Thực trạng nhiễm độc chì của người lao động làng nghề tái chế nhôm Bình Yên tỉnh Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: mô tả thực trạng nhiễm độc chì của người lao động tại làng nghề tái chế nhôm
Bình Yên tỉnh Nam Định và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp:
nghiên cứu mô tả cắt ngang từ 2015 - 2016. 418 người lao động từ 18 - 60 tuổi được lựa chọn
ngẫu nhiên để tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp phổ hấp thu nguyên tử bằng lò
grafit (GFAAS) để xác định hàm lượng chì trong máu của người lao động. Đánh giá tình trạng
nhiễm độc theo Thông tư 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế. Kết quả: thực trạng
nhiễm độc chì: 88,3% người lao động có hàm lượng chì máu < 40="" µg/dl="" (mức="" an="" toàn);="">
người lao động có hàm lượng chì máu từ 40 - < 80="" µg/dl="" (nhiễm="" độc="" mạn="" tính);="" 0,3%="" người="">
động có hàm lượng chì máu > 80 µg/dl (nhiễm độc cấp tính). Yếu tố liên quan: người có tuổi
nghề 6 - 10 năm nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nhóm có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; có tuổi
nghề ≥ 11 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần.
Người lao động làm việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc
chì 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm. Kết luận: tỷ lệ
nhiễm độc chì 11,7% (đa số nhiễm độc mạn tính). Nguy cơ nhiễm độc chì tăng theo tuổi nghề
và phụ thuộc vào công đoạn sản xuất của quy trình tái chế nhôm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng nhiễm độc chì của người lao động làng nghề tái chế nhôm Bình Yên tỉnh Nam Định
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 52 THỰC TRẠNG NHIỄM ĐỘC CHÌ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ NHÔM BÌNH YÊN TỈNH NAM ĐỊNH Đỗ Minh Sinh*; Vũ Thị Thúy Mai* TÓM TẮT Mục tiêu: mô tả thực trạng nhiễm độc chì của người lao động tại làng nghề tái chế nhôm Bình Yên tỉnh Nam Định và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang từ 2015 - 2016. 418 người lao động từ 18 - 60 tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên để tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp phổ hấp thu nguyên tử bằng lò grafit (GFAAS) để xác định hàm lượng chì trong máu của người lao động. Đánh giá tình trạng nhiễm độc theo Thông tư 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế. Kết quả: thực trạng nhiễm độc chì: 88,3% người lao động có hàm lượng chì máu < 40 µg/dl (mức an toàn); 11,4% người lao động có hàm lượng chì máu từ 40 - < 80 µg/dl (nhiễm độc mạn tính); 0,3% người lao động có hàm lượng chì máu > 80 µg/dl (nhiễm độc cấp tính). Yếu tố liên quan: người có tuổi nghề 6 - 10 năm nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nhóm có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; có tuổi nghề ≥ 11 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. Người lao động làm việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc chì 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm. Kết luận: tỷ lệ nhiễm độc chì 11,7% (đa số nhiễm độc mạn tính). Nguy cơ nhiễm độc chì tăng theo tuổi nghề và phụ thuộc vào công đoạn sản xuất của quy trình tái chế nhôm. * Từ khóa: Nhiễm độc chì; Tái chế kim loại; Làng nghề; Người lao động. Reality of Lead Poisoning in Workers in Binhyen Aluminum Recycling Village in Namdinh Province Summary Objectives: To describe the current status of lead poisoning in workers in Binhyen aluminum recycling village in Namdinh province and find out some related factors. Subjects and methods: A cross-sectional study was conducted from 2015 - 2016. There were 418 workers aged 18 - 60 years who were randomly selected to participate in the study. Using atomic absorption spectrometry (GFAAS) to determine the level of lead in the blood of workers. Assessment of poisoning status in accordance with Circular 15/2016/TT-BYT dated 15 May 2016 of Ministry of Health. Results: Lead poisoning: 88.3% of workers had blood lead content < 40 μg/dL (safety level); 11.4% of employees had blood lead content of 40 - < 80 μg/dL (chronic poisoning); 0.3% of workers had blood lead levels > 80 μg/dL (acute poisoning). Relevant factors: workers with 6 - 10 years of occupational exposured to lead poisoning were 7.9 times as high as those who with the 5 years of occupational age. Workers with over 11 years of occupational exposure to lead poisoning were 3.2 times as high as those who with the 6 - 10 years of occupational age. * Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Minh Sinh (minhsinh82@gmail.com) Ngày nhận bài: 17/04/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 16/06/2018 Ngày bài báo được đăng: 09/07/2018 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 53 Workers working in aluminum casting, aluminum rolling and molding had a lead poisoning risk of only 30% compared with the risk of lead poisoning of aluminum workers. Conclusions: The results showed that lead poisoning was 11.7% (most of which were chronic poisoning). The risk of lead poisoning increases with age and depends on the manufacturing process of the aluminum recycling process. * Keywords: Lead poisoning; Metal recycling; Handicraft villages; Workers. ĐẶT VẤN ĐỀ Tái chế kim loại (TCKL) có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, phương thức và công nghệ sản xuất hiện nay tại các làng nghề, cơ sở tái chế kim loại vẫn còn lạc hậu, sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, không tập trung. Thực trạng trên đã gây ra bất lợi về điều kiện lao động tại các khu vực này. Người lao động (NLĐ) phải thường xuyên tiếp xúc với yếu tố nguy hiểm và có hại trong sản xuất như nhiệt độ cao, tiếng ồn lớn, vi khí hậu không đảm bảo, nhiều bụi và hơi khí độc hại [1, 7]. Bên cạnh đó một vấn đề cũng rất đáng quan tâm hiện nay tại các làng nghề TCKL là ô nhiễm môi trường lao động (MTLĐ) do kim loại nặng, trong đó phổ biến nhất là kim loại chì. Nghiên cứu tại làng nghề TCKL màu Đông Mai và Nghĩa Lộ tỉnh Hưng Yên cho thấy có tới 85,7% số mẫu đo có nồng độ hơi chì trong không khí vùng làm việc vượt tiêu chuẩn vệ sinh lao động (TCVSLĐ) [3]. Nồng độ hơi chì trung bình trong môi trường làm việc tại làng nghề Bình Yên tỉnh Nam Định là 0,7 mg/m3, cao hơn 13,8 lần so với TCVSLĐ và có tới 70% số mẫu đo có nồng độ chì vượt TCVSLĐ [4]. Với tình hình trên cho thấy cần phải có nghiên cứu đánh giá thực trạng nhiễm độc chì của NLĐ tại các làng nghề TCKL, từ đó có thể xác định quy mô cũng như nguyên nhân của vấn đề và đề xuất các giải pháp can thiệp phù hợp, khả thi nhằm nâng cao sức khỏe cho NLĐ tại khu vực này. Nghiên cứu này triển khai với mục tiêu: Mô tả thực trạng nhiễm độc chì của NLĐ làng nghề Bình Yên tỉnh Nam Định và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì của NLĐ. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu. * Đối tượng nghiên cứu: - Tiêu chuẩn lựa chọn: NLĐ tham gia vào quá trình sản xuất tái chế nhôm tại làng Bình Yên, có độ tuổi từ 18 - 60, thời gian lao động tại làng nghề tối thiểu 01 năm. - Tiêu chuẩn loại trừ: NLĐ không đồng ý tham gia nghiên cứu, nghỉ việc trong thời gian nghiên cứu. * Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành từ 2015 - 2016 tại làng nghề tái chế nhôm Bình Yên, xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. 2. Phương pháp nghiên cứu. * Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 54 * Mẫu và phương pháp chọn mẫu: Công thức tính cỡ mẫu: áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ: 2)2/1( 2 )( )1( p ppZn ε α − = − Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu; Z1-α/2: giá trị Z thu được từ bảng Z tương ứng với giá trị α; trong nghiên cứu này lấy Z = 1,96 với α = 0,05; p: ước lượng tỷ lệ nhiễm độc chì của NLĐ, theo nghiên cứu trước chọn p = 0,29 [2]; ε: mức độ chính xác tương đối, trong nghiên cứu này chọn = 0,15. Thay vào công thức trên tính được n = 418 người. * Phương pháp chọn mẫu: phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn: Bước 1: lập danh sách toàn bộ NLĐ từ 18 - 60 tuổi tại làng Bình Yên vào phần mềm SPSS (1.003 người do địa phương cung cấp). Bước 2: sử dụng phần mềm SPSS 22.0 lựa chọn ngẫu nhiên 418 người từ tổng số NLĐ bằng lệnh: Select cases/random sample of cases. * Kỹ thuật xét nghiệm định lượng hàm lượng chì trong máu: Kỹ thuật lấy máu (theo hướng dẫn của Bộ Y tế): tiến hành vô khuẩn, lấy 10 ml máu tĩnh mạch. Mẫu máu được bảo quản theo thường quy và chuyển về labo xét nghiệm. Mẫu máu được các kỹ thuật viên của Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn - Nam Định lấy. Xét nghiệm thực hiện tại Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Nam Định. Sử dụng phương pháp phổ hấp thu nguyên tử bằng lò grafit (GFAAS) để xác định hàm lượng chì trong máu. Sử dụng máy quang phổ hấp thụ nguyên tử ZEEnit 700P (Analytik-Jena, Đức, năm 2012). Máy có độ chính xác bước sóng ≤ ± 0,3 nm, độ ổn định ≤ 3%, độ hấp thu ≥ 0,25 Abs. Đánh giá tình trạng nhiễm độc theo phụ lục 8 tại Thông tư 15/2016/TT-BYT ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Y tế. Phân loại nhiễm độc chì: nhiễm độc cấp tính chì vô cơ khi chì huyết > 80 µg/dl; nhiễm độc mạn tính chì vô cơ khi chì huyết > 40 µg/dl. * Quản lý, xử lý và phân tích số liệu: Số liệu sau khi được thu thập được làm sạch và nhập bằng phần mềm EpiData 3.1. Số liệu xử lý bằng phần mềm SPSS trước khi đưa vào phân tích. Sử dụng tần số, tỷ lệ phần trăm và bảng để tóm tắt biến định tính như: giới, công đoạn sản xuất Sử dụng mô hình hồi quy logistic để tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng nhiễm độc chì với các biến độc lập. * Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu này đã được xem xét, nhận xét và chấp thuận về đạo đức và khoa học của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định. Việc triển khai các hoạt động của nghiên cứu đảm bảo đúng nguyên tắc của đạo đức nghiên cứu trong y học: tự nguyện, an toàn và bình đẳng. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 55 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu. Bảng 1: Một số đặc điểm của NLĐ tái chế nhôm tại Bình Yên (n = 418). Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) Tốt nghiệp tiểu học 35 8,3 Tốt nghiệp trung học cơ sở 305 73,0 Trình độ học vấn Tốt nghiệp trung học phổ thông 78 18,7 Nam 190 45,5 Giới tính Nữ 228 54,5 Có 57 13,6 Tập huấn về an toàn vệ sinh lao động Không 361 86,4 ≤ 5 năm 125 29,9 6 - 10 năm 167 40,0 Nhóm tuổi nghề ≥ 11 năm 126 30,1 ≤ 30 tuổi 69 16,5 31 - 40 tuổi 137 32,8 Nhóm tuổi đời 41 - 60 tuổi 212 50,7 Tổng số có 418 NLĐ tham gia nghiên cứu, trong đó nữ 54,5%. 86,4% NLĐ chưa được tập huấn về an toàn vệ sinh lao động trước khi làm việc. 2. Thực trạng nhiễm độc kim loại chì của NLĐ. Bảng 2: Phân loại mức độ nhiễm độc chì của NLĐ (n = 418). Hàm lượng chì máu Tình trạng nhiễm độc Số lượng Tỷ lệ (%) < 40 µg/dl Bình thường 369 88,3 40 - < 80 µg/dl Nhiễm độc mạn tính 48 11,4 > 80 µg/dl Nhiễm độc cấp tính 1 0,3 Kết quả phân tích cho thấy 11,7% NLĐ có hàm lượng chì trong máu > 40 µg/dl (mức được coi bị nhiễm độc). Trong đó, số NLĐ bị nhiễm độc mạn tính chiếm đa số (11,4%), chỉ duy nhất 1 NLĐ được xác định bị nhiễm độc cấp tính. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 56 3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì. Bảng 3: Mô hình hồi quy logistic mô tả nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ với các yếu tố liên quan. Biến số Đặc tính OR 95% khoảng tin cậy Giá trị p Nam 1 - - Giới tính Nữ 0,6 0,3 - 1,4 > 0,05 ≤ 8 giờ/ngày 1 - - Thời gian làm việc > 8 giờ/ngày 0,8 0,4 - 1,7 > 0,05 ≤ 5 năm 1 - - 6 - 10 năm 7,9 2,6 - 24,6 < 0,05 Tuổi nghề ≥ 11 năm 3,2 1,5- 6,9 < 0,05 Cô nhôm 1 - - Công đoạn sản xuất Khác 0,3 0,1 - 0,6 < 0,05 Giá trị “p” của kiểm định Omnibus test < 0,05 Giá trị “p” của kiểm định Hosmer và Lemeshow test > 0,05 Sau khi đã kiểm soát các yếu tố nhiễu bằng mô hình hồi quy logistic, kết quả cho thấy chỉ có tuổi nghề và vị trí làm việc trong lĩnh vực tái chế nhôm ảnh hưởng đến nguy cơ nhiễm độc chì. Những người có tuổi nghề 6 - 10 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nhóm người có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; người có tuổi nghề ≥ 11 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. NLĐ làm việc ở các công đoạn khác (đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình) có nguy cơ nhiễm độc chì chỉ bằng 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm. BÀN LUẬN 1. Thực trạng nhiễm độc kim loại chì. Chì có tác dụng không tốt về sinh lý đối với cơ thể, nồng độ chì máu toàn phần phần bình thường ≤ 10 µg/dl, nồng độ lý tưởng 0 µg/dl. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu tại làng Bình Yên cho thấy 53,7% NLĐ tại đây có hàm lượng chì máu > 10 µg/dl (mức bắt đầu có thể gây hại cho cơ thể). Trong đó, tỷ lệ NLĐ được xác định bị nhiễm độc mạn tính chiếm 11,4% (hàm lượng chì máu > 40 µg/dl), thậm chí đã xuất hiện NLĐ bị nhiễm độc chì cấp tính (hàm lượng chì máu > 80 µg/dl). Đặt trong mối tương quan với các nghiên cứu khác nhận thấy, thực trạng nhiễm độc chì ở NLĐ tại làng Bình Yên cao hơn nhiều so với làng Văn Môn, tỉnh Bắc Ninh (tỷ lệ NLĐ bị nhiễm độc chì 0%) [5], nhưng không nghiêm trọng như ở NLĐ tại một số làng nghề đúc đồng khu vực miền Trung (hàm lượng chì máu toàn phần trung bình 185,2 ± 83,6 µg/dl) [2] và tình trạng nhiễm độc chì ở NLĐ tại làng nghề T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 57 tái chế ắc quy Đông Mai, tỉnh Hưng Yên [6]. Sự khác biệt này có thể được lý giải như sau: - Thứ nhất, do sự khác biệt về phương pháp xác định nồng độ chì. Nghiên cứu tại Bình Yên cũng như làng Đông Mai tỉnh Hưng Yên và một số làng nghề đúc đồng ở khu vực miền Trung xác định nồng độ chì trong máu (xác định tình trạng nhiễm độc chì vô cơ) bằng phương pháp phổ hấp thu nguyên tử bằng lò grafit. Mặc dù đây là phương pháp xâm lấn, nhưng thực hiện đơn giản, có độ tin cậy và chính xác cao. Trong khi đó nghiên cứu tại Văn Môn lại xác định nồng độ chì trong nước tiểu (xác định tình trạng nhiễm độc chì hữu cơ) bằng phương pháp hấp thụ qua cột nhựa trao đổi ion. Để thực hiện được phương pháp này cần lấy nước tiểu trong vòng 24 giờ. Phương pháp này có thể dẫn đến nhiều sai số, vì rất khó thu được toàn bộ lượng nước tiểu của 1 người trong vòng 24 giờ (đặc biệt những người từ nơi khác đến). - Thứ hai, do sự khác biệt về loại hình sản xuất. Mặc dù cùng là TCKL, tuy nhiên quá trình tái chế nhôm không cần nguyên liệu là chì (chì chỉ phát sinh từ quá trình cô nhôm). Trong khi đó quá trình sản xuất tái chế, chế tác đồng lại cần nguyên liệu đầu vào là chì. Để chống cháy và chống dính cho khuôn đúc cần thực hiện công đoạn sơn khuôn bằng bột than hay bột chì. Bên cạnh đó chì cũng có thể đúc kèm với đồng để tạo ra hợp kim đồng - chì. Làng Đông Mai tỉnh Hưng Yên thực hiện tái chì từ ắc quy bằng phương pháp thủ công. Theo thiết kế, trong một bình ắc quy chì, vật liệu chứa chì chiếm khoảng 70% trọng lượng ắc quy. Do đó, hàm lượng hơi chì trong không khí vùng làm việc của các làng nghề trên rất cao. 2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm độc kim loại chì. Đánh giá tình trạng nhiễm độc chì theo một số đặc điểm cá nhân của NLĐ nhận thấy mặc dù không có mối liên quan giữa giới tính, thời gian làm việc trong ngày và tuổi đời với tình trạng nhiễm độc, nhưng tuổi nghề và công đoạn sản xuất có liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì. Những người có tuổi nghề càng cao, nguy cơ nhiễm độc chì càng cao, NLĐ làm việc tại công đoạn cô nhôm (công đoạn duy nhất phát sinh ra chì trong quy trình tái chế nhôm) có nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nguy cơ nhiễm độc chì của những người làm việc ở các công đoạn khác. Tuổi nghề và công đoạn cô nhôm là các yếu tố liên quan trực tiếp đến liều tiếp xúc và hiệu quả tiếp xúc với hơi chì trong MTLĐ. Tuổi nghề càng cao, thời gian phơi nhiễm với hơi chì càng dài, làm việc ở công đoạn có phát sinh hơi chì thì lượng tiếp xúc với hơi chì càng nhiều, từ đó dẫn đến nguy cơ nhiễm độc chì càng cao. Kết quả cuối cùng của dây chuyền này là làm gia tăng nguy cơ nhiễm độc chì ở NLĐ. Tuổi nghề là một trong những yếu tố dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu trước đây. Sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến để dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ tại nhà máy luyện kim ở Vele - Macedonia, Stoleski. S và CS nhận thấy hệ số hồi quy của tuổi nghề trong mô hình là 0,42 với p < 0,05. Với kết quả thu được, các tác giả kết luận tuổi nghề làm việc là một yếu tố dự đoán rất tốt T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 58 cho nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ [10]. Một báo cáo khác tại Addis Ababa (Ethiopia) cũng cho thấy hàm lượng chì trong nước tiểu của NLĐ gia tăng theo tuổi nghề. Cụ thể: hàm lượng chì trong nước tiểu (δ-ALA (μg/ml)) của người có tuổi nghề ≤ 10 năm, từ 11 - 20 năm; 21 - 25 năm và > 25 năm lần lượt là 5,4 μg/ml; 14,5 μg/ml; 19,0 μg/ml và 23,4 μg/ml. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [8]. Bên cạnh tuổi nghề, công đoạn sản xuất cũng được xác định là một trong những yếu tố dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì. Theo kết quả phân tích, tỷ lệ nhiễm độc chì ở NLĐ tại công đoạn cô nhôm là 25,4%, cao hơn công đoạn còn lại. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu tại làng Văn Môn, tỉnh Bắc Ninh. Do đó, tình trạng nhiễm độc kim loại nặng ở NLĐ tại công đoạn nấu kim loại cao hơn có ý nghĩa thống kê so với NLĐ tại các công đoạn còn lại [5]. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do công đoạn nấu kim loại (cô nhôm) là nguồn gây phát sinh ra chì duy nhất trong quy trình tái chế. Nguyên liệu đầu vào của các làng nghề tái chế kim loại rất đa dạng, khó kiểm soát, không rõ nguồn gốc. Quy trình công nghệ tái chế thủ công, hệ thống lò nung thiết kế không theo tiêu chuẩn đã làm phát tán hơi chì ra ngoài môi trường. Kết hợp với điều kiện vi khí hậu không đảm bảo (tốc độ chuyển động không khí thấp, độ ẩm không khí cao) đã làm hơi chì tồn lưu lâu hơn trong MTLĐ. Từ đó có thể thâm nhiễm vào cơ thể NLĐ thông qua đường hô hấp, tiêu hóa, da và niêm mạc. Mặc dù tuổi nghề và công đoạn sản xuất là hai yếu tố có thể tiên lượng cho nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ tại Bình Yên, tuy nhiên một điều chắc chắn rằng ngoài hai yếu tố trên vẫn còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến nguy cơ nhiễm độc chì. Nhận định này đã được chứng mình từ kết quả phân tích mô hình hồi quy. Tỷ lệ dự đoán đúng biến thiên nguy cơ nhiễm độc chì theo tuổi nghề và công đoạn sản xuất là 88,6%. Mặc dù xác suất dự đoán đúng của mô hình cao, vẫn có 11,4% biến thiên còn lại mà mô hình chưa giải thích được. Chì có thể xâm nhập vào cơ thể bằng tiêu hóa [9], do đó thói quen ăn uống, thực phẩm và nguồn nước sử dụng có thể ảnh hưởng đến hàm lượng chì trong cơ thể. Để có mô hình dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì toàn diện, nghiên cứu tiếp theo nên đề cập đến biến phơi nhiễm và biến gây nhiễu hơn. KẾT LUẬN - Về thực trạng nhiễm độc chì: qua nghiên cứu 410 NLĐ tái chế nhôm từ 18 - 60 tuổi tại làng nghề Bình Yên, tỉnh Nam Định cho thấy tỷ lệ bị nhiễm độc chì 11,7%, trong đó tỷ lệ nhiễm độc mạn tính 11,4%; tỷ lệ nhiễm độc cấp tính 0,3%. - Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì: nguy cơ nhiễm độc chì tăng theo tuổi nghề, người có tuổi nghề 6 - 10 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nhóm người có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; người có tuổi nghề ≥ 11 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. NLĐ làm việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc chì chỉ bằng 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 59 Với thực trạng trên, cần tiến hành điều trị giải ngộ độc chì cho người bị nhiễm độc. Về lâu dài, cần tiến hành các chương trình can thiệp để giảm nồng độ kim loại chì trong MTLĐ tại làng Bình Yên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Liên Hương. Nghiên cứu điều kiện làm việc và sức khỏe người lao động một số làng nghề. Tạp chí Y học Thực hành. 2005, 10, tr.39-43. 2. Vê Văn Khoa, Hoàng Trọng Sĩ. Tình trạng sức khỏe - bệnh tật của người lao động tại một số làng nghề đúc đồng ở khu vực miền Trung. Tạp chí Bảo hộ Lao động. 2015, 4, tr.15-20. 3. Trần Đắc Phu, Đặng Anh Ngọc. Kết quả nghiên cứu đánh giá ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề tái chế kim loại màu tỉnh Hưng Yên. Tạp chí Y học Thực hành. 2011, 787 (10), tr.49-53. 4. Đỗ Minh Sinh, Phạm Thị Kiều Anh, Ngô Thị Nhu và CS. Thực trạng môi trường lao động tại làng nghề tái chế nhôm Bình Yên xã Nam Thanh - Nam Trực - Nam Định. Tạp chí Y học Thực hành. 2017, 1 (1032), tr.119-122. 5. Trần Văn Thiện, Nguyễn Thị Thùy Dương, Trần Văn Hưởng và CS. Một số đặc điểm và tình hình thâm nhiễm một số kim loại nặng ở người lao động tại làng nghề tái chế kim loại xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Tạp chí Y học Việt Nam. 2016, 4 (1), tr.109-114. 6. Lỗ Văn Tùng, Doãn Ngọc Hải, Nguyễn Đức Sơn. Tình trạng nhiễm độc chì ở người lao động tại làng nghề tái chế ắc quy Đông Mai, Hưng Yên năm 2015. Tạp chí Y học dự phòng. 2016, 11 (184), tr.129-132. 7. Adaramodu A.A, Osuntogun A.O, Ehi-Eromosele. Heavy metal concentration of surface dust present in e-waste components: The westminister electronic market, Lagos case study. Resources and Environment. 2012, 2 (2), pp.9-13. 8. Kemal Ahmed, Gonfa Ayana, Ephrem Engidawork. Lead exposure study among workers in lead acid battery repair units of transport service enterprises, Addis Ababa, Ethiopia: a cross-sectional study. Journal of Occupational Medicine and Toxicology. 2008, 3 (1), pp.1-8. 9. National Health and Medical Research Council - Australian Government. Evidence on the Effects of Lead on Human Health. 2015. 10. S. Stoleski, J.Karadzinska-Bislimovska, E. Stikova et al. Adverse effects in workers exposed to inorganic lead. Arh Hig Rada Toksikol. 2008, 59 (1), pp.19-29.
File đính kèm:
- thuc_trang_nhiem_doc_chi_cua_nguoi_lao_dong_lang_nghe_tai_ch.pdf