Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An

Mục tiêu: Xác định thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích với cỡ mẫu là 120 bao gồm các bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại khoa Ngoại vú- Phụ khoa, Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An. Kết quả: Hầu hết các bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú đều phàn nàn về rối loạn giấc ngủ, trong đó có 5,8% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ nhẹ, 51,7% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ trung bình, 42,5% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ nặng. Kết luận: Rối loạn giấc ngủ xảy ra ở tất cả các bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú. Người điều dưỡng cần quan tâm đến giấc ngủ và giúp bệnh nhân cải thiện giấc ngủ sau phẫu thuật để nâng cáo chất lượng chăm sóc và điều trị

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An

Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3. Karimi A., Adel-Mehraban M. and 
Moeini M. (2018), “Occupational Stressors 
in Nurses and Nursing Adverse Events”, 
Iranian Journal of Nursing and Midwifery 
Research. 23(3), 230-234.
4. Trần Thị Ngọc Mai (2014), “Thực trạng 
stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm 
sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa 
học tại Trường Đại học Thăng Long và Đại 
học Thành Tây”, Tạp chí Y học thực hành 
số 4, 110-115.
5. Trần Văn Thơ (2017), Thực trạng 
stress và một số yếu tố liên quan gây stress 
ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi TW 
năm 2017, Luận văn thạc sỹ Quản lý bệnh 
viện, Trường Đại học Y tế công cộng Hà 
Nội.
6. Mai Hòa Nhung (2014 ), Tình trạng 
stress và một số yếu tố liên quan ở điều 
dưỡng viên lâm sàng tại Bệnh viện Giao 
thông vận tải Trung ương năm 2014, Luận 
văn thạc sỹ y tế công cộng, Trường đại học 
Y tế công cộng, Hà Nội.
7. Trần Thị Thúy (2011), Đánh giá trạng 
thái stress của cán bộ y tế khối lâm sàng 
Bệnh viện Ung bướu Hà Nội năm 2011, 
Luận văn thạc sĩ quản lý bệnh viện, Đại học 
Y tế Công cộng, Hà Nội.
8. Đặng Kim Oanh (2017), Thực trạng 
stress nghề nghiệp ở nhân viên điều dưỡng 
tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Khóa luận 
tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học 
Y Hà Nội, Hà Nội.
9. Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu 
Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương 
(2013), “Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên 
quan ở cán bộ Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng”, 
Tạp chí Y tế công cộng. 29 (29), 12-16.
THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIẤC NGỦ Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT
 UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN 
Phan Thị An Dung1, Nguyễn Thị Cẩm Mai1, 
Đinh Thị Hằng Nga1, Lê Thị Thanh Tâm1
1Trường Đại học Y Khoa Vinh
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định thực trạng rối loạn 
giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô 
tả cắt ngang có phân tích với cỡ mẫu là 120 
bao gồm các bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú tại khoa Ngoại vú- Phụ khoa, Bệnh 
viện Ung Bướu Nghệ An. Kết quả: Hầu hết 
các bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú 
đều phàn nàn về rối loạn giấc ngủ, trong đó 
có 5,8% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ nhẹ, 
51,7% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ trung 
bình, 42,5% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ 
nặng. Kết luận: Rối loạn giấc ngủ xảy ra ở 
tất cả các bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú. Người điều dưỡng cần quan tâm 
đến giấc ngủ và giúp bệnh nhân cải thiện 
giấc ngủ sau phẫu thuật để nâng cáo chất 
lượng chăm sóc và điều trị.
Từ khóa: Rối loạn giấc ngủ; Sau phẫu 
thuật ung thư vú; Bệnh nhân.
Người chịu trách nhiệm: Phan Thị An Dung
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
56
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
SLEEP DISTURBANCE AMONG PATIENTS UNDERGONE BREAST CANCER 
SURGERY IN NGHE AN ONCOLOGY HOSPITAL
ABSTRACT 
Objective: To investigate sleep 
disturbances among patients undergone 
breast cancer surgery. Method: A cross-
sectional descriptive method with an 
analysis with a sample size of 120 including 
the patients who had undergoing breast 
cancer surgery in the Department of Breast-
Gynecology at Nghe An oncology hospital. 
Results: There are 100% of patients had 
postoperative sleep disturbances: Mild 
sleep disturbances were 5.8%, Moderate 
sleep disturbances were 51.7% and 
severe sleep disturbances were 42.5%. 
Conclusion: Sleep disturbances have 
occurred commonly among patients who 
had breast cancer surgery. The nurse need 
to concern about the sleep disturbances 
and helping patients improve the quality of 
sleep in order to improve the quality of care 
and treatment.
Keywords: Sleep disturbances; 
Undergoing breast cancer surgery; Patient.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là một bệnh phổ biến nhất ở 
phụ nữ trên toàn thế giới [1]. Tại Việt Nam, 
theo số liệu thống kê năm 2018, có gần 
165.000 số ca mắc mới ung thư, trong đó 
ung thư vú là 15.000 người mắc chiếm tỷ 
lệ 9.2%. Cũng trong năm 2018, Việt Nam 
ghi nhận hơn 6.000 trường hợp tử vong vì 
căn bệnh này [2]. Hiện nay, điều trị bệnh 
ung thư vú có nhiều phương pháp và phẫu 
thuật là phương pháp hay được sử dụng 
[3]. Bệnh nhân sau phẫu thuật phải chịu 
đựng nhiều triệu chứng làm cho họ khó 
chịu. Những triệu chứng đó là đau, mệt 
mỏi, lo lắng, chóng mặt, buồn nôn, nôn, 
đau đầu, và quan trọng là rối loạn giấc 
ngủ. Do ảnh hưởng trực tiếp của giấc ngủ 
lên các chức năng của hệ tim mạch, hệ 
tiêu hóa và thần kinh cơ, người bệnh có 
rối loạn giấc ngủ có thể gặp phải các vấn 
đề tâm lý và sinh lý khác nhau [4]. Rối loạn 
giấc ngủ gây mất ngủ, hồi phục vết thương 
chậm, làm tăng cảm giác đau và gây khó 
khăn trong việc thực hiện các công việc 
hàng ngày [5]. Hơn nữa, giấc ngủ rối loạn 
quá mức và kéo dài có thể cản trở quá 
trình lành vết thương và dễ bị các biến 
chứng khác [6]. Khi không ngủ đủ khiến 
người bệnh mệt mỏi, chán ăn và táo bón. 
Thêm vào đó, giấc ngủ bị rối loạn có thể 
gây rối loạn cảm xúc, suy nghĩ, tăng lo âu 
và ảo giác [7]. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện 
nay vấn đề rối loạn giấc ngủ trên đối tượng 
người bệnh sau phẫu thuật ung thư vú 
chưa được quan tâm đúng mức và chưa 
có nhiều nghiên cứu sâu về vấn đề này. Vì 
thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài 
“Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân 
sau phẫu thuật ung thư vú tại Bệnh viện 
Ung Bướu Nghệ An”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC): 
Bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú tại 
khoa Ngoại vú- Phụ khoa Bệnh viện Ung 
Bướu Nghệ An. 
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
cắt ngang có phân tích
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên 
cứu: Từ ngày 01/12/ 2019 đến 04/05/2020 
tại khoa Ngoại vú- Phụ khoa Bệnh viên Ung 
Bướu Nghệ An. 
2.4. Cỡ mẫu: 120 bệnh nhân với phương 
pháp chọn mẫu thuận tiện. 
2.5. Tiêu chuẩn mẫu: Bệnh nhân sau 
phẫu thuật ung thư vú, đang điều trị nội trú 
57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
tại khoa Ngoại vú- Phụ khoa Bệnh viện Ung 
Bướu Nghệ An, có khả năng giao tiếp và 
đọc hiểu Tiếng Việt, đồng ý tham gia nghiên 
cứu. Bệnh nhân không có tiền sử mắc các 
bệnh tâm thần như trầm cảm, loạn thần, 
đang mắc các chứng bệnh mạn tính: Viêm 
khớp, đau nhức xương khớp, đau đầu kinh 
niên,...đang sử dụng thuốc hướng thần, 
chống loạn thần, chống động kinh, sử dụng 
thuốc ngủ trong thời gian dài trước khi phẫu 
thuật.
Trong nghiên cứu này, sử dụng bộ câu 
hỏi đánh giá mức độ rối loạn giấc ngủ 
Sleep Disturbance Questionnaire (SDQ) 
của Espie, Brooks, và Linsey năm 1989 [8]. 
Bộ câu hỏi được dịch ra tiếng việt và được 
kiểm tra độ tin cậy với hệ số là 0.84 [8]. 
Bộ câu hỏi gồm 12 câu, mỗi câu có 5 đáp 
án trả lời từ “không bao giờ đúng”, “Hiếm 
khi đúng”, “Đôi khi đúng”, “Thường đúng”, 
“Rất đúng” tương ứng lần lượt với 1,2,3,4, 
và 5 điểm. Vì vậy, tổng điểm thấp nhất của 
bộ câu hỏi là 12, cao nhất là 60. Mức độ 
rối loạn giấc ngủ được chia làm 3 nhóm: 
Rối loạn nhẹ (từ 12-27 điểm), rối loạn trung 
bình (28- 43 điểm), rối loạn nặng (44- 60 
điểm).
2.6. Phương pháp thu thập và xử lý số 
liệu: Các số liệu điều tra được thu thập và 
xử lý bằng chương trình phần mềm SPSS 
20.0.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng 
nghiên cứu: 
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 
120 đối tượng tham gia nghiên cứu thì 
có 65,8% trong độ tuổi từ 35-55 tuổi. Đối 
tượng nghiên cứu có nghề nghiệp là nông 
dân chiếm 47,2%. Đa số có tham gia bảo 
hiểm chiếm 90,8%. Có 50,8% đối tượng 
nghiên cứu có gia đình thuộc hộ nghèo/ cận 
nghèo và 36,7% có thu nhập từ 3000000- 
4000000 VNĐ/ tháng (Bảng 1).
Bảng 1. Thông tin chung của đối 
tượng nghiên cứu (n=120)
Đặc điểm SL TL %
Tuổi
18-35 12 10
35-55 79 65,8
Trên 55 29 24,2
Nghề 
nghiệp
Học sinh sinh viên 3 2,5
Cán bộ viên chức 16 13,3
Công nhân 5 4,2
Nông dân 5 47.2
Lao động tự do 23 19,2
Nghỉ hưu/ nội trợ 16 13,3
Bảo 
hiểm
Có bảo hiểm 109 90,8
Không có bảo hiểm 11 9,2
Kinh 
tế 
hộ gia 
đình
Hộ nghèo/ 
cận nghèo 61 50,8
Hộ không nghèo 59 49,2
Thu 
nhập 
bình 
quân 
mỗi 
tháng
<3000000 VNĐ/ 
Tháng 34 28,3
3000000-4000000 
VNĐ/ Tháng 44 36,7
4000000-5000000 
VNĐ/Tháng 16 13,3
≥5000000 VNĐ/ 
Tháng 26 21,7
Tổng 120 100
3.2. Thông tin bệnh và điều trị của đối 
tượng nghiên cứu: 
Phương pháp phẫu thuật cắt toàn bộ 
tuyến vú được sử dụng để điều trị cho đối 
tượng nghiên cứu chiếm 55,8%, nhiều hơn 
phương pháp phẫu thuật bảo tồn chiếm 
44,2%. Bệnh nhân đa số ở trong giai đoạn 
II của bệnh (66,7%) và không có bệnh nhân 
ở giai đoạn IV. Trong 120 đối tượng tham 
gia nghiên cứu thì có 76 bệnh nhân nằm 
trong phòng bệnh trên 8 bệnh nhân chiếm 
63,3% (Bảng 2).
58
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Thông tin bệnh và điều trị của đối tượng nghiên cứu (n=120)
Đặc điểm SL TL %
Loại phẫu thuật
Phẫu thuật bảo tồn 53 44,2
Cắt toàn bộ tuyến vú 67 55,8
Giai đoạn bệnh
Giai đoạn I 34 28,3
Giai đoạn II 80 66,7
Giai đoạn III 6 5
Giai đoạn IV 0 0
Số bệnh nhân trong phòng bệnh
8 bệnh nhân trở xuống 44 36,7
Từ 8 bệnh nhân trở lên 76 63,3
Tổng 120 100
3.3. Tình trạng đau sau phẫu thuật
Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% người 
bệnh sau phẫu thuật ung thư vú ngày thứ 4 
(Chúng tôi nghiên cứu mức độ đau ở ngày 
thứ 4 sau phẫu thuật bởi vì trên thực tế, 
bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú trong 
3 ngày đầu được kiểm soát đau bằng cách 
dùng1 sô thuốc như Morphine, Dolagan.., 
vì vậy triệu chứng đau thường kiểm soát 
tốt) có biểu hiện đau trong đó: Mức độ đau 
vừa là 40%; Đau nặng là 37,5% và mức độ 
đau nhẹ 22,5%( Bảng 3)
Bảng 3. Mức độ đau của người bệnh 
sau phẫu thuật ung thư vú (n=120)
Mức độ đau SL TL %
Đau nhẹ 27 22,5
Đau vừa 48 40,0
Đau nặng 45 37,5
Tổng 120 100
3.4. Tình trạng rối loạn giấc ngủ: 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 100% 
bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú đều 
có biểu hiện rối loạn giấc ngủ. Trong đó có 
5,8% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ nhẹ, 
51,7% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ trung 
bình, 42,5% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ 
nặng (Bảng 4)
Bảng 4. Mức độ rối loạn giấc ngủ 
(MĐRLGN) của người bệnh 
sau phẫu thuật ung thư vú 
theo thang SDQ (n =120)
MĐRLGN SL TL %
Rối loạn nhẹ 7 5,8
Rối loạn trung bình 62 51,7
Rối loạn nặng 51 42,5
Tổng 120 100
3.5. Mối liên quan giữa rối loạn giấc 
ngủ với số bệnh nhân ở trong phòng
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ĐTNC nằm 
ở phòng bệnh có 8 bệnh nhân trở xuống có 
MĐRLGN thấp hơn 0,395 lần so với ĐTNC 
nằm ở phòng bệnh có từ 8 bệnh nhân trở 
lên, có ý nghĩa thống kê với p< 0,005 (Bảng 
5).
59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 5. Mối liên quan giữa rối loạn giấc ngủ với số bệnh nhân 
ở trong phòng (n=120)
 MĐRLGN
Số bệnh nhân
Nhẹ
Trung bình Nặng
OR p
SL TL % SL TL %
8 bệnh nhân trở xuống 19 43,2 25 56,8 0,395
0,003Từ 8 bệnh nhân trở lên 50 65,8 26 34,2 1
Tổng 69 57,5 51 42,5
4. BÀN LUẬN
Độ tuổi của ĐTNC chủ yếu từ 35- 55 
tuổi chiếm 65,8%. Theo các nghiên cứu từ 
trước chỉ ra rằng ung thư vú thường gặp 
nhiều ở lứa tuổi 35-55 và có xu hướng ngày 
càng trẻ hóa [4]. Có 50,8% bệnh nhân có 
gia đình thuộc hộ nghèo/ cận nghèo kết 
quả này có thể do ĐTNC chủ yếu là nông 
dân chiếm 47,2% và thu nhập bình quân 
mỗi tháng chủ yếu nằm ở mức 3000000-
4000000 VNĐ/tháng, vẫn còn 28,3% có thu 
nhập bình quân dưới 3000000 VNĐ/tháng. 
Kết quả nghiên cứu của Dung (2016) cũng 
chỉ ra rằng, bệnh nhân thuộc nhóm nghề 
nghiệp là nông dân thường có thu nhập 
thấp [9]. 
Bệnh nhân đang ở giai đoạn II của bệnh 
(66,7%) và không có bệnh nhân ở giai đoạn 
IV. Kết quả này có thể do những bệnh nhân 
được chỉ định phẫu thuật đa số ở giai đoạn 
I, II và IIIA [3]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu 
cũng chỉ ra rằng, 100% người bệnh sau 
phẫu thuật ung thư vú ngày thứ 4 có biểu 
hiện đau: Mức độ đau vừa là 40%; Đau 
nặng là 37,5% và mức độ đau nhẹ 22,5%. 
Kết quả này có thể do vết mổ sau phẫu 
thuật ung thư vú tương đối lớn và vị trí vết 
mổ gây bất tiện cho bệnh nhân. Trên thực 
tế, một số bệnh nhân chưa được hướng 
dẫn kỹ những tư thế giảm đau hoặc cách 
vận động sao cho không tăng thêm cảm 
giác đau đớn [9]. Hơn nữa, khả năng kiểm 
soát đau không dùng thuốc của nhân viên y 
tế chưa được thực hiện tốt, thiếu quan tâm, 
động viên, hỏi han thường xuyên người 
bệnh sau phẫu thuật khiến bệnh nhân lo 
lắng, điều này dẫn đến hậu quả tăng cảm 
giác đau nhiều hơn [10]. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy, hầu như tất cả ĐTNC có biểu hiện rối 
loạn giấc ngủ, trong đó MĐRLGN trung bình 
chiếm chủ yếu với 51,7%; MĐRLGN nặng 
42,5%; MĐRLGN nhẹ 5,8%. Tuy nhiên, kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Morris và cộng sự (2015) trên 246 bệnh 
nhân ung thư có 65% bệnh nhân rối loạn 
giấc ngủ (p<0,05) [10]. Kết quả ngày cũng 
cao hơn nghiên cứu của Jonas và công sự 
(2011) có 75% người bệnh ung thư có rối 
loạn giấc ngủ [11]. Điều này có thể trong 
nghiên cứu của tôi ĐTNC là bệnh nhân sau 
phẫu thuật ung thư vú, bệnh nhân giới tính 
là nữ có độ tuổi từ 18 đến trên 55 tuổi cùng 
với loại hình phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn 
tuyến vú chiếm tỷ lệ cao (55,8%). Phẫu 
thuật cắt bỏ hoàn toàn tuyến vú đã làm ảnh 
hưởng đến thẩm mỹ khiến họ tự ti về ngoại 
hình của bản thân, từ đó họ càng suy nghĩ 
và lo lắng dẫn đến hậu quả là giảm chất 
lượng giấc ngủ. Họ có vai trò quan trọng 
trong cuộc sống gia đình với thiên chức là 
một người mẹ đã khiến họ lo lắng làm ảnh 
hưởng đến chất lượng của giấc ngủ. Kết 
60
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
quả nghiên cứu cho thấy, có 63,3% ĐTNC 
nằm điều trị ở phòng trên 8 bệnh nhân. Số 
lượng bệnh nhân cùng phòng quá đông 
nên tiếng ồn từ các bệnh nhân khác, từ 
người nhà bệnh nhân khác và tiếng ồn, 
đèn sáng,... từ nhân viên y tế khi chăm sóc, 
điều trị cho các bệnh nhân cùng phòng đã 
gây ảnh hưởng đến giấc ngủ của ĐTNC. Vì 
vậy, người điều dưỡng cần sắp xếp bệnh 
nhân sau phẫu thuật trong một phòng hợp 
lý. Bệnh nhân sau mổ những ngày đầu cần 
được sắp xếp vào phòng ít người, yên tĩnh 
[9]. Ngoài ra vẫn còn 50,8% ĐTNC là hộ 
nghèo/cận nghèo, viện phí, chi phí điều trị 
cũng như chi phí sinh hoạt trong thời gian 
dài nằm viện điều đó đã làm cho ĐTNC lo 
lắng dẫn đến tình trạng rối loạn giấc ngủ. 
Kết quả này phù hợp với kết quả của Mai Ba 
Hai (2015) cho thấy, rối loạn giấc ngủ trên 
bệnh nhân sau phẫu thuật là hậu quả của lo 
lắng [12]. Kết quả của chúng tôi cũng cao 
hơn kết quả trong nghiên cứu của Jin- Ping 
Wang và cộng sự trên 108 bệnh nhân phẫu 
thuật ung thư vú có 51% bệnh nhân được 
đánh giá giấc ngủ kém [13]. Điều này có 
thể là do ở nghiên cứu của chúng tôi chia 
ra 4 mức độ đánh giá rối loạn giấc ngủ đó 
là không rối loạn giấc ngủ, rối loạn giấc ngủ 
nhẹ, rối loạn giấc ngủ trung bình, rối loạn 
giấc ngủ nặng, còn ở nghiên cứu của Jin- 
Ping Wang và cộng sự thì chia ra 2 mức độ 
đánh giá đó là giấc ngủ tốt và giấc ngủ kém.
5. KẾT LUẬN
Tình trạng rối loạn giấc ngủ xảy ra ở 
tất cả các bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú. Trong đó có 5,8% bệnh nhân có rối 
loạn giấc ngủ nhẹ, 51,7% bệnh nhân có rối 
loạn giấc ngủ trung bình, 42,5% bệnh nhân 
có rối loạn giấc ngủ nặng. Nhân viên y tế 
nói chung, điều dưỡng nói riêng trong quá 
trình chăm sóc bệnh nhân cần xuyên trau 
dồi kiến thức, hiểu biết hơn về rối loạn giấc 
ngủ để chủ động phát hiện kịp thời, từ đó có 
hướng xử trí hợp lý nhất như sắp xếp bệnh 
nhân hợp lý ở các phòng bệnh, sử dụng 
các biện pháp kiểm soát đau không dùng 
thuốc, hướng dẫn các tư thế giảm đau cho 
bệnh nhân, tư vấn giáo dục sức khỏe,... Từ 
đó giúp bệnh nhân cải thiện giấc ngủ nhằm 
nâng cao chất lượng chăm sóc và điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Frelay J., Soerjomataram I., Dikshit 
R et al (2012). “Cancer incidence and 
mortality worldwide”. International Journal 
of Cancer,136: 359- 386.
2. Mai Xuân Khẩn (2020), Thực trạng 
và cập nhật ung thư tại Việt Nam, http://
www.benhvien103.vn/vietnamese/bai-
giang-chuyen-nganh/lao-va-benh-phoi/
thuc-trang-va-cap-nhat-ung-thu-tai-viet-
nam/1857/
3. Nguyễn Minh Tính (2019), “Hướng 
dẫn điều trị ung thư vú tại bệnh viện 175”, 
Hướng dẫn điều trị các bệnh ung thư thường 
gặp tại Bệnh viện Quân Y 175, Bệnh viện 
Quân Y 175, trg71-119.
4. Sendir M., Acaroglu R., Kaya H 
et al (2007), “Evaluation of quality of 
sleep and efecting factors in hospitalized 
neruosurgical patients”, Neruosciences, 
12(3): 226-231.
5. Costa S.V.D and Ceolim M.F (2013), 
“Factors that affect inpatiens’ quality of 
sleep”, Revista da Escola de Enfermagem 
da USP, 47(1): 46-52.
6. Gellerstedt L., Medin J., Karlsson 
M.R (2018). Patient‘ experiences of sleep in 
hospital: A qualitative interview study, Journal 
of research in nursing, 19(3): 176-188.
7. Bambauer K.Z., Locke S.E., Aupont O 
et al (2005), “Using the Hospital Anxiety and 
Depression Scale to screen for depression 
in cardiac patient”, General hospital 
psychiatry, 27(4): 275-284.
8. Espie C. A., Brooks D. N., Lindsey 
W. R. (1989). An evaluation of tailored 
psychological treatment of insomnia. Journal 
of Behavior Therapy and Experimental 
Psychiatry, 20(1): 143-153.
9. Dung, P. T. (2016). Factors related 
61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
to sleep disturbance among patients 
undergoing orthopeadic surgery in Vietnam 
(Unpublished thesis). Burapha University, 
Chonburi, Thailand.
10. Morris B. A., Thorndike F. P., 
Ritterband L. M et al (2015), “Sleep 
disturbance in cancer patients and 
caregivers who contact telephone-based 
help services”, Support Care Cancer, 23: 
1113-1120.
11. Jonas J., Horgas A., Yoon S.J (2011), 
“Use of Complementary and Alternative 
Therapies to Manage Cancer-Related 
Symptoms in Hopitalized Patients”, Journal 
of Undergradute Research, 12(3): 1-7.
12. Hai, M. B (2015), Factors predicting 
quality of sleep among patients afe receiving 
major orthopedic surgery in Hue university 
hospital, (Unpublished thesis). Burapha 
University, Chonburi, Thailand.
13. Jin-Ping-Wang, Su-Pen Lu, Ly-Na 
Guo, Chun-Guang Ren, Zong-Wang-Zhang 
(2019), “Abstract”, Poor Preoperative 
Sleep Quality Is a Risk Factor for Severe 
Postoperative Pain After Breast Cancer 
Surgery.
THỰC TRẠNG VẬN ĐỘNG CỦA NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT KẾT HỢP 
XƯƠNG CHI DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Thùy1b, Phạm Thị Thu Hương2, 
Vũ Mạnh Độ1, Đỗ Thu Tình1b, Nguyễn Thị Dung1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
2Trường Đại học Phenikaa
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng vận động 
của người bệnh và xác định một số yếu tố 
liên quan đến vận động của người bệnh 
sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới tại 
khoa Chấn thương chỉnh hình – Bỏng, Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối 
tượng nghiên cứu gồm 149 người bệnh 
trên 18 tuổi sau phẫu thuật kết hợp xương 
chi dưới tại khoa Chấn thương chỉnh hình-
Bỏng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. 
Nghiên cứu mô tả trên 149 người bệnh sau 
phẫu thuật. Kết quả: Đa số người bệnh bắt 
đầu tập vận động vào ngày thứ 2 sau phẫu 
thuật. Ngày thứ 3 sau phẫu thuật có 79,2% 
số người bệnh tập vận động đạt yêu cầu 
và khi ra viện số người bệnh tập vận động 
đạt yêu cầu là 92,6%. Nghiên cứu bước 
đầu cho thấy vận động của người bệnh sau 
phẫu thuật mức độ đạt yêu cầu khá cao. 
Kết luận: Khi ra viện đa số người bệnh vận 
động đạt yêu cầu và tốt hơn so với ngày 
thứ 3 sau phẫu thuật. Phương pháp phẫu 
thuật, mức độ đau của người bệnh có mối 
tương quan với vận động của người bệnh 
sau phẫu thuật.
Từ khóa: Vận động, kết hợp xương chi 
dưới, sau phẫu thuật.
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thùy
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 12/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_roi_loan_giac_ngu_o_benh_nhan_sau_phau_thuat_ung.pdf