Thực trạng nghiện internet của thanh thiếu niên Việt Nam và một số yếu tố liên quan
Đặt vấn đề: Hiện nay Internet đã trở thành một công cụ thông tin phổ biến, bên cạnh đó, việc sử dụng internet quá mức có xu hướng tăng trong đối tượng thanh thiếu niên với những tác động tiêu cực về sức khỏe và xã hội. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Mô tả thực trạng nghiện Internet ở thanh thiếu niên và 2) Phân tích một số yếu tố liên quan đến nghiện Internet ở thanh thiếu niên.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng thang đo mức độ nghiện Internet được tiến hành trên 566 thanh thiếu niên từ 15 đến 25 tuổi có sử dụng Internet
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng nghiện internet của thanh thiếu niên Việt Nam và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng nghiện internet của thanh thiếu niên Việt Nam và một số yếu tố liên quan
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn4 THỰC TRẠNG NGHIỆN INTERNET CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Đặng Kim Anh1, Nguyễn Thị Huyền Trang1, Trần Đình Thơ2, Trần Trọng Nghĩa3, Trần Trung Kiên1, Trần Vân Anh1, Trần Thanh Tùng1, Trần Xuân Bách1 1. Đại học Y Hà Nội 2. Bệnh viện Việt Đức 3. Đại học Y tế Công cộng TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay Internet đã trở thành một công cụ thông tin phổ biến, bên cạnh đó, việc sử dụng internet quá mức có xu hướng tăng trong đối tượng thanh thiếu niên với những tác động tiêu cực về sức khỏe và xã hội. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Mô tả thực trạng nghiện Inter- net ở thanh thiếu niên và 2) Phân tích một số yếu tố liên quan đến nghiện Internet ở thanh thiếu niên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng thang đo mức độ nghiện Internet được tiến hành trên 566 thanh thiếu niên từ 15 đến 25 tuổi có sử dụng Internet. Kết quả: 21,2% đối tượng nghiện Intnernet, không có sự khác biệt ở hai giới. Những người học có trình độ học vấn là đại học so với trung học phổ thông (OR=2.28; 95%CI: 1.2 – 4.32), có các vấn đề sức khỏe như lo âu/buồn phiền (OR= 2.02; 95%CI: 1.09 – 3.71) và căng thẳng (OR= 1,28; 95%CI:1.14 – 1.44) có mối liên quan thuận với nghiện internet; những đối tượng hay chịu ảnh hưởng của bạn bè về hành vi lối sống (OR= 1.75; 95%CI=1.04 – 2.92), hoặc hay thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu trên mạng (OR= 4.09; 95%CI=1.86 – 8.99) cũng có xu hướng nghiện internet cao hơn. Kết luận: Tỷ lệ nghiện Internet cao trong thanh thiếu niên có sử dụng Internet. Can thiệp nghiện Internet trong nhóm thanh thiếu niên cần giải quyết đồng thời các nhu cầu sức khỏe thể chất và tinh thần liên quan, cũng như tiếp cận trên các nhóm đối tượng có ảnh hưởng tương tác cá nhân cao. Từ khóa: Nghiện, Internet, yếu tố liên quan, thực trạng, thanh thiếu niên, giới. SUMMARY PREVALENCE OF INTERNET ADDICTION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG VIETNAMESE ADOLESCENTS. Introduction: The drammatical increase of pathological internet use has caused many serious health problems; however, little is known about its prevalence and associated factors among Vietnamese adolescents. This study aimed to describe the prevalence of internet addiction among Vietnamese adolescents and identify some associated factors with internet addiction. Objectives: 1) Describe the prevalence of internet addiction among Vietnamese adolescents and 2) Analyzing some associated factors with internet addiction. Matenals and method: A cross-sectional survey was conducted using Internet Addiction Test (IAT) on 566 students who used Internet. Result: The results indicated that 21.2% of sample was internet addicted, no sexual difference was found. People who had university education (OR=2.28; 95%CI: 1.2 – 4.32), being anxiety/depression (OR= 2.02; 95%CI: 1.09 – 3.71) and suffered stress (OR= 1.28; 95%CI:1.14 – 1.44) were more likely to be internet addicted. In addition, students whose lifestyle were highly influenced by online friends were more likely to addict Internet than those being normally influenced (OR= 1.75; 95%CI=1.04 – 2.92). People who often try to do some activities introduced by online friends were also more likely to addict Internet than respondents who rarely or never do to those activities (OR= 4.09; 95%CI=1.86 – 8.99). Conclusion: The result indicated a high proportion of Internet addiction among Vietnamese adolescents. The associated factors discovered supplied initial evidences for coming intervention models which aims at reducing the Ngày nhận bài: 17/07/2016 Ngày phản biện: 20/07/2016 Ngày duyệt đăng: 28/07/2016 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 5 aforementioned prevalence. Keywords: Addiction, Internet, associated factors, prevalence, adolescent, gender. I. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU Sự xuất hiện của internet đã tạo ra một cuộc cách mạng hóa về công nghệ, giúp con người thay đổi cách tiếp cận với thế giới, phát triển những hình thức giải trí và giao lưu trực tuyến [1]. Hiện nay, trên toàn thế giới, ước tính có khoảng 3,2 tỷ người sử dụng Internet, chiếm khoảng 45% dân số thế giới [2]. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, bên cạnh những mặt lợi ích, việc tiếp cận gần hơn với internet sẽ tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho người sử dụng, đặc biệt là thanh thiếu niên, nhóm đối tượng có tỷ lệ sử dụng internet cao hiện nay [3]. Nghiện Internet có thể dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người sử dụng, ảnh hưởng tới gia đình và xã hội [4]. Nghiện Internet có thể gây ra sự bất thường trong cấu trúc não bộ, ảnh hưởng tới quá trình nhận thức [5]. Chính vì thế nghiện internet tại nhóm đối tượng này đã trở thành một mối quan tâm đáng kể cho gia đình và xã hội, một vấn đề y tế công cộng mang tính toàn cầu. [6, 7] Tỷ lệ người sử dụng internet trên thế giới đang gia tăng nhanh chóng qua các năm và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Ở Việt Nam, tỷ lệ người dân được tiếp cận Internet đã tăng đáng kể từ năm 1997 đến năm 2015, với 45% tổng dân số trong năm 2015 và phần lớn trong độ tuổi từ 15-24 tuổi (chiếm 38% vào năm 2014) [8]. Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng nghiện Internet ở lứa tuổi này là cần thiết để có thể đưa ra các biện pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm ảnh hưởng tiêu cực của chứng bệnh này. Tại Việt Nam dù đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này nhưng chủ yếu là những báo cáo lâm sàng [9, 10]. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm: Mô tả thực trạng nghiện Internet ở thanh thiếu niên và xác định một số yếu tố liên quan. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Thanh thiếu niên Việt Nam, tuổi từ 15 đến 25; hiện đang sống ở Việt Nam và đồng ý tham gia nghiên cứu. 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2015 trên Internet bằng bộ câu hỏi được xây dựng trực tuyến. 2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 2.4. Chọn mẫu và cỡ mẫu: 2.4.1. Phương pháp chọn mẫu Nghiên cứu áp dụng phương pháp RDS (Respondent- driven sampling). Đây là phương pháp dựa trên phương pháp chọn mẫu “Hòn tuyết lăn” (Snow ball), trong đó nhóm nghiên cứu lựa chọn một nhóm nòng cốt để điều tra, sau đó những người trong nhóm này sẽ giới thiệu những người khác trong mạng lưới của họ thông qua MXH hoặc Email, những người sau tiếp tục trả lời khảo sát và mời những người khác tham gia vào nghiên cứu cho đến khi số lượng người tham gia giảm và các đầu mối không tăng thêm. Nhóm nòng cốt trong nghiên cứu này bao gồm các học sinh, sinh viên từ một số trường đại học và trung học tại Hà Nội, sau đó đối tượng tham gia được mở rộng ra nhiều địa phương khác. 2.4.2. Cỡ mẫu Cỡ mẫu được ước tính theo công thức của Wejnert [11]: p(1-p) n = Z2 (1-α/2) ------------------------ DE (∆)2 Trong đó: P: Tỷ lệ thanh thiếu niên nghiện Internet (P=0,123 theo nghiên cứu trước đó tại Biên Hòa [12]). α: Mức ý nghĩa thống kê (α = 0,05) Z: Giá trị thu được từ bảng Z ứng với giá trị α được chọn (Z= 1,96). ∆: Mức sai lệch tuyệt đối (∆ = 0,05). DE: Hệ số thiết kế (Design effect). Chọn DE = 3 để đảm bảo lực mẫu. Thay số vào công thức ta tính được số cỡ mẫu cần thiết n = 498 (thanh thiếu niên). Cộng thêm 15% dự phòng bỏ cuộc không hoàn thành bộ câu hỏi, tổng cộng cỡ mẫu cần cho nghiên cứu là 573 thanh thiếu niên. 2.5. Công cụ và thang đo Thông tin thu thập bao gồm: Đặc điểm kinh tế-xã hội, chất lượng cuộc sống (EQ-5D-5L), hành vi nguy cơ (uống rượu, hút thuốc, hút shisha), nghiện internet và tương tác cá nhân trên MXH Facebook. Mối tương tác MXH bao gồm các thông tin về nói chuyện/gặp gỡ người mới quen qua MXH; ảnh hưởng tới hành vi, lối sống; đến địa điểm do bạn bè giới thiệu và thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu. 2.6. Xử lý và phân tích số liệu Dữ liệu được phân tích bằng Stata12.0. Thống kê mô tả bao gồm trung bình, độ lệch chuẩn, tần số và tỷ lệ phần trăm. Mô hình hồi quy logistic và tobit đa biến được áp dụng nhằm xác định một số yếu tố liên quan tới các hành vi nguy cơ và chất lượng cuộc sống của nam giới và nữ giới một cách riêng biệt. Thuật toán stepwise forward với giá trị ngưỡng p<0,2 được áp dụng nhằm chọn ra các biến đưa vào mô hình rút gọn. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1: Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn6 Tần số Tỷ lệ (%) Tuổi, Mean (SD) 21,5 (3,8) Giới tính Nam 220 38,9 Nữ 346 61,1 Trình độ học vấn ≤ THPT 29 5,1 > THPT 537 94,9 Tôn giáo Không 485 85,7 Khác 81 14,3 Tình trạng hôn nhân Độc thân/li dị/li thân/góa 427 75,4 Có người yêu/vợ chồng 139 24,6 Chỗ ở hiện tại Thuê nhà trọ 265 46,8 Ở ký túc xá 70 12,4 Ở với gia đình 179 31,6 Ở với họ hàng 43 7,6 Khác 9 1,6 Tổng 566 100,0 Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu được trình bày trong bảng 1. Trong tổng số 566 người trả lời, nữ giới chiếm 61,1%; độ tuổi trung bình của các đối tượng là 21,5 (SD=3,8). Có 94,9% đối tượng có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên, đa số không theo tôn giáo (85,7%). Có 75,4% đối tượng độc thân/li dị/li thân/góa. Phần lớn các đối tượng sống ở nhà trọ (46,8%) và ký túc xá (12,4%). Bảng 2: Chất lượng cuộc sống đối tượng nghiên cứu SL % Có vấn đề về đi lại 107 18,9 Có vấn đề về tự chăm sóc bản thân 51 9,0 Có vấn đề về thực hiện hoạt động hàng ngày 130 23,0 Đau đớn/khó chịu 276 48,8 Lo âu/Buồn phiền 427 75,4 TB SD Chỉ số EQ-5D 0,74 0,2 Chỉ số EQ-VAS 80,2 16,3 Bảng 2 và bảng 3 mô tả thông tin về chất lượng cuộc sống và tình trạng stress của đối tượng. Các vấn đề về chất lượng cuộc sống phổ biến bao gồm: lo âu/ buồn phiền (75,4%), đau đớn/khó chịu (48,8%), tình trạng stress đa số là không kiểm soát được những vấn đề quan trọng trong cuộc sống (82,5%); và đối mặt với những vấn đề khó khăn vượt quá khả năng (95,1%). Bảng 3: Tình trạng stress của đối tượng nghiên cứu SL % Không kiểm soát được những vấn đề quan trọng trong cuộc sống 467 82,5 Tự tin về khả năng của bản thân trong giải quyết vấn đề 15 2,7 Mọi thứ đang đúng hướng mình mong muốn 23 4,1 Đối mặt những vấn đề khó khăn vượt quá khả năng 538 95,1 TB SD Chỉ số stress tự cảm nhận 6,6 2,2 Biểu đồ 1 cho thấy, tỷ lệ đối tượng nghiện Internet là 21,2%; không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam (23,6%) và nữ (19,7%) (p=0,26). Biểu đồ 1: Thực trạng nghiện Internet của đối tượng theo giới P = 0.26 Biểu đồ 2: Ảnh hưởng cá nhân trên mạng xã hội tới thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu hay đăng trên mạng theo giới 43.0% 42.8% 42.9% 48.6% 50.5% 49.7% 8.4% 6.7% 7.4% 0% 25% 50% 75% 100% Nam Nữ Tổng Thường xuyên Thỉnh thoảng Biểu đồ 3: Ảnh hưởng cá nhân trên mạng xã hội tới JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 7 hành vi, lối sống, quan điểm của bản thân theo giới 69.5% 72.9% 71.6% 22.4% 21.2% 21.7% 8.1% 5.9% 6.7% 0% 25% 50% 75% 100% Nam Nữ Tổng Ảnh hưởng nhiều Ảnh hưởng trung bình Các yếu tố ảnh hưởng cá nhân trên mạng xã hội được tóm tắt tại biểu đồ 2 và 3. Có tới 57.1% các đối tượng trả lời rằng thường xuyên hoặc thỉnh thoảng thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu hay đăng trên mạng. Tuy nhiên chỉ có 6,7% cho rằng bạn bè trên mạng ảnh hưởng nhiều tới hành vi lối sống của bản thân họ. Sự khác biệt giữa giới nam và nữ không có ý nghĩa thống kê ( p = 0,65 và p = 0.55 tương ứng). 3.4. Các yếu tố liên quan tới nghiện Internet Bảng 4: Mô hình hồi quy đa biến rút gọn các yếu tố liên quan tới nghiện Internet Yếu tố Nghiện internet % OR 95%CI Trình độ học vấn (so với ≤ THPT) 15 2,7 Đại học 2.28* 1.20 - 4.32 Tôn giáo (Thờ cúng tổ tiên so với khác) 1.63 0.79 - 3.38 Có vấn đề về tự chăm sóc bản thân (so với không) 1.62 0.81 - 3.23 Lo âu/Buồn phiền (so với không) 2.02* 1.09 - 3.71 Chỉ số stress tự cảm nhận 1.28* 1.14 - 1.44 Bạn bè ảnh hưởng tới hành vi, lối sống, quan điểm của bản thân (so với ảnh hưởng ít/không) Trung bình 1.75* 1.04 - 2.92 Nhiều 2.16 0.98 - 4.76 Thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu hay đăng trên mạng (so với hiếm khi/không bao giờ) Thường xuyên trở lên 4.09* 1.86 - 8.99 Tổng 0.01 0.00 - 0.02 *p<0,05 Bảng 4 mô tả mô hình hồi quy đa biến rút gọn các yếu tố liên quan tới nghiện Internet. Những người có trình độ học vấn là đại học so với trung học phổ thông (OR=2.28; 95%CI: 1.2 – 4.32), có vấn đề về lo âu/buồn phiền (OR= 2.02; 95%CI: 1.09 – 3.71) và những người càng bị stress (OR= 1,28; 95%CI:1.14 – 1.44) thì có khả năng nghiện Internet cao hơn. Những đối tượng hay chịu ảnh hưởng của bạn bè về hành vi lối sống (OR= 1.75; 95%CI=1.04 – 2.92), hoặc hay thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu trên mạng (OR= 4.09; 95%CI=1.86 – 8.99) cũng có xu hướng nghiện internet cao hơn. IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức cao và không có sự khác biệt giữa hai giới. Kết quả cho thấy, tình trạng sức khỏe và các mối tương tác cá nhân trên mạng xã hội có mối tương quan với khả năng nghiện Internet. Đây là những bằng chứng cơ bản cho các can thiệp có định hướng đối tượng về hành vi sử dụng Internet của thanh thiếu niên ở Việt Nam trong tương lai. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên là 21,2%, cao hơn so với một khảo sát học sinh THCS tại Đồng Nai (12,3%) [12]. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cao hơn một số nước khác như: Hàn Quốc (2,8%) [13] hay Trung Quốc (11,7%) [14] và Hy Lạp là 11,6% [15]. Sự khác biệt này có thể do nghiên cứu của chúng tôi lấy mẫu từ chính nhóm đối tượng sử dụng Internet, dẫn đến tỷ lệ trong quần thể này cao hơn so với việc lấy mẫu trong quần thể chung như các nghiên cứu khác. Ngoài ra, việc sử dụng bộ công cụ chưa chuẩn hóa cũng là yếu tố gây ra sự khác biệt này [16]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, hệ số Cronbach’s alpha của bộ công cụ đo lường nghiện Internet được sử dụng là 0,8674, cho thấy độ nhất quán nội tại của bộ câu hỏi ở mức cao và có tính tin cậy trong việc đo lường mức độ nghiện Internet. Đây cũng là gợi ý để các nghiên cứu sau có thể tiến hành chuẩn hóa bộ công cụ cho phù hợp với thực tế ở từng địa phương. Nghiên cứu chỉ ra mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống, tương tác với bạn bè trên mạng xã hội với nghiện Internet. Những người có điểm stress cao có nguy cơ nghiện Internet cao hơn (OR= 1.28; 95%CI:1.14 – 1.44). Kết quả này có thể do nhóm đối tượng này hạn chế giao tiếp với bên ngoài, thay vào đó, sử dụng Internet như một công cụ giảm thiểu tình trạng căng thẳng, mệt mỏi, tương tự như nghiên cứu trước đó [17]. Điều này cũng đồng nhất với một nghiên cứu khác khi chỉ ra rằng những trẻ thanh thiếu niên chịu áp lực lớn về tâm lý, ví dụ như bạo lực từ phía gia đình thì có khả năng nghiện Internet cao hơn [18]. Bên cạnh đó, những người có vấn đề về lo âu/buồn phiền có nguy cơ nghiện Internet cao hơn, tương đồng với một số nghiên cứu khác V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn8 [13, 17]. Do mối quan tâm lớn nhất của nhóm đối tượng này là nguyên nhân gây ra những đau đớn/khó chịu đó; và việc sử dụng Internet có tác động tích cực, sẽ giúp họ làm giảm các mức độ trầm cảm, buồn phiền [1, 19]. Ngoài ra, những người chịu ảnh hưởng nhiều của bạn bè qua mạng xã hội về hành vi, lối sống, quan điểm, thử làm những hoạt động do bạn bè giới thiệu hay đăng trên mạng có nguy cơ nghiện Internet cao hơn. Điều này có thể được giải thích bởi mạng xã hội được tạo ra nhằm tăng sự tương tác và kết nối giữa những người sử dụng; với nhóm đối tượng chịu nhiều sự tác động này, thời gian truy cập mạng xã hội sẽ kéo dài hơn; kéo theo nguy cơ nghiện cũng cao hơn. Ngược lại tần suất sử dụng Internet cũng có liên quan đáng kể để mở rộng tương tác cá nhân [20] Kết quả nghiên cứu giúp gợi ý một số giải pháp làm giảm mức độ nghiện Internet. Thứ nhất, những ảnh hưởng bất lợi của việc sử dụng internet quá mức có thể được lồng ghép vào trong các môn học tại các trường học, giúp cho thanh thiếu niên có thể nhận thức được ảnh hưởng tiêu cực bằng biện pháp gián tiếp hoặc trực tiếp. Bên cạnh đó, cần khuyến khích động viên thanh thiếu niên đăng tải các thông điệp có ích, thúc đẩy các mối quan hệ bạn bè tốt, từ đó giúp hình thành những hành vi có lợi và nâng cao sức khỏe của thanh thiếu niên. Thứ hai, xây dựng môi trường học tập, vui chơi lành mạnh nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm stress ở nhóm đối tượng này. Nghiên cứu này còn một số hạn chế. Do đây là nghiên cứu cắt ngang nên các kết quả này không phản ánh được mối quan hệ nhân quả và chỉ đưa ra giả thuyết về sự ảnh hưởng của internet. Nghiên cứu dựa vào các thông tin tự khai báo nên có thể dẫn tới sai số nhớ lại. Bên cạnh đó, nghiên cứu được tiến hành thông qua chọn mẫu bằng phương pháp RDS nên dẫn tới không có tính đại diện cho cả quần thể người sử dụng internet tại Việt Nam. Cuối cùng, do đây là khảo sát được tiến hành trên mạng Internet nên có thể dẫn tới người trả lời không trả lời đúng với thực tế. Để khắc phục điều này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các câu hỏi kiểm tra chéo nhằm đảm bảo tính trung thực của câu hỏi. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên và người trưởng thành trên 15 tuổi khá cao, chiếm hơn một phần năm số người trả lời, không có sự khác biệt giữa hai giới. Các yếu tố liên quan được phát hiện phục vụ cho công tác xây dựng các mô hình can thiệp sau này. Nhà nước, các ban ngành, đoàn thể cũng như từng cá nhân cần có sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này nhằm giảm thiểu tác hại tiêu cực lên đời sống và xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. D. R. Thadani và C. M. K. Cheung (2011), Online Social Network Dependency: Theoretical Development and Testing of Competing Models, System Sciences (HICSS), 2011 44th Hawaii International Conference on, tr. 1-9. 2. Internet World Stats (2015), World Internet Users and 2015 Population Stats, truy cập ngày 10-10-2015, tại trang web www.internetworldstats.com/stats.htm. 3. Cimigo (4/2011), Vietnam NetCitizens Report 2011 on the use of the internet and the speed of development in Vietnam, Vietnam. 4. Y. Kim và các cộng sự. (2010), "The effects of Internet addiction on the lifestyle and dietary behavior of Korean adolescents", Nutr Res Pract. 4(1), tr. 51-7. 5. F. Lin và các cộng sự. (2012), "Abnormal white matter integrity in adolescents with internet addiction disorder: a tract-based spatial statistics study", PLoS One. 7(1), tr. e30253. 6. Chien Chou và Ming-Chun Hsiao (2000), "Internet addiction, usage, gratification, and pleasure experience: the Taiwan college students’ case", Computers & Education. 35(1), tr. 65-80. 7. J. Licwinko, E. Krajewska-Kulak và C. Lukaszuk (2011), "Internet addiction among academic youth in Bialystok", Progress in Health Sciences. 1(1), tr. 124+. 8. We Are Social (2014), "Báo cáo hàng năm thống kê số người sử dụng Internet ". 9. Le Minh Cong (2010), "Phối hợp điều trị tâm lý cho một trường hợp nghiện game online", Tạp chí Tâm lý học. 2. 10. Le Minh Cong (2009), Nghiện internet ở thanh thiếu niên, báo cáo qua ba trường hợp lâm sàng, Viện Tâm lý học Việt Nam. JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 9 11. Pham H. Wejnert C., Krishna N., et al. (2012), "Estimating Design Effect and Calculating Sample Size for Respondent-Driven Sampling Studies of Injection Drug Users in the United States", AIDS Behavior. 16(4), tr. 797-806. 12. Th.S Lê Minh Công (2011), "Tình trạng nghiện Internet ở học sinh trung học cơ sở tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai", Tạp chí Y tế Công cộng. 28, tr. 70-78. 13. Won Ju Hwang Yeong-Mi Ha (2014), "Gender differences in Internet addiction associated with psychological health indicators among adolescents using a national web-based survey", International Journal of mental health and addiction. 12(5), tr. 660-669. 14. Zhang X Li Y, Lu F, Zhang Q, Wang Y, "Internet addiction among elementary and middle school students in China: a nationally representative sample study", Cyberpsychol Behavior Social Network.2014. 17(2), tr. 111-116. 15. Frangos và các cộng sự. (2010), "Internet Addiction among Greek University Students: Demographic Associations with the Phenomenon, Using the Greek Version of Young's Internet Addiction Test", International Journal of Economic Sciences and Applied Research, 2010. 3(1). 16. Daria J Kuss Halley M Pontes, Mark D Griffiths (2015), "Clinical psychology of Internet addiction: a review of its conceptualization, prevalence, neuronal processes, and implications for treatment", Neuroscience and Neuroeconomics. 4, tr. 11-23. 17. Ahmet Akin và Murat İskender (2011), "Internet Addiction and Depression, Anxiety and Stress", International Online Journal of Educational Sciences. 3(1), tr. 138-148. 18. Park Soo Kyung, Kim Jae Yop và Cho Choon Bum (2008), "Prevalence of internet addiction and correlations with family factors among south korean adolescents", Adolescence. 43(172), tr. 895-909. 19. Shelia R. Cotten và các cộng sự. (2012), "Internet use and depression among older adults", Computers in Human Behavior. 28(2), tr. 496-499. 20. Kenneth L. Hacker và Robert Steiner (2001), "Hurdles of access and benefits of usage for internet communication", Communication Research Reports. 18(4), tr. 399-407.
File đính kèm:
thuc_trang_nghien_internet_cua_thanh_thieu_nien_viet_nam_va.pdf

