Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia-Bệnh viện Bạ

Tóm tắt: Rối loạn trầm cảm là một trong các bệnh lý gây ra gánh nặng bệnh tật cho bệnh nhân.

Việc sử dụng thuốc trong điều trị trầm cảm vẫn chưa có hướng dẫn điều trị chuẩn tại Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tập trên 65 bệnh nhân trầm cảm tại Viên Sức khỏe

Tâm thần Quốc gia – Bệnh viện Bạch Mai nhằm đánh đưa ra thực trạng sử dụng thuốc, biến cố bất

lợi và hiệu quả điều trị. Kết quả: cho thấy sertralin là thuốc được sử dụng nhiều nhất (39.5%), tiếp

đến là mirtazapin (38,3%). Biến cố bất lợi trên triệu chứng hay gặp nhất là trên cholinergic. Có 12

bệnh nhân (18,5%) được ghi nhận gặp biến cố bất lợi trên cân nặng. Tỉ lệ thuyên giảm điểm theo

thang HAM-D 17 sau quá trình điều trị là 66,2±13,8%. Kết luận: Các thuốc chống trần cảm mới

được sử dụng nhiều và có hiệu quả trên các bệnh nhân trầm cảm ở Việt Nam. Bác sĩ lâm sàng cần

chú ý đến biến cố bất lợi của thuốc như tác dụng trên cholinergic và trên cân nặng.

pdf 6 trang phuongnguyen 10080
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia-Bệnh viện Bạ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia-Bệnh viện Bạ

Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia-Bệnh viện Bạ
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 
 114
 Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện 
Sức khỏe Tâm thần Quốc gia – Bệnh viện Bạch Mai 
Nguyễn Thành Hải1,*, Nguyễn Hương Ly1, Nguyễn Văn Tuấn2, 
Nguyễn Xuân Bách3 
1Đại học Dược Hà Nội, 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 
 2Viện Sức khỏe Tâm thần- Bệnh viện Bạch Mai, 78 Giải Phóng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
3Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 03 tháng 7 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 23 tháng 10 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 6 năm 2018 
Tóm tắt: Rối loạn trầm cảm là một trong các bệnh lý gây ra gánh nặng bệnh tật cho bệnh nhân. 
Việc sử dụng thuốc trong điều trị trầm cảm vẫn chưa có hướng dẫn điều trị chuẩn tại Việt Nam. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tập trên 65 bệnh nhân trầm cảm tại Viên Sức khỏe 
Tâm thần Quốc gia – Bệnh viện Bạch Mai nhằm đánh đưa ra thực trạng sử dụng thuốc, biến cố bất 
lợi và hiệu quả điều trị. Kết quả: cho thấy sertralin là thuốc được sử dụng nhiều nhất (39.5%), tiếp 
đến là mirtazapin (38,3%). Biến cố bất lợi trên triệu chứng hay gặp nhất là trên cholinergic. Có 12 
bệnh nhân (18,5%) được ghi nhận gặp biến cố bất lợi trên cân nặng. Tỉ lệ thuyên giảm điểm theo 
thang HAM-D 17 sau quá trình điều trị là 66,2±13,8%. Kết luận: Các thuốc chống trần cảm mới 
được sử dụng nhiều và có hiệu quả trên các bệnh nhân trầm cảm ở Việt Nam. Bác sĩ lâm sàng cần 
chú ý đến biến cố bất lợi của thuốc như tác dụng trên cholinergic và trên cân nặng. 
Từ khóa: Thuốc chống trầm cảm, trầm cảm, tác dụng phụ, sử dụng thuốc. 
1. Đặt vấn đề 
Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm 
thần phổ biến, ảnh hưởng tới người bệnh, gia 
đình và xã hội. Điều trị trầm cảm đòi hỏi tốn rất 
nhiều thời gian, kết hợp sử dụng các liệu pháp 
khác nhau. Trong đó liệu pháp hóa dược vẫn 
được coi là liệu pháp điều trị thường dùng nhất 
[1]. Trên thực tế lâm sàng, các thuốc chống 
trầm cảm với nhiều cơ chế cho hiệu quả cao 
_______ 
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-901986688. 
 Email: haithanh4780@yahoo.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4075 
trong điều trị nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ 
và tương tác thuốc có thể xảy ra trong quá trình 
sử dụng [2]. Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh 
viện Bạch Mai là cơ sở hàng đầu trong điều trị 
các bệnh lý rối loạn tâm thần, trong đó có bệnh 
lý trầm cảm. Nghiên cứu này được thực hiện 
nhằm đưa ra thực trạng về tình hình sử dụng 
thuốc trên bệnh nhân trầm cảm tại Viện Sức 
khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai. 
N.T. Hải và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 115
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh án của bệnh nhân đang được điều 
trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh 
viện Bạch Mai, từ 02– 07/2016. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
Tất cả các bệnh án của bệnh nhân được 
chẩn đoán rối loạn trầm cảm (Mã bệnh án F32 
và F33 theo ICD-10) có sử dụng ít nhất một 
thuốc chống trầm cảm. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Bệnh nhân chuyển khoa khác trong quá 
trình điều trị 
Bệnh nhân không tuân thủ điều trị 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc, không can 
thiệp, thu thập kết quả dựa trên phiếu khảo sát. 
2.3. Xử lý kết quả 
Phân tích các giá trị thu được bằng phần 
mềm thống kê y học SPSS 20.0. Giá trị khác 
nhau có ý nghĩa thống kê nếu p<0,05. 
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu (n = 65) 
Tiêu chí đánh giá Số 
bệnh 
nhân 
Tỉ lệ % 
Giới tính Nam 25 38,5 
Nữ 40 61,5 
Tuổi 42,0±16,5 
<16 1 1,6 
16-45 32 49,2 
45-65 24 36,9 
>65 8 12,3 
Các thể lâm sàng 
và mức độ 
Mã số 
Giai đoạn trầm 
cảm 
Vừa không có 
triệu chứng cơ thể 
F32.10 3 4,6 
Vừa có triệu 
chứng cơ thể 
F32.11 20 30,8 
Nặng không có 
loạn thần 
F32.2 6 9,2 
Nặng có loạn thần F32.3 5 7,7 
Tổng 34 52,3 
Rối loạn trầm cảm 
tái diễn 
Vừa không có 
triệu chứng cơ thể 
F33.10 3 4,6 
Vừa có triệu 
chứng cơ thể 
F33.11 19 29,2 
Nặng không có 
loạn thần 
F33.2 2 3,1 
Nặng có loạn thần F33.3 7 10,8 
Tổng 31 47,7 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Tỷ lệ bệnh nhân (BN) nữ/nam là 40/25 = 
1,6/1. Tuổi trung bình 42,0±16,5 tuổi, trong đó 
độ tuổi từ 16-45 chiếm tỉ lệ cao nhất (49,2%). 
Mẫu nghiên cứu có 34 BN (chiếm 52,3%) ở 
giai đoạn trầm cảm và 31 BN (chiếm 47,7%) 
rối loạn trầm cảm tái diễn. Không có BN nào 
trong nhóm nghiên cứu mắc trầm cảm nhẹ. Số 
BN trầm cảm vừa có triệu chứng cơ thể chiếm 
tỉ lệ cao nhất, ở giai đoạn trầm cảm là 30,8% và 
trầm cảm tái diễn là 29,2%. Tỉ lệ BN mắc trầm 
cảm nặng chiếm 16,9% (trong đó nặng không 
loạn thần là 9,2%, nặng có loạn thần là 7,7%). 
Với trầm cảm tái diễn, số BN mắc trầm cảm 
nặng là 13,9% (trong đó nặng không loạn thần 
là 3,1% và nặng có loạn thần là 10,8%). 
3.2. Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc chống 
trầm cảm 
Các nhóm thuốc chống trầm cảm được sử 
dụng trong điều trị rối loạn trầm cảm 
Trong các thuốc được sử dụng trên BN 
nghiên cứu, nhóm SSRI được sử dụng nhiều 
nhất, điển hình là sertralin chiếm tỉ lệ 39,5%. 
Thuốc hay được sử dụng tiếp theo là 
mirtazapin, chiếm 38,3%. Nhóm TCA được sử 
dụng ít nhất 18,5%. 
N.T. Hải và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 
116
Bảng 2. Các thuốc chống trầm cảm sử dụng trong điều trị 
Nhóm Tên thuốc Hàm lượng Số lượt dùng Tỉ lệ % 
TCA Amitriptylin 25mg 15 18,5 
SSRI 
Sertralin 50mg 32 39,5 
Paroxetin 20mg 1 1,2 
Fluvoxamin 100mg 2 2,5 
Đối kháng α2-
adrenergic 
Mirtazapin 30mg 31 38,3 
Tổng 81 100 
TCA: Thuốc chống trầm cảm ba vòng; SSRI: Nhóm thuốc ức chế thu hồi serotonin 
Các thuốc hỗ trợ điều trị triệu chứng tâm 
thần trên bệnh nhân trầm cảm. 
Tỉ lệ BN sử dụng kết hợp thêm thuốc an 
thần diazepam chiếm cao nhất (67,7%). Trong 
nhóm thuốc an thần kinh, olanzapin được sử 
dụng kết hợp nhiều nhất (44,6%), tiếp đến là 
sulpirid (18,5%), haloperidol (15,4%). Chỉ có 3 
BN sử dụng kết hợp thuốc chỉnh khí sắc (4,6%). 
Bảng 3. Các thuốc hỗ trợ điều trị triệu chứng tâm 
thần trên bệnh nhân trầm cảm 
Nhóm thuốc Hoạt chất Số 
BN 
Tỉ lệ 
% 
An thần kinh 
(ATK) 
Olanzapin 29 44,6 
Risperidon 5 7,7 
Quetiapin 6 9,2 
Haloperidol 10 15,4 
Sulpirid 12 18,5 
An thần Diazepam 44 67,7 
Chỉnh khí sắc Acid valproic 3 4,6 
Phác đồ điều trị trầm cảm sử dụng trên 
bệnh nhân rối loạn trầm cảm 
Phác đồ được lựa chọn nhiều nhất là thuốc 
chống trầm cảm và an thần kinh (CTC + ATK), 
với tỉ lệ sử dụng tại thời điểm ban đầu chiếm và 
sau quá trình thay đổi thuốc là 66,1% và 67,7%. 
Bảng 4. Phác đồ điều trị được sử dụng trên bệnh 
nhân trầm cảm 
Phác đồ 
Số bệnh nhân (Tỉ lệ %) 
Ban đầu Thay thế 
CTC 20 (30,8) 13 (20,0%) 
CTC + ATK 43 (66,1) 44 (67,7%) 
CTC + CTC 2 (3,1) 5 (7,7%) 
CTC + CTC + ATK 0 (0) 3 (4,6%) 
Tổng 65 (100%) 65 (100%) 
Các liệu pháp điều trị phối hợp trên bệnh 
nhân rối loạn trầm cảm. 
Trong 65 bệnh nhân nghiên cứu, liệu pháp 
tâm lý được sử dụng trên 42 bệnh nhân (chiếm 
64,62%), có 13 bệnh nhân sử dụng TMS (chiếm 
21,54%) và 9 bệnh nhân sử dụng phối hợp cả 
liệu pháp tâm lý và TMS (chiếm 13,85%). 
Bảng 5. Các liệu pháp điều trị được sử dụng phối 
hợp liệu pháp hóa dược 
Các liệu pháp điều trị 
được sử dụng 
Số bệnh 
nhân 
Tỉ lệ 
(%) 
Liệu pháp tâm lý 42 64,61 
Liệu pháp kích thích từ 
xuyên sọ (TMS) 
14 21,54 
Liệu pháp tâm lý + TMS 9 13,85 
Tổng 65 100 
3.3. Các biến cố bất lợi (ADE) ghi nhận trong 
quá trình sử dụng thuốc 
Ghi nhận ADE trên triệu chứng của nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu. 
7.7%
18.5%
24.6%
4.6%
7.7%
15.4%
1.6%
12.3%
13.9%
4.6%
1.6%
9.2%
3.1%
Hạ HA tư thế
Khô miệng
Nhìn mờ
Giảm tình dục
Buồn nôn
Mẩn đỏ
Tăng nguy cơ 
Hình 1. Tỉ lệ ADE trên triệu chứng của nhóm bệnh 
nhân nghiên cứu. 
Biến cố hay gặp nhất trên toàn bộ nhóm BN 
nghiên cứu là trên cholinergic: khô miệng 
(24,6%), táo bón (18,5%). Tiếp đến hay gặp các 
biến cố trên thần kinh: đau đầu (15,4%), bồn 
N.T. Hải và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 117
chồn (12,3%). Có 1 BN (1,6%) bị mẩn đỏ và 1 
BN (1,6%) gặp biến cố bất lợi gây suy giảm 
chức năng tình dục. Các biến cố chủ yếu ở mức 
độ nhẹ, không có biến cố nào ở mức độ nặng. 
Ghi nhận sự thay đổi cân nặng trên nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu. 
Hình 2. Tỉ lệ thay đổi cân nặng của BN. 
Chín bệnh nhân theo dõi có trọng lượng cơ 
thể tăng vừa (chiếm 13,8%) và 3 BN có trọng 
lượng cơ thể tăng nhiều (chiếm 4,6%). Tổng 
cộng có 12 BN có mức tăng trọng lượng cơ thể 
>7% (chiếm 18,46%). 
3.4. Hiệu quả điều trị thông qua mức độ thuyên 
giảm điểm HAM-D17 
Tổng điểm HAM-D 17 trên bệnh nhân 
nghiên cứu tại các thời điểm đánh giá 
Mức thuyên giảm điểm của cả đợt điều trị là 
11,5 ± 3,9. Mức điểm HAM-D 17 có sự khác 
nhau giữa các thời điểm đánh giá với p0/1, 
p1/2, p2/3 đều < 0,01. Điều đó cho thấy, toàn 
bộ các triệu chứng của rối loạn trầm cảm có sự 
cải thiện rõ rệt ngay sau 1 tuần điều trị, sau 2 
tuần và trước khi ra viện (Bảng 6). 
Bảng 6. Tổng điểm HAM-D 17 trên bệnh nhân nghiên cứu theo các tuần điều trị 
T0 
(n =65) 
T1 
(n =65) 
T2 
(n =62) 
T3 
(n =58) 
P 
Điểm HAM-D 17 
( x ± SD) 
17,3±4,2 12,4±3,6 8,7±2,9 5,8±2,5 p0/1 = 0,0001 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 Điểm thuyên 
giảm( x ± SD) 
 4,9±2,3 3,8±2,2 2,9±1,3 
Tỉ lệ thuyên giảm các triệu chứng qua mức 
độ thuyên giảm điểm HAM-D 17. 
Tỉ lệ thuyên giảm các triệu chứng lâm sàng 
chung và các nhóm triệu chứng chính có sự 
khác nhau giữa các thời điểm đánh giá với p1/2, 
p2/3 < 0,01. Điều này cho thấy các triệu chứng 
lâm sàng đều được cải thiện qua các thời điểm 
đánh giá. 
Bảng 7. Tỉ lệ thuyên giảm các triệu chứng lâm sàng theo thang HAM-D 17 
Nhóm triệu chứng Tỉ lệ thuyên giảm (%)( x ± SD) 
Sau 1 tuần (n = 65) Sau 2 tuần (n = 62) Trước ra viện (n = 58) p 
Triệu chứng 
chung 
28,2±11,6 49,6±14,6 66,2±13,8 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
Khí sắc 31,7±20,9 52,3±20,7 69,0±19,6 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
Giấc ngủ 40,4±27,1 76,7±31,9 83,1±18,5 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
Vận động 26,5±15,3 42,9±30,2 65,1±23,3 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
Lo âu 19,3±17,0 31,3±25,6 46,0±27,4 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
Rối loạn cơ thể và 
nhận thức 
24,1±17,4 44,9±20,3 61,8±19,3 
p1/2 = 0,0001 
p2/3 = 0,0001 
N.T. Hải và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 
118
Bàn luận 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ 
lệ các thuốc SSRI (sertralin, paroxetin) được sử 
dụng nhiều nhất, tiếp đến là mirtazapin, thấp 
nhất là chống trầm cảm ba vòng. Theo hướng 
dẫn điều trị của hội tâm thần Hoa Kỳ [[1]], với 
hầu hết bệnh nhân (BN), lựa chọn tối ưu ban 
đầu là SSRI, mirtazapin hoặc bupropion. Như 
vậy việc lựa chọn sử dụng thuốc chống trầm 
cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần là phù hợp với 
xu thế chung trên thế giới. 
Phác đồ được sử dụng nhiều nhất là kết hợp 
chống trầm cảm và an thần kinh (CTC + ATK) 
(chiếm 66,1%). Liệu pháp kết hợp chống trầm 
cảm và an thần kinh cũng là liệu pháp hay được 
sử dụng trên lâm sàng hiện nay, vừa tăng hiệu 
quả điều trị trên bệnh nhân, vừa hạn chế tác 
dụng phụ do sử dụng thuốc chống trầm cảm 
liều cao và một số thuốc chống loạn thần như 
Risperidon, Quetiapin, Olanzapin đã được 
chứng minh có hiệu quả trong điều trị trầm cảm 
[3]. Tỉ lệ BN sử dụng kết hợp thêm thuốc an 
thần diazepam chiếm 67,7% do đa số BN khi 
nhập viện có triệu chứng bồn chồn, mất ngủ dai 
dẳng, mệt mỏi. Các biến cố bất lợi ghi nhận 
được chủ yếu trên hệ cholinergic, tuy nhiên chưa 
thể kết luận được chính xác thuốc gây ra các 
biến cố bất lợi trên. Có 12 BN có mức tăng cân 
>7% (chiếm 18,5%). Như vậy việc tăng trọng 
lượng cơ thể có thể coi là một biến cố bất lợi có 
thể gặp trên BN. Điều này đặc biệt lưu ý với 
BN thừa cân do có thể dẫn đến các bệnh lý liên 
quan khác do béo phì như tiểu đường, tim 
mạch, tăng huyết áp [4]. 
Về hiệu quả điều trị: tỉ lệ thuyên giảm theo 
thang HAM-D 17 trên nhóm BN nghiên cứu 
sau điều trị là 66,2±13,8%. Mức điểm HAM-D 
17 có sự khác nhau giữa các thời điểm đánh giá 
với p0/1, p1/2, p2/3 đều < 0,01. Tỉ lệ thuyên 
giảm các nhóm triệu chứng chính cũng có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p1/2, p2/3 < 
0,01. Như vậy trên toàn bộ BN, tỉ lệ thuyên 
giảm bệnh thể hiện ngay sau tuần đầu tiên điều 
trị và tăng dần ở các tuần tiếp theo trong quá 
trình điều trị. Điều này phản ánh hiệu quả và 
mức độ đáp ứng thực tế trong điều trị trên 
lâm sàng. 
Kết luận 
Sertralin là thuốc chống trầm cảm được sử 
dụng nhiều nhất (39,5%), tiếp đến là mirtazapin 
(38,3%). Phác đồ được sử dụng nhiều nhất là 
kết hợp thuốc chống trầm cảm và an thần kinh 
(66,1%). Biến cố bất lợi trên triệu chứng hay 
gặp nhất là trên cholinergic. Có 12 bệnh nhân 
(18,5%) được ghi nhận gặp biến cố bất lợi trên 
cân nặng. Điểm HAM-D 17 có sự thuyên giảm 
có ý nghĩa thống kê tại các thời điểm đánh giá. 
Tỉ lệ thuyên giảm điểm theo thang HAM-D 17 
sau quá trình điều trị là 66,2±13,8%. 
Tài liệu tham khảo 
[1] American Psychiatric Association, Practice 
guiline for the treatment of patients with major 
depressive disorder, Third Edition (2010). 
[2] Duval, Lebowitz, Macher, “Treatments in 
Depression”, Dialogues in Clinical Neuroscience, 
8 (2006) 191. 
[3] Raj Rasasingham, “Efficacy and Safety of 
Antipsychotics for the Treatment of Major 
Depressive Disorder in Adolescents and Adults: 
Current Issues and Clinical Perspective”, Open 
Journal of Psychiatry, 4 (2014) 182. 
[4] Kessler RC, McGonagle KA, Swartz M, Blazer 
DG, Nelson CB. “Sex and depression in the 
National Comorbidity Survey I: Lifetime 
prevalence, chronicity and recurrence”, Journal of 
Affectice Disorders, 29 (1993) 85. 
N.T. Hải và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 114-119 119
The Use of Antidepressants in Depressed Patients in the 
National Institute of Mental Health - Bach Mai Hospital 
Nguyen Thanh Hai1, Nguyen Huong Ly1, Nguyen Van Tuan2, Nguyen Xuan Bach3 
1Hanoi University of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 
 2National Institute of Mental Health, Bach Mai Hospital, 78 Giai Phong, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
3
VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Abstract: According to the WHO (World Health Organization), unipolar depressive disorders 
were ranked as the third leading cause of the Global Burden of Disease in 2004 and are expected to 
move into the first place by 2030. Methods: Research conducted on 65 patients at the National 
Institute of Mental Health to examine the use of drugs, their side effects, drug interactions and 
effectiveness of treatment in these patients. Results: The study results showed that Sertraline was the 
most widely used antidepressant (39.5%), followed by Mirtazapine (38.3%). Adverse events in the 
most common symptoms were resulted from cholinergics. There were 12 patients (18.5%) recorded 
experiencing adverse events on weight. The rate of remission HAM-D 17 scale scores after treatment 
was 66.2 ± 13.8%. Conclusions: New antidepressants were commonly used and had effects among 
the unipolar depressive patients in Vietnam. Clinicians should pay attention to such side effects as 
cholinergic adverse events and weight gain among patients. 
Keywords: Antidepressant, depression, side effects, drug use. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_su_dung_thuoc_tren_benh_nhan_tram_cam_tai_vien_su.pdf