Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam

Sự phát triển của các công ty tài chính và cho thuê tài chính đã góp phần

quan trọng trong việc phát triển thị trường cho vay tài chính tiêu dùng nói

riêng và thị trường tài chính nói chung, đồng thời cũng thúc đẩy nhanh quá

trình phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự gia tăng

nhanh chóng cả về mặt số lượng công ty, nguồn vốn và đa dạng các sản

phẩm cùng với việc chưa có bộ khung pháp lý cho hoạt động của các công

ty này, tiềm tàng rủi ro gây bất ổn tài chính. Bài viết này phân tích thực

trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính, khung pháp lý

và gợi ý chính sách cho Việt Nam

Từ khóa: công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, TCTD phi NH.

pdf 12 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam

Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
55
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 216- Tháng 5. 2020
Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê 
tài chính tại Việt Nam
Đào Bích Ngọc
Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 26/09/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 21/10/2019
Sự phát triển của các công ty tài chính và cho thuê tài chính đã góp phần 
quan trọng trong việc phát triển thị trường cho vay tài chính tiêu dùng nói 
riêng và thị trường tài chính nói chung, đồng thời cũng thúc đẩy nhanh quá 
trình phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự gia tăng 
nhanh chóng cả về mặt số lượng công ty, nguồn vốn và đa dạng các sản 
phẩm cùng với việc chưa có bộ khung pháp lý cho hoạt động của các công 
ty này, tiềm tàng rủi ro gây bất ổn tài chính. Bài viết này phân tích thực 
trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính, khung pháp lý 
và gợi ý chính sách cho Việt Nam 
Từ khóa: công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, TCTD phi NH.
The development of financial companies and financial leasing companies in Vietnam
Abstract: The development of financial companies and financial leasing companies has contributed significantly 
to not only the development of consumer finance but also the financial markets, followed by promoting 
financial inclusion in Vietnam. However, without the legal framework for the operation, the rapid increase in 
both the number of companies, the capital and the variety of products contains potential risks and spreads 
financial instability. This article analyzes the current state of development, legal frameworks and indicates 
policy implications for Vietnam.
Keywords: financial companies, financial leasing companies, non-bank financial institutions.
Ngoc Bich Dao, MEc.
Email: ngocdb@hvnh.edu.vn
Research Institute for Banking Academy of Vietnam
1. Giới thiệu
Công ty tài chính (TC) và công ty cho 
thuê tài chính (CTTC) thuộc nhóm các tổ 
chức tín dụng phi ngân hàng. Để tiếp cận 
với định nghĩa của công ty TC và công ty 
CTTC trước hết cần tiếp cận định nghĩa 
“tổ chức tài chính phi ngân hàng”. Đạo luật 
Chống rửa tiền Annunzio-Wylie (1992) tại 
Mỹ lần đầu tiên nhắc tới tổ chức tài chính 
phi ngân hàng, cho rằng đây là các tổ chức 
tài chính vượt xa phạm vi truyền thống. 
Gần một thập kỷ sau, theo IMF, các tổ 
chức tài chính phi ngân hàng là các tổ chức 
Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
tài chính chủ yếu tham gia vào hoạt động 
trung gian tài chính- chuyển tiền từ người 
cho vay sang người đi vay thông qua tài 
khoản của họ hoặc trong các hoạt động tài 
chính phụ trợ có liên quan chặt chẽ đến 
trung gian tài chính. IMF (2000) cũng làm 
rõ định nghĩa các công ty TC và công ty 
CTTC. Theo đó, các công ty TC là các tổ 
chức tham gia vào việc mở rộng cho vay 
cho các công ty phi tài chính và hộ gia 
đình. Các công ty CTTC là các tổ chức 
tham gia tài trợ cho việc mua sắm các tài 
sản hữu hình. Công ty cho thuê là chủ sở 
hữu hợp pháp của tài sản, nhưng quyền sở 
hữu được chuyển giao cho bên thuê- bên 
thuê phải chịu mọi lợi ích, chi phí và rủi ro 
liên quan đến quyền sở hữu tài sản.
Sự xuất hiện và phát triển của các công 
ty TC và CTTC có vai trò hoàn thiện hệ 
thống tài chính và nền kinh tế tại mỗi quốc 
gia. Các công ty TC và CTTC cùng với hệ 
thống ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài 
chính đến các tổ chức và cá nhân, chuyển 
vốn từ người tiết kiệm sang người đầu 
tư, từ đó thúc đẩy quá trình tài chính toàn 
diện. Bên cạnh đó, công ty TC và CTTC 
có vai trò tăng cường tính ổn định của nền 
kinh tế. Hoạt động của các công ty này 
giúp giảm thiểu áp lực vốn lên hệ thống 
ngân hàng thương mại, hạn chế những rủi 
ro về chênh lệch kỳ hạn mà các tổ chức 
tín dụng phải đối mặt. Tuy nhiên, ở những 
quốc gia chưa có hệ thống pháp lý đầy 
đủ, thì hoạt động của các công ty TC và 
CTTC lại có thể gây hại đến sự ổn định 
của thị trường tài chính. Nếu không chịu 
sự giám sát của các cơ quan quản lý, các 
công ty có thể tạo ra bong bóng tài sản, 
định giá sai lệch, dẫn đến những khoản nợ 
khó đòi và sau cùng là khủng hoảng.
Tại Việt Nam, công ty TC và công ty 
CTTC được quy định tại Luật các tổ chức 
tín dụng (2010), là loại hình tổ chức tín 
dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt 
động ngân hàng theo quy định của Luật 
này, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của 
cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh 
toán qua tài khoản của khách hàng. Hiện 
nay, mặc dù hoạt động ngân hàng vẫn là 
hoạt động chủ chốt trong việc cung ứng và 
phân bổ vốn cho nền kinh tế, nhưng cấu 
trúc tài chính của Việt Nam bắt đầu có sự 
dịch chuyển theo hướng giảm dần tỷ trọng 
tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại 
và tăng dần quy mô hoạt động của các tổ 
chức tài chính phi ngân hàng, trong đó có 
các công ty TC và CTTC. Không thể phủ 
nhận rằng sự phát triển của các công ty 
TC và CTTC đã góp phần nâng cao chất 
lượng của hệ thống tài chính, mang lại 
nhiều lợi ích cho khách hàng. Tuy nhiên, 
với sự phát triển nhanh chóng về số lượng, 
quy mô và sự đa dạng của sản phẩm, trong 
khi bộ khung pháp lý chưa được hoàn 
thiện, đã khiến cho hoạt động của các 
công ty này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro gây 
bất ổn định tài chính. Vì vậy, trong nghiên 
cứu này, tác giả phân tích thực trạng phát 
triển công ty TC và CTTC tại Việt Nam, 
khung pháp lý và gợi ý chính sách.
2. Thực trạng phát triển các công ty tài 
chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
2.1. Sự phát triển về quy mô của các 
công ty tài chính và cho thuê tài chính
Về số lượng, theo nguồn dữ liệu của Ngân 
hàng Nhà nước, hai công ty TC đầu tiên 
xuất hiện tại Việt Nam vào năm 1991 là 
Công ty TC cổ phần Sài Gòn và Công ty 
TC cổ phần Seaprodex. Mười năm tiếp 
theo (giai đoạn từ 1991 tới 2000) được coi 
là giai đoạn bùng nổ của các công ty TC 
và công ty CTTC với sự ra đời của 12 tổ 
chức bao gồm 5 công ty CTTC trực thuộc 
ĐÀO BÍCH NGỌC
57Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà 
nước, 5 công ty TC trực thuộc tập đoàn/
tổng công ty nhà nước và 2 công ty CTTC 
nước ngoài. Từ năm 2000 đến năm 2010, 
các công ty TC và công ty CTTC được 
thành lập trong giai đoạn trước, bắt đầu 
đi vào hoạt động, đồng thời cũng có 18 
tổ chức khác được thành lập mới. Nhìn 
chung ở giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng 
về tổng tài sản của nhóm các tổ chức tín 
dụng (TCTD) phi ngân hàng (NH) này 
ở mức cao, tuy nhiên lại không ổn định. 
Đặc biệt, cuối năm 2009 đã bắt đầu xuất 
hiện các dấu hiệu cho thấy sự yếu kém 
trong công tác quản lý, và điều hành tại 
các công ty TC và công ty CTTC. Vì vậy, 
trong giai đoạn 2011- 2018, Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã mạnh 
tay trong việc thực hiện tái cơ cấu TCTD 
phi NH với đa dạng các biện pháp như là 
cho phép phá sản đối với các tổ chức thua 
lỗ kéo dài, tỷ lệ nợ xấu cao hoặc tiếp tục 
tái cơ cấu với các chủ sở hữu mới. Tính 
đến hết tháng 12/2018, tại Việt Nam có 
16 công ty TC và 10 công ty CTTC được 
NHNN cấp phép hoạt động. Như vậy, số 
lượng các công ty đã tăng gấp 13 lần trong 
vòng 20 năm (so với năm 1991), giảm bớt 
4 tổ chức so với giai đoạn 2005- 2010.
Về quy mô vốn điều lệ, theo dữ liệu của 
NHNN hàng năm, vốn điều lệ của các 
công ty TC và công ty CTTC tăng song 
hành cùng với sự gia tăng về số lượng. 
Thậm chí trong giai đoạn 2014 đến 2018 
không có sự gia tăng về số lượng của công 
ty TC nhưng vốn điều lệ vẫn được bổ sung 
liên tục một mặt là do sự thay đổi về cơ 
cấu tổ chức cũng như nhằm đảm bảo an 
toàn cho hoạt động. Số liệu thống kê từ 
NHNN cho thấy, đối với các công ty TC, 
tính đến cuối năm 2014 tổng vốn điều lệ 
đạt 14.819 tỷ đồng, 14.230 tỷ đồng năm 
2015, 15.584 tỷ đồng năm 2016, 17.468 
tỷ đồng năm 2017 và 21.836 tỷ đồng năm 
2018. Bên cạnh đó, đối với vốn điều lệ 
của công ty CTTC cũng tăng đều từ năm 
2014 đến 2017, nhưng giảm mạnh vào 
năm 2018. Nhìn chung, vốn điều lệ của 
các công ty CTTC ít hơn so với các công 
ty TC. Cụ thể, năm 2014 tổng vốn điều lệ 
của công ty CTTC đạt 3.924 tỷ đồng (bằng 
khoảng 27% so với tổng vốn điều lệ của 
công ty TC), tăng nhẹ trong năm 2015 đạt 
4.230 tỷ đồng, 4.617 tỷ đồng năm 2016, 
5.268 tỷ đồng năm 2017, và giảm mạnh 
Hình 1. 
Số lượng các công ty CT và công ty CTTC từ năm 1991-2018
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2019
Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
về mức 4.004 tỷ đồng năm 2018 (tương 
đương với năm 2014). 
Về quy mô tổng tài sản, nguồn dữ liệu 
của NHNN các năm cho thấy, nhìn chung 
các công ty TC và công ty CTTC chiếm 
tỷ trọng rất nhỏ so với hệ thống TCTD. 
Tốc độ tăng trưởng của các công ty này 
liên tục giảm trong gần 10 năm trở lại đây. 
Năm 2010, tỷ trọng tổng tài sản của nhóm 
này chỉ chiếm khoảng 3,8% tổng tài sản 
của hệ thống TCTD. Sau 5 năm, tỷ trọng 
giảm còn 1,62%. Tính đến hết 30/9/2018, 
tỷ trọng này giảm chỉ bằng 1,4% tổng tài 
sản của hệ thống TCTD (trong đó công ty 
TC chiếm 1,18% và công ty CTTC chiếm 
0,23%).
Về thị phần tín dụng của công ty TC và 
công ty CTTC, theo báo cáo tổng quan 
thị trường tài chính các năm của Ủy ban 
Giám sát Tài chính quốc gia, thị phần tín 
dụng của nhóm này ở 
mức rất khiêm tốn. Thị 
phần tín dụng của nhóm 
các công ty TC đã giảm 
từ 0,49%- năm 2014 
xuống còn 0,29% năm 
2018, tương tự, đối với 
nhóm các công ty CTTC 
giảm từ 1,92% xuống 
1,5%. Bên cạnh đó, chất 
lượng tài sản của công ty 
TC và công ty CTTC đã 
có dấu hiệu tốt lên qua 
các năm nhưng vẫn chưa 
thực sự tốt với tỷ lệ nợ 
quá hạn của nhóm các 
công ty TC là 20,41% 
năm 2014, giảm mạnh 
xuống 12,29% năm 
2018. Trong khi đó, đối 
với các công ty CTTC 
tỷ lệ giảm nhẹ từ 2,75% 
xuống 1,26% trong 4 năm gần đây.
2.2. Sự phát triển về sản phẩm của các 
công ty tài chính và cho thuê tài chính tại 
Việt Nam
Về sản phẩm của các công ty tài chính
Thị trường cho vay tiêu dùng của Việt 
Nam tăng trưởng rất mạnh trong giai đoạn 
từ năm 2010 cho tới 2018, với dư nợ cho 
vay tiêu dùng năm 2018 đạt 1.122 nghìn tỷ 
đồng, gấp 6,2 lần so với năm 2010. Mức 
tăng trưởng bình quân dư nợ cho vay tiêu 
dùng đạt 26%/năm, trong đó năm tăng 
trưởng mạnh nhất là 2015 tăng 149% so 
với năm 2014. Thị trường cho vay tiêu 
dùng được nhận định phát triển mạnh mẽ 
bởi quy mô dân số ngày càng tăng, tăng 
trưởng kinh tế, sự gia tăng mức thu nhập 
bình quân đầu người, sự thay đổi trong 
hành vi tiêu dùng của người trẻ và sự phát 
Hình 2. Tốc độ tăng vốn điều 
lệ các công ty TC (%)
Hình 3. Tốc độ tăng vốn điều 
lệ các công ty CTTC (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu Ngân hàng Nhà nước (2019)
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia 2017, 2019
Hình 4. Thị phần tín dụng 
của công ty TC và công ty 
CTTC (%)
Hình 5. Tỷ lệ nợ quá hạn của 
công ty TC và công ty CTTC 
(%)
ĐÀO BÍCH NGỌC
59Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
triển hệ thống bán lẻ hiện đại. 
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao, 
các công ty TC phát triển nhiều sản phẩm 
đa dạng và phù hợp với mục đích sử dụng 
của từng khách hàng. Đối với công ty TC 
trong nước, thường thuộc các tập đoàn, 
tổng công ty nhà nước sẽ có các sản phẩm 
phục vụ nhu cầu vay của doanh nghiệp, dự 
án đầu tư. Ngoài ra, các công ty TC (trong 
nước và nước ngoài) tập trung vào sản 
phẩm cho vay tiêu dùng cá nhân với ba 
hình thức là tín chấp, thế chấp và thẻ tín 
dụng. Trong đó, các sản phẩm được thiết 
kế phù hợp với từng mục đích sử dụng của 
khách hàng, với các hạn mức, lãi suất, thời 
hạn vay khác nhau.
Trong khoảng thời gian từ năm 2010- 
2014, các công ty TC tập trung phát triển 
các sản phẩm cho vay mua xe, mua đồ gia 
dụng và di động có lãi suất. Người mua 
thường đến các cửa hàng bán lẻ điện tử, 
siêu thị (ví dụ: Thế giới Di động, Trần 
Anh) để lựa chọn các thiết bị họ yêu 
thích. Tại đây, các công ty TC đã liên kết 
với cửa hàng và sẵn sàng cung cấp các sản 
phẩm tài chính phù hợp với khách hàng. 
Khách hàng có thể trả trước từ 20%- 70% 
giá trị sản phẩm và vay trong khoảng từ 3 
triệu đến 50 triệu đồng với thời hạn linh 
động từ 6 đến 18 tháng. Với thủ tục, giấy 
tờ đơn giản (chứng minh thư, hộ chiếu, 
hóa đơn), khách hàng có thể nhận sản 
phẩm sau 20 phút. Đối với vay mua xe, 
khách hàng có thể lựa chọn từ các hãng 
xe nổi tiếng như là Honda, Yamaha, hay 
Toyota tại các cửa hàng bán lẻ hoặc đại 
lý. Các công ty TC có thể phê duyệt các 
khoản vay tối đa lên tới 70% giá trị của xe 
trong thời gian từ 9 đến 24 tháng, và sử 
dụng xe (đăng ký xe) là tài sản thế chấp. 
Sang tới năm 2015, các công ty TC vẫn ưu 
tiên các sản phẩm trả góp, tuy nhiên, các 
công ty TC lại chủ động liên kết với các 
nhà cung cấp để cho ra hình thức khuyến 
mãi hấp dẫn là cho vay với lãi suất 0%. Cụ 
thể, thay vì khách hàng được khuyến mãi 
các phụ kiện đi kèm, giảm giá sản phẩm 
thì nhà cung cấp hỗ trợ cho khách hàng 
vay lãi suất 0% và trả hoa hồng cho các 
công ty TC. 
Bên cạnh đó, kể từ sau khi Nghị định số 
39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công 
ty tài chính và công ty cho thuê tài chính 
có hiệu lực, các công ty TC cũng bắt đầu 
được cấp phép phát hành thẻ tín dụng, khi 
đó JASC và FE là những công ty đầu tiên 
phát hành thẻ tín dụng. Tới năm 2016, khi 
thị trường về các sản phẩm 
cho vay trả góp đã bắt đầu 
bão hòa, các công ty TC 
nhanh chóng hướng tới đối 
tượng khách hàng mới có ý 
định mua/sửa chữa nhà, vì 
vậy các công ty tập trung 
thiết kế các sản phẩm dành 
riêng mua nhà trả góp. Theo 
Báo cáo về thị trường tài 
chính tiêu dùng của Tập 
đoàn Fiingroup, đối với các 
khoản vay tiêu dùng của 
khách hàng tại các công ty 
Hình 6. Dư nợ cho vay tiêu dùng từ năm 2010- 2018 
(nghìn tỷ đồng)
Nguồn: LienVietPostBank Research 2017, 2018
Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
TC cho thấy các khoản vay tiêu dùng mua 
nhà của khách hàng đã tăng từ 4,1% năm 
2016 lên 5,2% năm 2017, và đạt 14% năm 
2018, trong khi tỷ lệ các khoản vay mua 
xe, mua đồ gia dụng có xu hướng giảm 
dần qua các năm.
Về sản phẩm của các công ty CTTC
Theo quy định tại Nghị định số 39/2014/
NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính 
và công ty cho thuê tài chính, các công ty 
CTTC được hoạt động/cung cấp các sản 
phẩm dịch vụ sau: Nhận tiền gửi từ các 
tổ chức, NHNN; tiếp nhận vốn ủy thác; 
vay vốn các TCTD, vay NHNN thông qua 
hoạt động tái cấp vốn; phát hành chứng 
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu 
để huy động vốn của tổ chức; CTTC; mua 
bán trái phiếu Chính phủ; làm đại lý bảo 
hiểm, cung ứng dịch vụ tư vấn trong lĩnh 
vực ngân hàng, tài chính, đầu tư cho bên 
thuê tài chính. Tuy nhiên, các công ty 
CTTC hiện nay lại có quy mô vốn và tài 
sản nhỏ bé, trong khi đặc điểm của dịch 
vụ CTTC thường gắn vớ ...  thu hồi nợ. Việc phân loại tài 
sản có và trích lập dự phòng rủi ro tương 
tự như đối với các NHTM, được quy định 
tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN quy 
định về phân loại tài sản có, trích lập dự 
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để 
xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi 
nhánh NH nước ngoài.
Về hoạt động CTTC được quy định tại 
Luật Các TCTD, Nghị định số 39/2015/
NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động của 
công ty CTTC và các Thông tư quy định, 
hướng dẫn của NHNN.
Về kiểm soát nội bộ, cơ chế kiểm toán nội 
bộ của các công ty được quy định tại Thông 
tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ 
thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ 
của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài.
2.4. Các thương vụ mua bán, sáp nhập 
và phá sản của các công ty TC và CTTC 
tại Việt Nam giai đoạn 2014-2019
Thực tế hiện nay, quy mô về tài sản cũng 
như là thị phần hoạt động các công ty TC 
và CTTC chiếm tỷ lệ nhỏ trong hệ thống 
TCTD, do vậy trong thời gian qua hoạt 
động của nhóm các TCTD phi NH này có 
tác động không rõ rệt tới ổn định tài chính. 
ĐÀO BÍCH NGỌC
63Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Tuy nhiên, với thực trạng một số công ty 
làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả gây thiệt hại 
về kinh tế trong vòng 5 năm trở lại đây 
đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới lòng tin 
khách hàng, đồng thời cũng tiềm tàng các 
rủi ro gây ra bất ổn.
Các công ty TC và công ty CTTC có 
những sai phạm trong hoạt động gây bất 
ổn định tài chính. Cụ thể, các công ty huy 
động hợp đồng tiền gửi không đúng quy 
định, tăng lãi suất gây thiệt hại cho công 
ty, ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường 
huy động vốn. Bên cạnh đó, việc đầu tư 
tập trung vào các dự án lớn, dự án “sân 
sau” của các lãnh đạo, khiến việc đầu tư 
trở nên kém hiệu quả, khó thu hồi nợ, mất 
vốn, đồng thời có tác động tiêu cực đến 
việc phân bổ nguồn vốn của nền kinh tế. 
Mặt khác, những thông tin bất lợi về hoạt 
động của các công ty trong các năm gần 
đây cũng ảnh hưởng xấu đến chính ngành 
dịch vụ TC và CTTC. Vì vậy, các công ty 
khác gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp 
cận khách hàng, tiếp cận nguồn vốn. 
Trong quá trình phát triển, nhằm tìm 
kiếm và thu hút khách hàng, các công ty 
TC với cam kết thủ tục đơn giản, nhanh 
chóng đã lơ là trong khâu thẩm định khách 
hàng dẫn tới tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ khó đòi 
cao. Ví dụ, khách hàng có thể sử dụng 2, 
3 chứng minh thư, đăng ký xe hoặc hóa 
đơn để gian lận tại nhiều công ty TC khác 
nhau. Bên cạnh đó, sự phát triển ồ ạt của 
các công ty TC tiêu dùng cũng đã tạo cơ 
hội cho các công ty “tín dụng đen” phát 
triển dưới danh nghĩa các công ty TC. Do 
nhận thức và hiểu biết về TC còn hạn chế, 
nhiều người dân đã rơi vào “bẫy tín dụng” 
với các khoản vay lãi suất cao, thường 
xuyên bị “khủng bố tinh thần” khi không 
trả được nợ. Vì vậy, khách hàng có tâm lý 
không dám vay, sợ vay, từ đó, ảnh hưởng 
đến uy tín của các công ty và thị trường 
TC tiêu dùng.
3. Kết luận và gợi ý chính sách
Sự tăng trưởng của các công ty TC, công 
ty CTTC đã thúc đẩy cạnh tranh trong khu 
vực TC, thách thức năng lực và dịch vụ của 
hệ thống NHTM, đồng thời thúc đẩy cải 
thiện sản phẩm dịch vụ. Như Carmichael 
và Pomerleano (2002) đã khẳng định các 
tổ chức tài chính phi NH (trong đó có các 
công ty TC và công ty CTTC) sẽ được 
khuyến khích phát triển rộng rãi hơn vì các 
quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc nâng 
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ TC trong 
một thị trường TC cạnh tranh hơn. Các 
công ty này có khả năng cung cấp cho các 
cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
nhiều loại hình dịch vụ và công cụ TC đa 
dạng do không bị kiểm soát những quy 
định nghiêm ngặt như các NHTM thông 
thường (Noeth và Sengupta, 2011). Tuy 
nhiên, không thể phủ nhận sự phát triển 
của các công ty TC và CTTC tồn tại rủi ro 
gây bất ổn định tài chính. Do đó cần khẩn 
trương hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao 
chất lượng, hiệu quả công tác quản trị rủi 
ro. Cụ thể như sau: 
Thứ nhất, về hoàn thiện hành lang pháp lý 
cho công ty tài chính, cho thuê tài chính
- Nghiên cứu, sửa đổi yêu cầu về vốn pháp 
định đối với các Công ty TC và cho thuê 
tài chính (hiện được quy định tại Nghị 
định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ 
về ban hành Danh mục mức vốn pháp 
định của các TCTD). Hiện nay mức vốn 
pháp định đối với các TCTD PNH được 
quy định đối với loại hình Công ty TC 
(500 tỷ đồng) và công ty CTTC (150 tỷ 
đồng). Tuy nhiên, việc quy định mức vốn 
pháp định 500 tỷ đồng đối với loại hình 
Thực trạng phát triển các công ty tài chính và cho thuê tài chính tại Việt Nam
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
công ty TC là hướng đến mô hình công ty 
TC tổng hợp trực thuộc các tập đoàn, tổng 
công ty nhà nước trước đây, nhưng đến 
nay loại hình này đã hầu như không còn 
tồn tại. Bên cạnh đó, hiện nay cũng chưa 
có quy định về mức vốn pháp định đối với 
công ty TC tín dụng tiêu dùng hay công ty 
TC bao thanh toán. Nếu áp dụng vốn pháp 
định 500 tỷ đồng với hai loại hình này là 
chưa thật sự hợp lý do sự khác biệt về hoạt 
động, đối tượng khách hàng phục vụ, sản 
phẩm.
- Nghiên cứu, sửa đổi các điều kiện thành 
lập công ty TC và công ty CTTC dưới hình 
thức công ty cổ phần, bao gồm điều kiện 
đối với doanh nghiệp là cổ đông sáng lập, 
giới hạn tỷ lệ nắm giữ cổ phần của 1 cổ 
đông tại công ty TC và công ty CTTC, 
và số lượng cổ đông tối thiểu đối với một 
công ty TC và công ty CTTC thành lập 
dưới hình thức công ty cổ phần. Điều này 
nhằm đảm bảo tính phù hợp giữa các quy 
định như quy định về điều kiện vốn tối 
thiểu của công ty TC và công ty CTTC 
tương xứng với quy mô vốn và tài sản, số 
lượng doanh nghiệp tham gia góp vốn; 
mức độ rủi ro của công ty TC và công ty 
CTTC với tiềm lực tài chính cần thiết để 
đảm bảo trong các trường hợp cần hỗ trợ.
- Khẩn trương ban hành các Thông tư: 
Quy định về những thay đổi cần phải chấp 
thuận đối với TCTD PNH; Quy định về 
mạng lưới của TCTD PNH; Quy định về 
xếp hạng TCTD PNH, Quy định về chấp 
thuận danh sách nhân sự dự kiến giữ các 
chức danh quản trị, điều hành của công ty 
TC và công ty CTTC.
Thứ hai, về gia tăng năng lực quản trị 
rủi ro cho các công ty TC và công ty 
CTTC, tạo cơ sở phát triển các mô hình 
tín dụng chuyên ngành
Để có thể phát huy được vai trò của các 
công ty TC và công ty CTTC trong hệ 
thống tài chính, thúc đẩy việc cung ứng 
Bảng 1. Một số thương vụ mua bán, sáp nhập và phá sản của các công ty TC và CTTC 
tại Việt Nam giai đoạn 2014-2019
Năm Thương vụ
2014 VPBank mua lại Công ty TNHH MTV Tài chính Than- Khoáng sản Việt Nam
2015 Công ty tài chính TNHH MTV Cao su Việt Nam bị yêu cầu chấm dứt hoạt động và sáp nhập vào công ty mẹ- Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam
2015 MaritimeBank mua lại Công ty TC Dệt may
2015 Techcombank mua lại Công ty TC Hóa chất
2016 Công ty TC cổ phần Sông Đà sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Quân Đội
2017 SHB nhận sáp nhập Công ty TC Vinaconex- Viettel 
2017
Công ty CTTC TNHH MTV BIDV chuyển đổi hình thức pháp lý từ 100% vốn điều lệ BIDV 
chuyển thành Công ty CTCT TNHH BIDV- SuMi TRUST (BSL) với sự tham gia sở hữu 
49% vốn điều lệ bởi Ngân hàng Tín thác Sumitomo
2018 SeABank mua lại toàn bộ vốn góp của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) tại Công ty TC TNHH MTV Bưu điện (PTFinance)
2018 Công ty Cho thuê tài chính II (ALCII) của Agribank phá sản 
2019 Tập đoàn Shinhan được NHNN chấp thuận mua lại Công ty TC Prudential Việt Nam
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Cafef.vn
ĐÀO BÍCH NGỌC
65Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
các sản phẩm tín dụng chuyên ngành 
một cách an toàn hiệu quả thì việc phát 
triển các mô hình quản trị rủi ro chuyên 
biệt cho các tổ chức này là điều kiện tiên 
quyết. Việc gia tăng năng lực quản trị rủi 
ro cho các công ty TC và công ty CTTC 
trước hết phải xuất phát từ nhận thức của 
chính các tổ chức này. Các công ty TC 
và công ty CTTC cần nhận thấy cơ hội 
từ việc phát triển các mô hình tín dụng 
chuyên ngành, sẵn sàng đầu tư cho việc 
phát triển các mô hình quản trị rủi ro phù 
hợp để thực hiện việc cung ứng sản phẩm 
tín dụng. Đồng thời các công ty TC và 
công ty CTTC cũng cần có cơ hội tiếp cận 
các nguồn lực để phát triển các mô hình 
này như là: tiếp nhận các mô hình quản 
trị rủi ro chuyên biệt được phát triển bởi 
các tổ chức có uy tín trên thị trường quốc 
tế; tiếp cận được đầy đủ hơn các nguồn 
dữ liệu đầu vào như là thông tin về khách 
hàng, thông tin thị trường để làm đầu vào 
cho mô hình quản trị rủi ro...
Tài liệu tham khảo
1. Carmichael, J. và Pomerleano, M., 2002. The development and regulation of Non-bank financial institutions, The 
World Bank
2. Chính phủ. (1995), Nghị định số 64-CP của Chính phủ ngày 9/10/1995 ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và 
hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam
3. Chính phủ. (2008), Nghị định số 81/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 79/2002/NĐ-CP 
ngày 04 tháng 10 năm 2002 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính
4. Chính phủ. (2011), Nghị định số 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 141/2006/
NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng
5. Chính phủ. (2014), Nghị định số 39/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Về hoạt động của công ty tài chính và công ty 
cho thuê tài chính
6. Financial Crimes Enforcement Network, 1992, The Annunzio-Wylie Anti-Money Laundering Act.
7. Finngroup, 2015, Vietnam Consumer Finance Market Report 2015
8. Finngroup, 2017, Vietnam Consumer Finance Market Report 2017
9. Finngroup, 2018, Vietnam Consumer Finance Market Report 2018
10. Finngroup, 2019, Vietnam Consumer Finance Market Report 2019
11. Hội đồng nhà nước. (1990), Pháp lệnh số 37/LCT/HĐNN8 của Hội đồng Nhà nước : Pháp lệnh Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam
12. IMF, 2000, Monetary and Financial Statistics Manual, Washington
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng 
đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và 
kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài.
15. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Thông tư 21/2012/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho, đi vay; mua, bán 
có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, trích lập 
dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài
17. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 43/2016/TT-NHNN quy định về cho vay tiêu dùng của công ty 
tài chính
18. Nhóm nghiên cứu LienVietPost Bank, 2017, Báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2017. 
19. Nhóm nghiên cứu LienVietPost Bank, 2018, Báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2018 và triển vọng năm 2019. 
20. Noeth, B.J. and Sengupta, R., 2011. Is shadow banking really banking?. the Regional economist, 10, pp.8-1
21. Quốc hội (2004), Luật số 20/2004/QH11 của Quốc hội: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng
22. Quốc hội (2010), Luật số 47/2010/QH12 của Quốc hội: Luật các tổ chức tín dụng
23. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 2017, Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2016
24. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 2019, Báo cáo tóm tắt tổng quan thị trường tài chính Việt Nam năm 2018
25. Website của các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 
26. Website của Ngân hàng Nhà nước: https://www.sbv.gov.vn 
27. Website: Cafef.vn
xem tiếp trang 86
Ảnh hưởng của đặc điểm giám đốc điều hành tới hiệu quả của việc phát hành lần đầu ra 
công chúng tại Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 202086
5. Cohen, B. D. & Dean, T. J. (2005), ‘Information asymmetry and investor valuation of IPOs: Top management team 
legitimacy as a capital market signal’, Strategic Management Journal, 26(7), 683−690.
6. Dalton, D. T., Daily, C. M., Ellstrand, A. E. & Johnson, J. L. (1998), ‘Meta-analytic reviews of board composition, 
leadership structure, and financial performance’, Strategic Management Journal, 19(3), 269-290.
7. Finkle, T. A. (1998), ‘The relationship between Boards of Directors and Initial Public Offerings in the 
Biotechnology Industry’, Entrepreneurship Theory and Practice, 22(3), 5-29.
8. Jensen, M. C. & Meckling, W. H. (1976), ‘Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership 
Structure’, Journal of Financial Economics, 3(4), 305-360.
9. Loughran, T. & Ritter, J. R. (1995), ‘The new issues puzzle’, The Journal of Finance, 50(1), 23-52.
10. Ogden, J. P., Jen, F. C. & O’Connor, P. F. (2003), ‘Advanced Corporate Finance: Policies and Strategies’, New 
York: Pearson.
11. Thorsell, A. & Isaksson, A. (2014), ‘Directors Experience and the Performance of IPOs: Evidence from Sweden’, 
Australasian Accounting, Business and Finance Journal, 81(1), 3-24.
cho vay có tác động ngược chiều đến lợi 
nhuận, và quy mô cho vay thành viên 
có ý nghĩa bổ sung cho tác động ngược 
chiều của rủi ro tín dụng đến lợi nhuận. 
Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng QTDND 
cần thực hiện tốt việc quản lý các khoản 
cho vay khách hàng để kiểm soát tốt rủi 
ro tín dụng, qua đó tối thiểu hóa hoặc 
triệt tiêu những tác động tiêu cực của rủi 
ro tín dụng nhằm đảm bảo mục tiêu lợi 
nhuận của QTDND, có thể là chuẩn hóa 
nội dung và quy trình thẩm định trước cho 
vay, hay tăng cường các biện pháp khác 
nhau trong việc kiểm tra sử dụng vốn, 
hay công tác lưu trữ thông tin lịch sử giao 
dịch của khách hàng vay,... Đặc biệt hơn 
là QTDND cần tập trung tăng cường mở 
rộng quy mô cho vay thành viên để góp 
phần kiểm soát tốt hơn rủi ro tín dụng và 
khi đó lợi nhuận sẽ gia tăng đáng kể hơn. 
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn gợi ý 
rằng QTDND cần tận dụng tích cực lợi thế 
kinh tế về quy mô, tăng cường các biện 
pháp quản lý chi phí (chẳng hạn như tinh 
giản bộ máy quản lý, sắp xếp hợp lý các 
phòng ban,...) nhằm tiết kiệm chi phí để 
qua đó thực hiện được mục tiêu gia tăng 
lợi nhuận 
tiếp theo trang 74
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tuyên truyền 
nhằm nâng cao nhận thức của các TCTD 
PNH về phát triển mô hình quản trị rủi 
ro đối với hoạt động tín dụng chuyên 
biệt: thực hiện các nghiên cứu chuyên 
sâu về các mô hình quản trị rủi ro đối với 
hoạt động tín dụng tiêu dùng, cho thuê 
tài chính, bao thanh toán; tổ chức các hội 
thảo, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm từ 
các tổ chức quốc tế để các TCTD PNH 
trong nước có thể tiếp nhận và gợi mở mô 
hình phát triển mới.
- Phát triển các yếu tố hạ tầng cần thiết 
để tạo thuận lợi cho các công ty TC và 
công ty CTTC phát triển các mô hình quản 
trị rủi ro chuyên biệt: như phát triển cơ 
sở hạ tầng thông tin về khách hàng (bao 
gồm cả cá nhân và doanh nghiệp), các tổ 
chức hoạt động trong lĩnh vực thông tin tín 
dụng (hiện gần như chỉ có một mình CIC 
hoạt động trong lĩnh vực này). 
tiếp theo trang 65

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_phat_trien_cac_cong_ty_tai_chinh_va_cho_thue_tai.pdf