Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các phòng khám đa khoa thuộc trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2017
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng
3 đến tháng 6 năm 2017 nhằm mô tả thực trạng công tác
quản lý chất thải rắn y tế tại 05 phòng khám đa khoa trực
thuộc Trung tâm Y tế (TTYT) huyện Sóc Sơn năm 2017.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý chất thải
rắn y tế (QLCTRYT) tại các phòng khám đa khoa (PKĐK)
được thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên một số tiêu chí còn
chưa đảm bảo đúng quy định trong Thông tư 58/2015/
TTLT-BYT-BTNMT về QLCTYT. Nhiều PKĐK chưa
có đủ các trang thiết bị phục vụ cho việc phân loại, thu
gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải như túi, thùng,
xe vận chuyển. Việc phân loại chất thải được thực hiện
khá tốt (hơn 80%), thực hiện phân loại tại nơi phát sinh
(93,1%). Tỉ lệ PKĐK thực hiện lưu giữ riêng chất thải lây
nhiễm và chất thải thông thường chỉ đạt 60%. Công tác
đào tạo, tập huấn cho các nhân viên y tế về QLCTRYT tại
05 PKĐK còn hạn chế
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các phòng khám đa khoa thuộc trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2017
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 43 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÓM TẮT Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2017 nhằm mô tả thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế tại 05 phòng khám đa khoa trực thuộc Trung tâm Y tế (TTYT) huyện Sóc Sơn năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý chất thải rắn y tế (QLCTRYT) tại các phòng khám đa khoa (PKĐK) được thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên một số tiêu chí còn chưa đảm bảo đúng quy định trong Thông tư 58/2015/ TTLT-BYT-BTNMT về QLCTYT. Nhiều PKĐK chưa có đủ các trang thiết bị phục vụ cho việc phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải như túi, thùng, xe vận chuyển. Việc phân loại chất thải được thực hiện khá tốt (hơn 80%), thực hiện phân loại tại nơi phát sinh (93,1%). Tỉ lệ PKĐK thực hiện lưu giữ riêng chất thải lây nhiễm và chất thải thông thường chỉ đạt 60%. Công tác đào tạo, tập huấn cho các nhân viên y tế về QLCTRYT tại 05 PKĐK còn hạn chế. Từ khóa: Quản lý, chất thải rắn y tế, phòng khám đa khoa, Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn ABSTRACT: THE MANAGEMENT OF MEDICAL SOLID WASTES AT GENERAL CLINICS IN SOC SON DISTRICT, 2017 A cross-sectional study evaluating the status of medical solid waste management in five general clinics in Soc Son District Health Center was conducted from February to June in 2017. The study showed that the management of medical solid waste at general clinics was quite good, however, some criteria did not comply with regulations of Circular 58/2015/ TTLT-BYT-BTNMT on medical waste management. Many general clinics did not have enough equipment for classification, collection, transportation, storage and treatment of medical solid waste such as bags, bins, trucks. The classification of waste was conducted quite well (over 80%); waste classification at source reached 93.1%. The rate of general clinics keeping private infectious waste and ordinary waste was only 60%. The training of health care workers at the clinics was still limited. Keywords: Management, medical solid waste, general clinic, Soc Son District Health Center I. ĐẶT VẤN ĐỀ Chất thải y tế (CTYT) tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro lây nhiễm các mầm bệnh hoặc gây nguy hại cho người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng. Chất thải rắn y tế (CTRYT) phát sinh tại tuyến y tế cơ sở rất ít nhưng vẫn có những đặc tính nguy hại của CTYT. Trong thời gian qua, các cơ sơ y tế đã nỗ lực trong công tác quản lý chất thải y tế (QLCTYT) góp phần tích cực nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên việc QLCTYT nói chung và QLCTRYT hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là các cơ sở y tế thuộc tuyến tỉnh, huyện. Trung tâm Y tế Sóc Sơn là một trong 30 trung tâm y tế quận, huyện trực thuộc Sở Y tế Hà Nội với 2 chức năng phòng chống dịch bệnh và khám chữa bệnh. Các cơ sở khám chữa bệnh thuộc TTYT Sóc Sơn bao gồm: 05 PKĐK khu vực và 26 TYT xã, thị trấn. Tổng lượng chất thải rắn y tế phát sinh hàng tháng khoảng 583,94kg/tháng, trong đó khối lượng chất thải lây nhiễm khoảng 145,2 kg/tháng [9]. Hiện nay, công tác QLCTRYT của TTYT huyện Sóc Sơn vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, hệ thống thu gom, lưu giữ chất thải còn thiếu, kinh phí hoạt động hạn chế. Bài báo này được thực hiện nhằm làm rõ mục tiêu mô tả thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các phòng khám đa khoa thuộc Trung tâm Y tế Sóc Sơn năm 2017. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI CÁC PHÒNG KHÁM ĐA KHOA THUỘC TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN SÓC SƠN NĂM 2017 Nguyễn Thị Nhung1, Lê Thị Thanh Hương1, Trần Thị Vân Anh1, Nguyễn Thị Thanh Hương2 Ngày nhận bài: 21/04/2018 Ngày phản biện: 04/05/2018 Ngày duyệt đăng: 25/05/2018 1. Trường Đại học Y tế công cộng 2. Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn, Hà Nội SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn44 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu - Cơ sở vật chất, trang thiết bị QLCTRYT của các PKĐK thuộc TTYT huyện Sóc Sơn - Toàn bộ nhân viên y tế tham gia trực tiếp vào công tác QLCTRYT gồm: điều dưỡng, nữ hộ sinh và kỹ thuật viên của 05 PKĐK. - Lãnh đạo TTYT Sóc Sơn và một số cán bộ lãnh đạo, nhân viên các PKĐK. 2. Thời gian - Thời gian: Từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 6 năm 2017. 3. Địa điểm nghiên cứu - Toàn bộ 05 PKĐK của TTYT Sóc Sơn gồm 5 PKĐK: PKĐK Kim Anh, PKĐK Trung Giã, PKĐK Xuân Giang, PKĐK Minh Phú, PKĐK Hồng Kỳ 4. Cỡ mẫu và phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. - Cỡ mẫu nghiên cứu định lượng: ▪ Quan sát thực trạng thiết bị, cơ sở vật chất: 1 lượt/ ngày x 5 PKĐK = 5 lượt. ▪ Quan sát công tác phân loại: 4 PKĐK quan sát 6 vị trí, 1 PKĐK quan sát 5 vị trí. Mỗi vị trí quan sát 2 lượt/ ngày. Tổng số lượt quan sát: 58 lượt ▪ Quan sát công tác thu gom: 4 PKĐK quan sát 6 vị trí, 1 PKĐK quan sát 5 vị trí. Mỗi vị trí quan sát 2 lượt/ ngày. Tổng số lượt quan sát: 58 lượt ▪ Quan sát công tác vận chuyển: 2 lượt/ngày x 5 PKĐK = 10 lượt. ▪ Quan sát công tác lưu giữ: 2 lượt/ngày x 5 PKĐK = 10 lượt. ▪ Quan sát công tác xử lý: 2 lượt/ngày x 5 PKĐK = 10 lượt. ▪ Quan sát thực hiện quy định: 1 lượt/ngày x 5 PKĐK = 5 lượt - Cỡ mẫu nghiên cứu định tính: ▪ Phỏng vấn sâu: 06 cuộc với 01 Trưởng phòng khám, 01 nhân viên thường xuyên tham gia phân loại chất thải và 01 hộ lý phòng khám của 02 nhóm “Đạt” và “Không đạt” ▪ Thảo luận nhóm: 01 cuộc thảo luận nhóm với điều dưỡng trưởng của PKĐK 5. Phương pháp thu thập số liệu - Số liệu định lượng về thực trạng quản lý CTRYT tại 5 PKĐK được thu thập thông qua bảng kiểm quan sát. - Số liệu định tính được thu thập thông qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với lãnh đạo và nhân viên của các PKĐK. 6. Phân tích số liệu - Số liệu được làm sạch, mã hóa và nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. - Các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm được ghi âm, gỡ băng, nội dung của từng bài ghi âm được phân tích theo từng chủ đề. 7. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức Trường Đại học Y tế Công cộng thông qua theo Quyết định số 212/2017/YTCC-HD3 ngày 24 tháng 03 năm 2017 về việc chấp thuận các vấn đề đạo đức nghiên cứu y sinh học. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị của các PKĐK Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ PKĐK có túi nilon, thùng đựng chất thải riêng cho từng loại chất thải đạt 60%. Các PKĐK đều có đủ các túi đựng chất thải đúng mã màu quy định, trong đó loại túi màu vàng, màu xanh và màu đen được trang bị đầy đủ 100% hơn so với các túi màu trắng (80%). 100% PKĐK có thùng đựng chất thải có quy định mức thu gom, trong khi đó chỉ có 20% PKĐK đạt về túi đựng chất thải có mức thu gom. 100% PKĐK có dụng cụ đựng chất thải sắc nhọn riêng đạt tiêu chuẩn theo quy định. 80% PKĐK có đủ thùng thu gom chất thải, trong đó có 60% PKĐK có thùng đựng chất thải đạp chân khi mở. 100% các thùng thu gom chất thải có đủ màu vàng và màu xanh theo quy định, trong khi đó các thùng màu trắng và màu đen chỉ đạt 40%. Tất cả các thùng đựng chất thải đều có dán nhãn cảnh báo ở mặt ngoài của thùng. 80% PKĐK có phương tiện vận chuyển chất thải và nhà lưu chứa chất thải theo quy định. 2. Thực trạng phân loại CTRYT Các PKĐK thuộc TTYT huyện Sóc Sơn đều thực hiện tương đối tốt việc phân loại CTRYT. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 45 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 1: Tỉ lệ PKĐK thực hiện phân loại đúng CTRYT Thực hiện phân loại đúng CTRYT Kết quả Tần số (n=58) % Phân loại ngay tại nơi phát sinh 54 93,1 Phân loại chất thải sắc nhọn là bơm kim tiêm 53 91,4 Phân loại chất thải sắc nhọn khác 55 94,8 Phân loại chất thải lây nhiễm không sắc nhọn 56 96,6 Phân loại chất thải thông thường 50 86,2 Phân loại chất thải giải phẫu 58 100 Phân loại chất thải nguy hại không lây nhiễm 51 87,9 Phân loại chất thải tái chế 47 81,0 Phân loại CT có nguy cơ lây nhiễm cao 58 100 Các vị trí có hướng dẫn cách phân loại 28 48,3 Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao và chất thải giải phẫu được phân loại tốt nhất (100%), tiếp theo là chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (96,6%), chất thải sắc nhọn (>90%), chất thải nguy hại không lây nhiễm (87,9%), chất thải thông thường (86,2%), cuối cùng là chất thải tái chế (81%). CTRYT đều được phân loại ngay tại nơi phát sinh (93,1%). Tuy nhiên chỉ có 28/58 vị trí quan sát (48,3%) có dán hướng dẫn phân loại chất thải. 3. Thực trạng thu gom CTRYT Tỉ lệ PKĐK thực hiện tốt về tần suất thu gom, không thu gom lẫn chất thải và không làm rơi vãi chất thải ra nền nhà đạt 100%. 93,1% có quy định đường thu gom riêng. Tỉ lệ phòng khám thực hiện dán hướng dẫn phân loại và thu gom ở vị trí đặt thùng chứa chất thải chỉ chiếm 48,3%. 4. Thực trạng vận chuyển CTRYT Tất cả PKĐK đều thực hiện đậy kín nắp thùng, buộc kín miệng túi đựng chất thải khi vận chuyển, có quy định đường vận chuyển chất thải và không làm rơi vãi chất thải trong khi vận chuyển. Tuy nhiên theo kết quả quan sát, chỉ tỉ lệ PKĐK vận chuyển chất thải đúng thời gian quy định chỉ đạt 60%. 5. Thực trạng lưu giữ CTYT Tất cả các PKĐK đều có các dụng cụ, thiết bị lưu chứa chất thải đúng quy định. Tuy nhiên tỉ lệ phòng khám thực hiện lưu giữ riêng chất thải lây nhiễm và chất thải thông thường chỉ đạt 60%. Nơi lưu giữ chất thải tại một số phòng khám cũng đã có trang bị các phương tiện chứa chất thải có thành cứng không bị bục vỡ, rò rỉ (100%); phương tiện có biểu tượng, có nắp đậy kín (40%); khu lưu giữ có mái che, cửa khóa (80%), có đầy đủ phương tiện chứa và phòng chống sự cố (20%), có nền chống thấm, thông khí tốt (60%) và không phát sinh mùi khó chịu (100%). SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn46 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 6. Thực trạng xử lý ban đầu CTRYT Kết quả quan sát tại các phòng xét nghiệm của 5 PKĐK cho thấy, tỉ lệ các PKĐK thực hiện đúng quy trình xử lý ban đầu chất thải và có xô pha sẵn hóa chất xử lý ban đầu đều đạt 100%. 7. Thực trạng thực hiện quy định về QLCTRYT Phần lớn các PKĐK (4/5) trong nghiên cứu đều thực hiện phân công nhiệm vụ cho các cán bộ của đơn vị thực hiện QLCTRYT bằng văn bản theo quy định. 100% PK có phân công người vận chuyển chất thải rắn y tế bàn giao chất thải lên cụm theo quy định. Kế hoạch QLCTRYT được 4/5 PKĐK xây dựng hàng năm tuy nhiên nội dung còn sơ sài. 100% phòng khám có lưu giữ sổ sách, chứng từ liên quan đến QLCTRYT như sổ giao nhận chất thải rắn y tế giữa trạm y tế và PKĐK, sổ cân bàn giao chất thải với Công ty URENCO 10 và các báo cáo định kỳ. Công tác QLCTRYT cũng được các đơn vị kiểm tra, giám sát 1 lần/1 quý (đạt 100%). Tuy nhiên, chỉ có 2/5 PKĐK thực hiện tự kiểm tra, giám sát nhân viên thực hiện QLCTYT (1 tuần/lần). Công tác đào tạo, tập huấn cho các nhân viên y tế của các PKĐK còn chưa tốt, chỉ có 3/5 PKĐK thực hiện tập huấn về quản lý chất thải y tế cho nhân viên. IV. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy tại các PKĐK thuộc TTYT huyện Sóc Sơn đều đã có các trang thiết bị, phương tiện phục vụ việc phân loại, thu gom, vận chuyển chất thải. Tuy nhiên một số trang thiết bị vẫn còn thiếu hoặc chưa đạt chuẩn theo Thông tư 58/2015/ TTLT-BYT-BTNMT: thiếu túi màu trắng đựng chất thải tái chế, thiếu thùng đựng chất thải màu đen và màu trắng, túi đựng chất thải không có mức thu gom, chưa đủ thùng thu gom chất thải, thiếu các thùng đựng chất thải đạp chân khi mở. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy, các loại chất thải nguy hại không lây nhiễm và chất thải tái chế phát sinh không đáng kể nên vấn đề này chưa được các đơn vị quan tâm và khi tìm mua để trang bị cho đủ thì trên thị trường cũng không có bán, do vậy tại các PKĐK vẫn còn thiếu các loại thùng thu gom hai loại chất thải này. Chỉ có 60% PKĐK có thùng đựng chất thải đạp chân khi mở, thấp hơn so nghiên cứu của Phan Thanh Lam thực hiện tại Gia Lâm năm 2013 [3]. Lý do là TTYT Sóc Sơn chưa có đủ điều kiện để đầu tư đồng bộ, cùng một lúc nên một số PKĐK vẫn sử dụng sọt, xô lót túi và đậy nắp hoặc nếu có thùng đạp chân khi mở nắp thì lại không theo mã màu quy định do Bảng 2: Tỉ lệ PKĐK thực hiện lưu giữ đúng CTRYT Thực hiện lưu giữ đúng CTRYT Kết quả Tần số (n=10) % Dụng cụ, thiết bị lưu chứa chất thải đúng quy định 10 100 Chất thải lây nhiễm và chất thải thông thường lưu giữ riêng. 6 60 Nơi lưu giữ chất thải đảm bảo: Phương tiện chứa CT có thành cứng không bị bục vỡ, rò rỉ 10 100 Có biểu tượng, có nắp đậy kín 4 40 Có mái che, cửa khóa 8 80 Có đầy đủ phương tiện chứa và phòng chống sự cố 2 20 Nền chống thấm, thông khí tốt 6 60 Không phát sinh mùi khó chịu, hôi 10 100 SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 47 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC không tìm mua được trên thị trường. Có thể thấy, việc sử dụng các dụng cụ, trang thiết bị chưa đúng quy định, đang là vấn đề đáng quan tâm ở nhiều cơ sở y tế tuyến huyện tại Việt Nam. Đây là những cơ sở y tế mà cơ sở vật chất chưa đồng bộ, hoạt động quản lý chất thải không tập trung và kinh phí còn hạn chế. Việc phân loại chất thải giải phẫu (100%) và chất thải tái chế (81%) tại các PKĐK tương đối tốt. Tỉ lệ PKĐK thực hiện phân loại đúng chất thải nguy hại không lây nhiễm đạt 87,9%. Kết quả này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lam [3] và Nguyễn Bá Tòng [7]. Tuy nhiên, tỉ lệ phân loại đúng chất thải thông thường đạt 86,2% lại thấp hơn nghiên cứu của Phan Thanh Lam[3]. Chất thải sắc nhọn được các PKĐK phân loại tốt. Chất thải lây nhiễm sắc nhọn (bơm kim tiêm) được phân loại đúng đạt 91,4%, cao hơn kết quả nghiên cứu của Lê Phú Gia [2] và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lam [3], Nguyễn Bá Tòng [7] và Đinh Quang Tuấn [8]. Hiện tượng bỏ lẫn chất thải lây nhiễm sắc nhọn vẫn xảy ra do ý thức của người làm phát sinh chất thải chưa cao. Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn được phân loại đúng chiếm 96,1% cao hơn các nghiên cứu của Phan Thanh Lam [3], Nguyễn Bá Tòng [6],[7]. Tại các vị trí phát sinh chất thải tỉ lệ PKĐK có hướng dẫn cách phân loại chỉ đạt 48,3% thấp hơn nghiên cứu của Phan Thanh Lam [3], Nguyễn Bá Tòng [7]. Qua thảo luận nhóm, các PKĐK vẫn nghĩ rằng các bảng biển, hướng dẫn phải chờ trung tâm cấp cho chứ không nghĩ các đơn vị phải tự làm. Tất cả các PKĐK đều thực hiện tốt về tần suất thu gom, không thu gom lẫn chất thải và không làm rơi vãi chất thải ra nền nhà đạt 100%, tốt hơn so với nghiên cứu của Lê Chính Phong [4], Nguyễn Bá Tòng [7], Lê Phú Gia [2]. Công tác vận chuyển chất thải cũng được các PKĐK thực hiện tốt. Tất cả PKĐK đều thực hiện đậy kín nắp thùng, buộc kín miệng túi đựng chất thải khi vận chuyển, có quy định đường vận chuyển chất thải và không làm rơi vãi chất thải trong khi vận chuyển. Theo Thông tư 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT [1] thì chất thải phải vận chuyển ra khỏi buồng phòng tối thiểu là 1 lần/ ngày và vận chuyển ra khỏi cơ sở y tế là 3 ngày/lần. Tuy nhiên, chỉ có 60% các phòng khám thực hiện đúng quy định về thời gian, tần suất vận chuyển chất thải, tương tự kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lam [2] và Hoàng Thị Thúy [5]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 100% PKĐK đều có các dụng cụ, thiết bị lưu chứa chất thải đúng quy định. Tuy nhiên tỉ lệ PKĐK thực hiện lưu giữ riêng chất thải lây nhiễm và chất thải thông thường chỉ đạt 60% do không có nhà lưu giữ riêng mà lưu giữ chung phòng nhưng có các thùng riêng biệt. Việc xử lý ban đầu chất thải tại 5 PKĐK của TTYT Sóc Sơn được thực hiện tốt 100%, tốt hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Bá Tòng và Phan Thanh Lam. Phần lớn các PKĐK (4/5) trong nghiên cứu đều thực hiện phân công nhiệm vụ cho các cán bộ của đơn vị thực hiện QLCTRYT bằng văn bản theo quy định và có kế hoạch QLCTRYT hàng năm. Tuy nhiên, nội dung kế hoạch được xây dựng vẫn còn sơ sài, một số kế hoạch không có chữ ký của lãnh đạo đơn vị, không có số, ngày, tháng ban hành kế hoạch. Công tác đào tạo, tập huấn cho các nhân viên y tế của các PKĐK còn chưa tốt, chỉ có 3/5(60%) PKĐK thực hiện tập huấn về QLCTYT cho nhân viên, thấp hơn so với nghiên cứu của Gabela SD và Knight SE tại 30 phòng khám tại KwaZulu-Natal (Nam Phi) [10]. Việc thực hiện kiểm tra, giám sát của TTYT huyện đối với các PKĐK tương đối tốt, tuy nhiên bên cạnh đó, việc các đơn vị tự kiểm tra, giám sát, đôn đốc cán bộ thực hiện đúng công tác quản lý chất thải thì còn rất hạn chế do cán bộ lãnh đạo PKĐK chưa tăng cường tầm quan trọng trong công tác kiểm tra giám sát giúp cán bộ y tế của mình có nhận thức đúng đắn nhằm thay đội hành vi để có thể làm tốt hơn công tác quản lý chất thải. Lý do các đơn vị đưa ra là bệnh nhân quá đông, nhân lực thiếu không bố trí được kiểm tra, giám sát. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý chất thải rắn y tế (QLCTRYT) tại các phòng khám đa khoa (PKĐK) thuộc Trung tâm Y tế (TTYT) huyện Sóc Sơn được thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên một số tiêu chí còn chưa đảm bảo đúng quy định trong Thông tư 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT về QLCTRYT do nguồn kinh phí cung cấp cho hoạt động QLCTYT còn hạn chế, dẫn tới việc đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, kiến thức và ý thức của nhân viên y tế về tầm quan trọng của QLCTYT chưa cao cũng là một trong những trở ngại lớn cho công tác QLCTRYT tại các PKĐK. VI. KHUYẾN NGHỊ TTYT huyện Sóc Sơn cần duy trì công tác kiểm tra, giám sát, có kế hoạch trong việc bổ sung trang thiết bị, SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn48 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 phương tiện dụng cụ và cơ sở vật chất đáp ứng cho công tác quản lý chất thải rắn y tế tại các PKĐK. Các PKĐK cũng cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát, công tác đào tạo tại chỗ các y sỹ, bác sỹ; bổ sung đồng bộ các hướng dẫn phân loại tại các vị trí phát sinh chất thải, trang bị đầy đủ phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị đồng bộ, phù hợp phục vụ cho công tác phân loại, thu gom, lưu giữ và vận chuyển chất thải tại cơ sở. 1. Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Y tế (2015), Thông tư số 58/TTLT-BYT-BTNMT, ngày 31 tháng 12 năm 2015 Quy định về quản lý chất thải, chủ biên. 2. Lê Phú Gia (2016), Đánh giá hoạt động quan lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi tỉnh Hà Nam và một số yếu tố ảnh hưởng năm 2016. Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng. 3. Phan Thanh Lam (2013), Thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế của Trung tâm Y tế huyện Gia Lâm”. Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng. 4. Lê Chính Phong (2016) , Thực trạng thực hiện quy trình quản lý chất thải rắn y tế và một số yếu tố ảnh hưởng viện mắt Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng. 5. Hoàng Thị Thúy (2011), Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến thực, thực hành của nhân viên y tế Bệnh viện đa khoa Đông Anh, năm 2011. Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng. 6. Nguyễn Bá Tòng (2015), Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và một số yếu tố ảnh hưởng tại các trạm y tế thuộc huyện Châu Thành, Đồng Tháp năm 2015. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 7. Nguyễn Bá Tòng (2016),Thực trạng, kiến thức, thực hành của nhân viên y tế về phân loại, thu gom chất thải rắn y tế tại Bệnh viện đa khoa Đồng Tháp năm 2015. 8. Đinh Quang Tuấn (2011), Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế, kiến thức, thực hành của cán bộ y tế trên địa ban thành phố Việt Trì năm 2011. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 9. Trung tâm Y tế Sóc Sơn (2016), Báo cáo công tác quản lý chất thải 6 tháng đầu năm 2016. 10. Gabela SD and Knight SE (2010), Healthcare waste management in clinics in a rural health district in KwaZulu- Natal. South Afr J Infect Dis. 25(1): 19-21 TÀI LIỆU THAM KHẢO
File đính kèm:
thuc_trang_quan_ly_chat_thai_ran_y_te_tai_cac_phong_kham_da.pdf

