Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

TÓM TẮT

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích và chất lƣợng rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên bị suy

giảm liên tục là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, việc quản lý sử

dụng tài nguyên rừng không những chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao mà còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu

cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Kết quả nghiên cứu thấy rằng hình thức

quản lý rừng và đất rừng do hộ gia đình quản lý là có hiệu quả nhất, hiệu quả thấp nhất là do Ban

quản lý rừng đặc dụng quản lý. Tất cả ngƣời dân ở các thôn bản sống trong RĐD đã tham gia xây

dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này.

80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi

trong trồng rừng, việc chỉ thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý QĐD với ngƣời dân

đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661.

Từ khóa: Quản lý rừng, rừng, cộng đồng, rừng đặc dụng, Hữu Liên; Lạng Sơn

pdf 6 trang phuongnguyen 3200
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48 
43 
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƢƠNG 
TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TẠI RỪNG ĐẶC DỤNG HỮU LIÊN, 
HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN 
Nguyễn Hữu Giang* 
Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích và chất lƣợng rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên bị suy 
giảm liên tục là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, việc quản lý sử 
dụng tài nguyên rừng không những chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao mà còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu 
cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Kết quả nghiên cứu thấy rằng hình thức 
quản lý rừng và đất rừng do hộ gia đình quản lý là có hiệu quả nhất, hiệu quả thấp nhất là do Ban 
quản lý rừng đặc dụng quản lý. Tất cả ngƣời dân ở các thôn bản sống trong RĐD đã tham gia xây 
dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này. 
80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi 
trong trồng rừng, việc chỉ thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý QĐD với ngƣời dân 
đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661. 
Từ khóa: Quản lý rừng, rừng, cộng đồng, rừng đặc dụng, Hữu Liên; Lạng Sơn 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rừng đặc dụng (RĐD) Hữu Liên lần đầu tiên 
đƣợc Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng quyết định 
thành lập vào năm 1986 có diện tích 3.000ha. 
Năm 1992 đƣợc Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ 
NN&PTNT) quy hoạch lại. Năm 2006 đƣợc 
UBND tỉnh Lạng Sơn tái thành lập với diện tích 
10.640ha, Ban quản lý RĐD Hữu Liên là một 
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT 
tỉnh Lạng sơn. Toàn bộ diện tích RĐD Hữu 
Liên nằm trên địa phận của 5 xã thuộc huyện 
Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sự bùng nổ dân số, 
sự phát triển không ngừng của xã hội đã dẫn 
đến nhu cầu sinh hoạt của ngƣời dân sống 
trong khu vực RĐD Hữu Liên ngày càng tăng 
đặc biệt là nhu cầu về gỗ làm nhà, đóng đồ, 
củi đun... Mặt khác nhu cầu gỗ, lâm sản ngoài 
gỗ trên thị trƣờng nhất là các loại gỗ quý 
hiếm rất cao nên ngƣời dân đã bị các đối 
tƣợng xúi giục lôi kéo, tiếp tay cho các hành 
vi khai thác, mua bán vận chuyển lâm sản trái 
phép đã dẫn đến hậu quả là TNR tại RĐD 
Hữu Liên bị xâm hại. Từ yêu cầu thực tế trên, 
rất cần thực hiện nghiên cứu về thực trạng quản 
lý và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng 
trong công tác quản lý rừng (QLR) tại RĐD 
Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn 
nhằm tìm ra hình thức QLR có hiệu quả nhất. 
 Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com 
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mục tiêu nghiên cứu 
Phân tích, đánh giá thực trạng QLR và sự tham 
gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác 
quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở đi sâu tìm hiểu 
các hoạt động bảo vệ, sử dụng rừng, từ đó xác 
định đƣợc khó khăn, bất cập và đề xuất một số 
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR. 
Nội dung nghiên cứu 
- Thực trạng quản lý rừng đặc dụng; 
- Sự tham gia quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng; 
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu 
quả QLR. 
Phƣơng pháp nghiên cứu 
- Kế thừa tài liệu từ một số báo cáo tổng kết, 
đánh giá về tình hình quản lý rừng do Ban 
quản lý rừng đặc dụng, UBND các xã cung 
cấp (trong 5 năm gần đây); 
- Phƣơng pháp RRA để phỏng vấn có định 
hƣớng với tổng số 25 lãnh đạo của cơ quan 
quản lý trực tiếp (Sở Nông nghiệp và PTNT, 
huyện Hữu Lũng, Ban quản lý rừng và 5 xã 
có rừng); 
- Sử dụng một số công cụ PRA: Đi lát cắt, Sơ 
đồ tài nguyên, Sơ đồ venn, phƣơng pháp phân 
tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức 
(SWOT) và điều tra phỏng vấn trực tiếp 120 hộ 
gia đình tiêu biểu trong khu vực; 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48 
44 
- Phƣơng pháp xử lý số liệu: Sử dụng thống 
kê toán học dƣới dạng các bảng biểu để tổng 
hợp các thông tin thu đƣợc. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Thực trạng quản lý rừng đặc dụng 
Rừng đặc dụng Hữu Liên hiện đang có 4 hình 
thức QLR chủ yếu đó là: (i) Rừng và đất rừng 
do cộng đồng quản lý (Gọi là tổ giữ rừng): 
Mỗi thôn bản tùy theo diện tích rừng đƣợc 
quản lý nhiều hay ít mà lập ra từ 1 - 4 tổ giữ 
rừng, mỗi tổ có từ 3-7 thành viên. Hoạt động 
của tổ giữ rừng là phối hợp với kiểm lâm và 
đội 12 của xã để thƣờng xuyên tiến hành kiểm 
tra, giám sát và đôn đốc ngƣời dân trong thôn 
thực hiện tốt việc bảo vệ diện tích rừng đã ký 
hợp đồng bảo vệ. Tổ giữ rừng đƣợc hƣởng 
thù lao hàng tháng trích từ nguồn quỹ của 
thôn, mức hƣởng do hội nghị toàn thôn quyết 
định. Trong đó kiểm lâm hỗ trợ 
200.000đ/tháng cho công tác quản lý bảo vệ, 
phần quỹ còn lại do bà con đóng góp hoặc lấy 
từ tiền xử phạt các vụ vi phạm TNR hay thu 
tiền của những ngƣời không tham gia lao 
động công ích (Mức thu từ 15.000 - 30.000 
đồng tùy theo thực trạng kinh tế của từng 
thôn); (ii) Rừng do ban quản lý rừng đặc dụng 
Hữu Liên quản lý, tổng số 3.308 ha; (iii) Đội 
12 của các xã (Đội 12 đƣợc thành lập theo 
Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính 
phủ). Hoạt động của Đội 12 là tổ chức tuyên 
truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng tới 
cộng đồng dân cƣ trong các thôn bản thông 
qua hệ thống loa thông tin đại chúng và tăng 
cƣờng phối hợp với kiểm lâm tuần tra bảo vệ 
rừng, kiểm tra trên khâu lƣu thông, vận 
chuyển lâm sản trái phép, bắt giữ và xử lý các 
đối tƣợng vi phạm và (iv) Rừng do hộ gia đình 
quản lý: Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với 
hộ gia đình năm 2009 đƣợc thể hiện qua bảng 1. 
Theo khoản 8, Quyết định số 02/CP, ngày 
15/1/1994, quá trình ký kết hợp đồng bảo vệ 
rừng với các hộ gia đình trong RĐD Hữu 
Liên bắt đầu từ năm 1994. Đến hết năm 2009, 
Ban quản lý RĐD đã giao 7.332ha rừng cho 
427 hộ sống tại 23 thôn của 5 xã quản lý. Các 
hợp đồng bảo vệ rừng đƣợc ký đối với các 
trƣờng hợp mà các điều kiện không phù hợp 
để di dời dân cƣ sống trong khu bảo vệ 
nghiêm ngặt, cho phép các hộ sống hài hòa 
trong sự bảo vệ quản lý. Trong khuôn khổ các 
hợp đồng này, các hộ gia đình đƣợc phép thu 
lƣợm củi đun và các sản phẩm không thuộc 
gỗ khác nhƣng không đƣợc phép chặt cây. 
Đổi lại họ đƣợc nhận 90.000đ/ha/năm, các 
hợp đồng có giá trị trong 1 năm và có thể thay 
đổi. Cán bộ Ban quản lý RĐD kiểm tra hàng 
năm và có thể hủy bỏ hợp đồng đối với các hộ 
gia đình quản lý không tốt, năm 2009 vẫn có 
103/427 hộ vi phạm hợp đồng. 
Để tìm hiểu hiệu quả quản lý rừng, đề tài đã 
tiến hành phỏng vấn 120 hộ về vai trò của các 
bên trong việc quản lý rừng, kết quả thể hiện 
ở bảng 2. 
Bảng 1. Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với hộ gia đình năm 2009 
TT Xã 
Số thôn tham gia 
QLR 
Số hộ tham gia 
(hộ) 
Diện tích 
(ha) 
Số hộ vi phạm 
hợp đồng (hộ) 
1 Yên Thịnh 7 124 1.860 33 
2 Hữu Liên 12 263 4.658 63 
3 Hữu Lễ 1 17 253 5 
4 Vạn Linh 2 10 211 1 
5 Hòa Bình 1 13 350 1 
 Cộng 23 427 7.332 103 
Bảng 2. Hiệu quả quản lý rừng của các bên tham gia 
 Mức độ 
Các bên tham gia 
Rất hiệu quả Hiệu quả Trung bình Ít hiệu quả Không hiệu quả 
1. Hộ gia đình 81.67 15 3.33 0 0 
2. Tổ giữ rừng 0 0 39.17 60.83 0 
3. Ban QLR đặc dụng 0 0 0 90.83 9.17 
4. Đội 12 0 0 0 56.35 43.65 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48 
45 
Kết quả cho thấy: Hiệu quả quản lý rừng cao 
nhất là hộ gia đình (96,67% ý kiến đánh giá là 
rất hiệu quả và có hiệu quả 3,33% ý kiến ở 
mức trung bình). Ở cách quản lý này, mặc dù 
quyền sở hữu tài nguyên rừng không thuộc về 
ngƣời dân nhƣng quan hệ giữa ngƣời dân với 
Ban quản lý RĐD và các bên tham gia khác là 
chặt chẽ do các mối quan hệ xã hội, làng xã, 
gia đình tạo dựng nên. Mặt khác ngƣời dân 
phải tự chịu trách nhiệm với diện tích rừng đã 
ký kết do vậy hiện tƣợng vi phạm hợp đồng ít 
hơn. Tiếp theo là đến Tổ giữ rừng (39,17% 
đánh giá ở mức trung bình còn lại là ít hiệu 
quả). Với ban QLR và đội 12 thì 100% ý kiến 
đánh giá ở mức ít và không có hiệu quả. Đội 
12 không quản lý trực tiếp rừng mà chỉ phối 
hợp với kiểm lâm, tổ giữ rừng để phổ biến, 
tuyên truyền, tuần tra kiểm soát. Nhƣ vậy, 
hiệu quả QLR trực tiếp kém nhất là rừng do 
Ban quản lý RĐD Hữu Liên quản lý. Phân 
tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân sự kém 
hiệu quả trong công tác QLR của ban quản lý 
RĐD Hữu Liên nhƣ sau: 
- Tổ chức nhân sự: Từ 01/01/2008 Ban quản 
lý đƣợc kiện toàn lại gồm có 09 ngƣời, trong 
đó cán bộ có trình độ đại học 04 ngƣời, cán 
bộ có trình độ trung cấp 05 ngƣời. Ban quản 
lý phân làm 02 phòng là phòng hành chính 
tổng hợp 03 ngƣời (gồm 01 lãnh đạo, 01 kế 
toán, 01 văn thƣ thủ quỹ kiêm tạp vụ) và 
phòng kỹ thuật tuyên truyền kiêm địa bàn 
gồm 06 ngƣời; 
- Do công tác QLR chƣa đồng nhất từ Ban 
quản lý RĐD cũ thuộc Hạt Kiểm Lâm sang 
Ban quản lý RĐD mới thuộc Sở NN&PTNT 
tỉnh Lạng Sơn có khe hở nên bọn lâm tặc lợi 
dụng và một số cán bộ Ban quản lý RĐD mới 
là chủ rừng nhƣng thiếu trách nhiệm, lợi dụng 
chức quyền thu tiền hối lộ lâm luật của bọn 
lâm tặc và cấu kết với một số tổ trƣởng tổ giữ 
rừng làm sai quy chế bảo vệ rừng; 
- Cán bộ lãnh đạo Ban quản lý RĐD là ngƣời 
mới, còn nhiều hạn chế về chuyên môn 
nghiệp vụ, chƣa có kinh nghiệm trong lãnh 
đạo điều hành đơn vị (Trƣởng Ban quản lý về 
nhận công tác từ 10/10/2007, hiện chƣa có 
Phó trƣởng ban); 
- Nhân viên trong Ban QLR cũng là ngƣời 
mới tham gia công tác nên còn bỡ ngỡ, chƣa 
có kinh nghiệm, chƣa ai đƣợc tham gia tập 
huấn về quản lý rừng; 
- Địa bàn hoạt động rộng, địa hình phức tạp, 
xa sự giám sát của lãnh đạo, phƣơng tiện đi 
lại không có. Cơ sở vật chất và các trang thiết 
bị phục vụ cho công tác còn quá nghèo nàn 
nên cũng ảnh hƣởng lớn đến tâm lý của cán 
bộ và chất lƣợng công việc. 
Kết quả nghiên cứu về các hoạt động khai 
thác, sử dụng rừng của ngƣời dân cho thấy 
thu nhập từ lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ so với 
tổng thu nhập của hộ. Với hộ nghèo thu nhập 
từ lâm nghiệp khoảng 2,5 triệu đồng chiếm 
22,27%, hộ trung bình 3,5 triệu đồng chiếm 
20,03% và hộ khá là gần 4 triệu đồng chiếm 
14,89%. 
Hình 1. Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu Hình 2. Tỷ lệ % các loại lâm sản đƣợc thu hái từ rừng 
Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu nhập
0
5,000,000
10,000,000
15,000,000
20,000,000
25,000,000
30,000,000
Đ
ồ
n
g
/n
ă
m
Tổng thu
Lâm nghiệp
Tổng thu 11,593,740 18,035,802 26,324,313
Lâm nghiệp 2,581,844 3,613,094 3,919,688
Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá
Loại lâm sản được thu hái từ rừng
40
68
57
92
13
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Cây thuốc Thực phẩm Nguyên liệu thủ
công
Vật liệu xây
dựng
Khác
T
ỷ
l
ệ
%
s
ố
h
ộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48 
46 
Lâm sản ngƣời dân thu hái từ rừng rất đa dạng 
và đƣợc chia thành 5 loại đó là làm thuốc, thực 
phẩm, nguyên liệu thủ công, vật liệu xây dựng 
và một số công dụng khác. Trong số này nhiều 
sản phẩm đƣợc sử dụng ở địa phƣơng, phần 
còn lại nhƣ động vật rừng và cây thuốc đƣợc 
ngƣời dân địa phƣơng đem bán. Việc chặt cây 
để làm nhà, đóng đồ, làm hàng rào và củi đun 
là nhu cầu chính đáng của ngƣời dân, tuy nhiên 
trên thực tế việc lạm dụng khai thác những loài 
cây gỗ có giá trị ( Nghiến, Hoàng Đàn) đang 
diễn ra hết sức phức tạp và quyết liệt mặc dù 
ngƣời dân hiểu đƣợc rằng việc chặt cây lấy gỗ 
đƣợc coi là phạm pháp cho dù với bất cứ mục 
đích gì, ngoại trừ dùng cho việc làm nhà nhƣng 
phải đƣợc sự đồng ý của chính quyền địa 
phƣơng. Mùa cao điểm khai thác gỗ là vào 
những tháng cuối năm trong khoảng từ tháng 
8-12 âm lịch. 
Lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và đƣợc hầu hết 
các hộ gia đình thu hái để sử dụng và bán. Kết 
quả điều tra cho thấy: Có tổng số 81 loài thực 
vật lâm sản ngoài gỗ đƣợc ngƣời dân khai thác 
sử dụng, trong đó có tới 48 loài đƣợc ngƣời 
dân sử dụng làm dƣợc liệu, chiếm 59,3%; 
Nhóm loài làm rau ăn có 20 loài, chiếm 
24,7%; Nhóm loài lấy bột có 5 loài, chiếm 
6,2% và nhóm loài làm thủ công mỹ nghệ có 8 
loài, chiếm 9,9%. Nhƣ vậy, ngƣời dân khai 
thác các loài lâm sản ngoài gỗ để làm dƣợc 
liệu chiếm tỷ lệ cao nhất, đây là điểm cần lƣu ý 
trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến 
thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc 
của các cộng đồng dân tộc thiểu số đặc biệt là 
trong cộng đồng ngƣời Dao. 
Sự tham gia quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng 
Tham gia xây dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” ở 
cấp thôn bản: Tất cả các thôn bản đều đã xây 
dựng xong quy ƣớc bảo vệ rừng, bên cạnh đó 
việc ký cam kết bảo vệ rừng của ngƣời dân đã 
đƣợc triển khai đến tất cả các thôn bản có 
ngƣời dân sống trong RĐD, tuy nhiên hầu hết 
ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết 
này do họ không nhận đƣợc sự hỗ trợ gì để 
cải thiện cuộc sống. Các bản cam kết này 
đƣợc lập bằng tiếng phổ thông trong khi trên 
địa bàn có 70% dân số là ngƣời dân tộc thiểu 
số, trong số đó khoảng 30% không biết tiếng 
phổ thông nên họ không hiểu. Vai trò của các 
già làng chƣa đƣợc phát huy trong các hoạt 
động văn hóa, xã hội và công tác bảo vệ rừng 
(do già làng không có phụ cấp gì). 
Sự tham gia của các hộ gia đình vào chƣơng 
trình 661: Qua phỏng vấn cho thấy 80,07% số 
hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các 
chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi 
trong trồng rừng. Ngƣời dân chỉ biết tham gia 
trồng rừng, bảo vệ rừng theo thuê khoán của 
Ban quản lý. Điều này cho thấy chính sách 
chƣa đƣợc phổ biến đến dân, Ban quản lý 
nắm giữ chính sách và thực hiện theo kế 
hoạch riêng, ngƣời dân mất cơ hội chọn lựa 
các giải pháp thích hợp cho mình. Nghiên cứu 
cho thấy sự hƣởng lợi của các hộ chủ yếu là 
(i) Đƣợc thuê và trả công trồng, chăm sóc, 
bảo vệ rừng trồng tuy nhiên số hộ tham gia 
cũng không nhiều, tối đa là 15%. Sự thuê 
khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý 
RĐD với ngƣời dân đã không tạo ra sinh kế 
ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua 
thực hiện chƣơng trình 661 và (ii) Ký hợp 
đồng bảo vệ rừng tự nhiên: Việc ký hợp đồng 
bảo vệ rừng giữa hộ gia đình với ban quản lý 
RĐD đƣợc thực hiện hàng năm, tuy nhiên vẫn 
còn một số hộ vi phạm hợp đồng mà nguyên 
nhân chính là thiếu tiền để chi trả cho các 
hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Khi thiếu tiền, 
ngƣời dân có thể chặt cây lấy gỗ bán mặc dù 
họ biết làm nhƣ vậy là vi phạm. Rõ ràng là 
trách nhiệm của một số ngƣời dân chƣa cao, 
ngƣời dân không có chuyên môn nên ngoài 
việc sử dụng các sản phẩm từ rừng thì họ 
không có tác động nào để xây dựng và phát 
triển rừng. Công tác bảo vệ rừng có ảnh 
hƣởng tiêu cực đến đời sống nông hộ nhƣ 
giảm thu nhập và giảm sản lƣợng khai thác 
các sản phẩm khác từ rừng, bên cạnh đó cũng 
có những ảnh hƣởng tích cực từ công tác này. 
Kết quả điều tra 120 ngƣời về sự ảnh hƣởng 
của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống hộ, 
cho thấy. (i) Có 5 vấn đề đƣợc ngƣời dân 
đánh giá về sự ảnh hƣởng tiêu cực của hoạt 
động bảo vệ rừng đến đời sống hộ đƣợc xếp 
theo thứ tự từ cao đến thấp nhƣ sau: Giảm sản 
lƣợng khai thác các sản phầm từ rừng (có 
82% ý kiến); Giảm thu nhập (67% ý kiến); 
Giảm diện tích chăn thả gia súc (48% ý kiến); 
Giảm diện tích đất sản xuất (46% ý kiến); Các 
ý kiến khác (21% ý kiến). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48 
47 
Rõ ràng là khi rừng đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt 
hơn thì ngƣời dân không thể tự do khai thác 
các sản phẩm từ rừng, họ không thể phá rừng 
để lấy đất sản xuất nông nghiệp và không thể 
tự do chăn thả gia súc. Tất cả các yếu tố này 
đều làm giảm thu nhập của hộ. (ii) Có 6 vấn 
đề đƣợc ngƣời dân đánh giá về những tác 
động tích cực của bảo vệ rừng đến đời sống 
hộ đó là: Môi trƣờng tốt hơn (69% ý kiến); 
Nguồn nƣớc ổn định cho sinh hoạt, sản xuất 
(68% ý kiến); Giảm lũ vào mùa mƣa (51% ý 
kiến); Tăng thu nhập từ công bảo vệ rừng 
(36% ý kiến); Cải thiện cơ sở hạ tầng (21% ý 
kiến); Các ý kiến khác (16% ý kiến). Nhƣ vậy 
ngƣời dân cũng đã nhận thấy đƣợc vai trò to 
lớn của rừng với môi trƣờng và trực tiếp đến 
cuộc sống, sinh hoạt của họ. 
* Những hạn chế trong việc cuốn hút cộng 
đồng tham gia vào quản lý rừng: 
- Ngƣời dân sống trong và xung quanh RĐD 
chƣa thấy đƣợc lợi ích do việc thành lập RĐD 
mang lại. Họ chỉ thấy việc thành lập RĐD là 
gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của họ; 
- Ranh giới của RĐD, ranh giới của vùng đệm 
đƣợc xác định rõ ràng trên bản đồ tuy nhiên 
trên thực địa thì rất khó khăn để xác định nên 
nhiều khi ngƣời dân không biết mình có xâm 
phạm vào ranh giới khu bảo tồn không; 
- Thiếu sự phối hợp với các chƣơng trình 
quốc gia hay các dự án trong lĩnh vực quản lý 
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển 
rừng (Giao đất, giao rừng, khoán khoanh nuôi 
bảo vệ, trồng rừng...); 
- Ngƣời dân thiếu vốn để đầu tƣ sản xuất, 
thiếu kiến thức kỹ thuật về trồng, gieo ƣơm và 
các kỹ thuật trong sản xuất lâm nông nghiệp. 
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả 
quản lý rừng 
Trên cơ sở phân tích thực trạng QLR và sự 
tham gia quản lý bảo vệ rừng của ngƣời 
dân, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm 
góp phần nâng cao khả năng QLR tại RĐD 
Hữu Liên nhƣ sau: 
- Tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng 
cho hộ gia đình quản lý, gắn trách nhiệm hơn 
nữa với các hộ và có chế tài mạnh hơn để xử 
lý các hộ vi phạm hợp đồng, nếu hộ nào vi 
phạm hợp đồng trong 2 năm liên lục thì 
không giao khoán bảo vệ trong năm tiếp theo; 
- Kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo ban quản lý 
RĐD, cử lần lƣợt cán bộ đi tập huấn nâng cao 
năng lực về công tác quản lý bảo vệ rừng; 
- Đổi mới cách thức hoạt động của đội 12 
bằng cách phối hợp tổ chức các lớp tập huấn, 
tuyên truyền cho cộng đồng dân cƣ về luật 
bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản liên 
quan đến bảo vệ rừng...; 
- Ban quản lý RĐD cần phối hợp chặt chẽ hơn 
nữa với chính quyền và các tổ chức trong xã, 
thôn để thực hiện công tác QLR, phối hợp với 
ngân hàng để hƣớng dẫn ngƣời dân vay vốn 
đầu tƣ vào sản xuất, nâng cao năng xuất, chất 
lƣợng các mặt hàng nông sản. 
Bảo vệ rừng làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống nông hộ
46
82
48
67
21
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Giảm diện tích đất
sản xuất
Giảm sản lượng
khai thác các sản
phẩm khác từ rừng
Giảm diện tích
chăn thả gia súc
Giảm thu nhập Khác
%
 s
ố
 h
ộ
Bảo vệ rừng có tác động tích cực đến đời sống nông hộ
68
51
36
21
69
16
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Nguồn nước ổn
định cho sản
xuất và sinh
hoạt
Giảm lũ vào
mùa mưa
Tăng thêm thu
nhập từ công
khoán BVR
Cải thiện cơ sở
hạ tầng
Môi trường tốt
hơn
Khác
%
 s
ố
 h
ộ
Hình 4. Ảnh hƣởng của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống nông hộ 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48 
48 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Bảo Huy và cộng sự (2005), “Báo cáo nghiên 
cứu tham vấn hiện trường khu vực tây nguyên về 
Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở 
Việt nam”, Chƣơng trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp 
và đối tác, Hà Nội. 
[2]. Nguyễn Ngọc Lung (1998), “Forest 
management system and forestry policies in Vietnam. 
Proceeding of the national seminar on sustainable 
forest management and forest certification” (Ho Chi 
Minh City 1-12 February 1998) 
[3]. Furey, N., L.X.Cảnh và Fanning, E (2000) 
“Khảo sát đa dạng sinh học và đánh giá công tác 
bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên”, 
Chƣơng trình nghiên cứu rừng Frontier-Việt Nam do 
Tổ chức khám phá môi trƣờng LONDON và Viện 
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Hà Nội 
SUMMARY 
THE CURRENT SITUATION OF FOREST MANAGEMENT AND THE 
PARTICIPATORY OF LOCAL COMMUNITY IN FOREST PROTECTION 
AT HUU LIEN SPECIAL-USE FOREST, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON 
Nguyen Huu Giang
College of Agriculture and Forestry – TNU 
Inappropriate management of forest resources is a reason leads to continuous degradation of area 
and quality of forest in Huu Lien special use forests. The low efficiency of forest resource 
management doest not meet the needs of sustainable development in economic, social and 
environment. The result of study shows that household management of forest and forest land is 
the most effective management and Special used forest management board is the most low 
effective management. All people living in villages of the special-used forest have participated in 
the construction "Protecting forest convention" but most people have not interested in this pledge. 
80,07% of households have not known anything about 661 programs and policies related to the 
mechanism of benefit in the reforestation, the only hire seasonal labor exchange between the 
special used-forest management with the people has not created the long-term stability of 
livelihoods to households through the program 661 
Keywords: Forest management, forest, community, special use forests, Huu Lien - Lang Son 
 Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_quan_ly_va_su_tham_gia_cua_cong_dong_dia_phuong_t.pdf