, (2009). 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_su_dung_va_kien_thuc_thai_do_cua_nguoi_uong_ruou.pdf