Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có

bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Hiện nay, chưa có

vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực

hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm cúm là cách bảo vệ duy nhất.

Để có thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống

cúm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 436 chủ hộ gia đình có chăn nuôi tại 3

huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

pdf 11 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
 96 
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH 
VỀ PHÒNG CHỐNG BỆNH CÚM A/H5N1 Ở NGƯỜI CỦA NGƯỜI DÂN 
TẠI 3 HUYỆN NAM ĐÔNG, A LƯỚI VÀ QUẢNG ĐIỀN 
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 
Lê Trung Quân, Phan Đăng Tâm, Hầu Văn Nam và cộng sự 
Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh Thừa Thiên Huế 
Tóm tắt nghiên cứu 
 Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có 
bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Hiện nay, chưa có 
vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực 
hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm cúm là cách bảo vệ duy nhất. 
Để có thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống 
cúm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 436 chủ hộ gia đình có chăn nuôi tại 3 
huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy: trên 80% người dân có biết về đường lây 
truyền chủ yếu; các triệu chứng mà người dân nhắc đến khi nghi bệnh là sốt 
(91,3%); ho (59,9%) và đau đầu (71,6%). Biện pháp rửa tay và không ăn thịt gia 
cầm ốm/chết được người dân nhắc nhiều nhất trong vệ sinh ăn uống để phòng 
bệnh. Tuy nhiên vẫn có tới 69,0% người dân có thái độ cho rằng rất ít nguy cơ 
xảy ra dịch. Khi có dịch thì có tới 98,9% sẽ báo cho cơ quan chức năng và chủ 
yếu là báo cho cán bộ thú ý (89,6%). Về thực hành thì có tới 42% chủ hộ chưa 
tiêm phòng cho đàn gia cầm của mình vì lý do tốn tiền (50,8%). Biện pháp vệ 
sinh ăn uống được họ thực hiện nhiều nhất là nấu chín kỹ thịt gia cầm (92,9%); 
không ăn thịt gia cầm và không ăn trứng lòng đào được thực hiện ít hơn (72,7%) 
và (66,7%). Đeo khẩu trang và đeo găng tay khi giết mổ được người dân thực 
hiện thấp (28,0% và 30,5%). Chuồng nuôi với quy mô nhỏ, thả rông và không 
đảm bảo quy trình kỹ thuật cao. Dựa vào kết quả nghiên cứu trên chúng tôi đã đề 
xuất tăng cường các biện pháp truyền thông, đặc biệt trên phương tiên thông tin 
đại chúng; thúc đẩy việc phối hợp giữa y tế, thúy y và chính quyền địa phương 
trong việc truyền thông thực hiện chăn nuôi và phòng bệnh hiệu quả. 
1. Đặt vấn đề 
Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có 
bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Bệnh do virut cúm 
A/H5N1 gây nên. Tình hình cúm A/H5N1 ở gia cầm và ở người có diễn biến rất 
phức tạp. Theo Tổ chức Y tế thế giới từ năm 2003 đến cuối năm 2013 đã ghi nhận 
tại 15 quốc gia trên thế giới có 648 người bị mắc bệnh cúm A/H5N1, trong đó có 
 97 
384 người tử vong (chiếm 59%). Ở Việt Nam từ năm 2003 đến nay đã xảy ra rất 
nhiều đợt dịch cúm trên gia cầm, đồng thời cũng có rất nhiều đợt cúm A/H5N1 trên 
người, ở gia cầm, chúng ta phải tiêu huỷ nhiều chục triệu con gia cầm, làm tổn hại 
kinh tế, làm ảnh hưởng không tốt cho môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. 
Số người mắc cúm gia cầm được ghi nhận ở Việt Nam là 127 đến nay ca được xác 
định, trong đó 64 ca tử vong (tỷ suất tử vong là 50%), đứng thứ ba trên thế giới 
(sau In-đô-nê-xi-a và Ai Cập). Trong tháng 01/2014 đã ghi nhận 02 trường hợp tử 
vong do cúm A/H5N1 tại tỉnh Bình Phước và Đồng Tháp, cả hai trường hợp đều có 
tiền sử tiếp xúc với gia cầm bệnh. 
Hiện nay, chưa có vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị 
đặc hiệu, vì vậy việc thực hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm 
cúm là cách bảo vệ duy nhất. Tại Thừa Thiên Huế, chưa có nhiều nghiên cứu về 
kiến thức, thái độ thực hành của người dân trong phòng chống cúm A/H5N1 và 
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hành phòng chống cúm, từ đó có 
thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống cúm 
trong thời gian tới. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thực trạng kiến 
thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người 
dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” . 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người 
của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
Chủ hộ có chăn nuôi gia cầm, hiện đang sinh sống tại 3 huyện Nam Đông, A 
Lưới và Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế. 
3.2. Thiết kế nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
3.3. Cỡ mẫu nghiên cứu 
Nghiên cứu này chúng tôi sử dụng công thức tính cỡ mẫu 
2
2
c
p)p(1Zn 
Trong đó: 
- n: Số đối tượng nghiên cứu 
 98 
- Z: với xác suất 95% có Z = 1,96 (có trong bảng Z) 
- p: ước đoán tỷ lệ hiểu biết đầy đủ về bệnh cúm A/H5N1 của chủ hộ gia đình. 
Chưa có nghiên cứu nào tại địa phương về kiến thức thái độ và thực hành nên 
chúng tôi ước đoán là p = 0,50 
- c: độ chính xác của nghiên cứu trên mẫu (sai số lựa chọn); chấp nhận c = 0,05 
Từ đó tính được n = 385 
Ước lượng thêm sai số 10%, nên làm tròn mẫu là 436. 
3.4. Chọn mẫu 
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên qua 2 giai đoạn: 
- Giai đoạn 1: Chọn xã nghiên cứu. Tại mỗi huyện (Nam Đông, A Lưới và 
Quảng Điền) chọn ngẫu nhiên 50% số xã. Tổng cộng có 22 xã được chọn 
nghiên cứu ( A Lưới 10 xã; Nam Đông 6 xã; Quảng Điền 6 xã) 
- Giai đoạn 2: Chọn đối tượng nghiên cứu. Ở mỗi xã được chọn vào nghiên 
cứu, lập danh sách hộ gia đình có chăn nuôi gia cầm, bốc thăm ngẫu nhiên 
chọn 20 hộ. Mỗi hộ phỏng vấn chủ hộ (nếu chủ hộ vắng mặt phỏng vấn người 
chăn nuôi khác trên 15 tuổi). 
3.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 
Tháng 5/2014. tại 3 huyện (Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền) 
3.6. Xử lý số liệu 
Nội dung của phiếu phỏng vấn được mã hóa, nhập vào máy tính và xử lý số 
liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 11.5. 
4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 
4.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu trong độ tuổi 20- 49 (64,1%), từ 50 tuổi trở 
lên chiếm 34,8%. Dân tộc Kinh chiếm phần lớn 45,2%, sau đó là Pa- kô 22,9%, 
Cơ-tu 18,1% thấp nhất là Tà-ôi 13,8%. Trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở 
lên chiếm 66,7%; có tới 6,2% mù chữ. 
Trong 436 người được chọn vào mẫu nghiên cứu thì người dân ở vùng A 
Lưới chiếm 45,6%, Nam Đông 27,5% còn lại Quảng Điền chiếm 26,8%. Phần 
lớn các hộ chăn nuôi có quy mô nhỏ, lẻ dưới 100 con chiếm 95,0% gần với kết 
quả nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 92,5%. Tập quán chăn nuôi gia cầm nhỏ 
lẻ đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phòng chống dịch cúm A/H5N1 như khó tập 
trung vệ sinh chuồng trại, ít quan tâm đến việc tiêm phòng cho gia cầm 
 99 
Người dân tiếp nhận được thông tin về bệnh cúm A/H5N1 nhiều nhất là ti-
vi (93,3%); tiếp đến là cán bộ y tế là 75,7%, loa, đài chiếm 47,9% , áp phích, tờ 
rơi: 43,8%, còn lại văn nghệ truyền thông chỉ chiếm 21,8%. Nghiên cứu của 
Nguyễn Đức Lợi cũng cho thấy: nguồn cung cấp thông tin từ ti vi, loa truyền 
thanh chiếm tỷ lệ cao nhất 45,8%, tiếp đến là cán bộ y tế xã, y tế thôn bản: 
24,9%, người nhà, người thân: 13,7%, tranh ảnh, áp phích, tờ rơi: 13,1%, còn lại 
là các nguồn khác: 2,6%. Như vậy có thể thấy kênh truyền thông quan trọng cần 
tập trung tuyên truyền đó là tivi, loa đài và cán bộ y tế. 
4.2. Kiến thức về phòng chống cúm A/H5N1 
Bảng 1: Kiến thức về đường lây 
Đường lây Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Tiếp xúc với gia cầm 387 88,8 
Ăn thịt gia cầm ốm, chết 343 78,7 
Khác 8 1,8 
Không biết 7 1,6 
Tỷ lệ người dân biết được đường lây bệnh cúm A/H5N1 khá cao, có đến 88,8% 
cho rằng bệnh lây qua tiếp xúc với gia cầm, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Phạm 
Ngọc Cương năm 2009 tại Ninh Bình là 98,2%[8] và nghiên cứu của Đặng Quốc Việt 
[10] là 75,4%, tỷ lệ người dân không biết đường lây nào là 1,6%, tỷ lệ này thấp hơn 
trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt (3,3%). Tỷ lệ cho rằng lây do ăn thịt gia cầm 
ốm, chết là 78,7% cũng là một kết quả khá cao, cho thấy nhận thức về đường lây bệnh 
cúm A/H5N1 của người dân trong thời gian vừa qua đã được nâng lên rõ rệt. 
Bảng 2: Kiến thức về triệu chứng cúm 
Triệu chứng cúm Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Sốt 398 91,3 
Ho 261 59,9 
Đau họng 121 27,8 
Đau đầu 312 71,6 
Đau cơ 74 17,0 
Mệt mỏi 128 29,4 
Triệu chứng khác 3 0,7 
Không biết 18 4,1 
 100 
Tỷ lệ người dân biết được triệu chứng thường gặp bệnh cúm A/H5N1 khá cao: 
sốt (91,3%), đau đầu (71,6%) và ho (59,9%), khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
Phạm Ngọc Cương [8] lần lượt là 95,5%, 80,5% và 72,3%, nghiên cứu của Đặng 
Quốc Việt [10] cho kết quả thấp hơn với sốt chiếm tỷ lệ 77,1%, việc nhận biết được 
những triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh với tỷ lệ khá cao thuận lợi cho công tác phát 
hiện sớm, sàng lọc và cách ly kịp thời, tránh dịch lây lan ra cộng đồng. 
Bảng 3: Kiến thức về biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh 
Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Rửa tay 395 90,6 
Không ăn thịt gia cầm ốm chết 382 87,6 
Sử dụng thịt có nguồn gốc, được 
kiểm dịch 
204 46,8 
Nấu chín kỹ thịt gia cầm 314 72,0 
Không ăn tiết canh 259 59,4 
Biện pháp khác 1 0,2 
Không biết biện pháp nào 1 0,2 
Rửa tay biện pháp được nhắc đến nhiểu nhất với tỷ lệ 90,6%, điều này không 
mấy ngạc nhiên vì các kênh truyền thông trong thời gian gần đây đã lặp đi lặp lại 
thông điệp về rửa tay. Không ăn thịt gia cầm ốm chết, nấu chín kỹ thịt gia cầm và 
không ăn tiết canh là 3 biện pháp vệ sinh ăn uống được người dân nhắc đến khá nhiều 
với tỷ lệ lần lượt là 87,6% và 72,0% và 59,4%, phù hợp với nghiên cứu của Đặng 
Quốc Việt là 85,4% và 61,2% và 52,9%, sử dụng thịt có nguồn gốc, được kiểm dịch 
với tỷ lệ thấp hơn (46,8%). Có thể nói các biện pháp vệ sinh ăn uống khá dễ nhớ và 
được truyền thông liên tục nên nhận thức của người dân được nâng cao. 
Bảng 4: Kiến thức về biện pháp tránh tiếp xúc với gia cầm để phòng bệnh 
Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Rửa tay sau khi tiếp xúc với gia cầm 391 89,7 
Đeo găng tay 206 47,2 
Đeo khẩu trang 240 55,0 
Biện pháp khác 1 0,2 
Không biết biện pháp nào 15 3,4 
 101 
Có 89,7% người dân biết biện pháp rửa tay sau khi tiếp xúc với gia cầm, 
55,0% biết đeo khẩu trang và 47,2% biết đeo găng tay là các biện pháp tránh tiếp 
xúc với gia cầm để phòng bệnh, vẫn còn 3,4% không biết các biện pháp nào. Vì 
vậy, ngoài biện pháp rửa tay, cũng cần tập trung đẩy mạnh truyền thông về các 
biện pháp tránh tiếp xúc khác. 
4.3. Thái độ của người dân về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 
Bảng 5: Thái độ về nguy cơ xảy ra dịch cúm A/H5N1 
Nguy cơ Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Rất dễ xảy ra 121 27,8 
Ít khi xảy ra 301 69,0 
Không thể xảy ra 14 3,2 
Chỉ có 27,8% số người cho rằng dịch cúm rất dễ xảy ra, trong khi đó có đến 
69,0% cho rằng ít khi xảy ra và 3,2% cho rằng không thể xảy ra. Trong nghiên 
cứu của Đặng Quốc Việt chỉ có 4,2% cho rằng có nguy cơ cao, còn lại đa số là 
nguy cơ thấp. Tuy bệnh cúm A/H5N1 chưa xảy ở người tại Thừa Thiên Huế, chỉ 
xảy ra ở gia cầm, nhưng việc người dân có thái độ chủ quan với dịch ở các vùng 
không có người mắc bệnh cúm A/H5N1, không thường xuyên thực hiện các biện 
pháp phòng bệnh có thể dẫn đến bùng phát dịch tại những vùng này. 
Tỷ lệ người dân cho rằng bệnh cúm A/H5N1 có thể lây sang người là rất 
cao chiếm 95,2%. Mặc dù chưa có bằng chứng rõ ràng bệnh có thể lây từ gia cầm 
sang người, nhưng thái độ của người dân cảnh giác trước sự nguy hiểm, lây lan 
của dịch là rất khả quan cho công tác phòng chống dịch. 
Bảng 6: Đối tượng được người dân lựa chọn để báo cáo khi nghi ngờ 
gia cầm nhiễm cúm A/H5N1 
Biện pháp Số lượng (n= 431) Tỷ lệ (%) 
Chính quyền địa phương 125 29,0 
Cán bộ y tế 177 41,1 
Cán bộ thú y 386 89,6 
Đối tượng khác 4 0,9 
Khi nghi ngờ gia cầm nhiễm cúm A/H5N1, có đến 98,9% người dân sẽ báo 
ngay cho các cơ quan chức năng, tương tự với nghiên cứu của Phạm Ngọc Cương 
 102 
là 98,0%, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt cũng thấp hơn (85,0%). 
Cơ quan, cá nhân được người dân báo cáo nhiều nhất là cán bộ thú y (89,6%) sau 
đó là cán bộ y tế (41,1%) và chính quyền địa phương (29,0%). Trong nghiên cứu 
của Đặng Quốc Việt thì cán bộ y tế lại được chọn là nơi báo cáo nhiều nhất 
(75,6%) sau đó mới đến chính quyền địa phương và cán bộ thú y (lần lượt là 47,1% 
và 41,25%). Dù mỗi nơi có kết quả khác nhau nhưng điều đáng mừng là người dân 
đã bắt đầu có ý thức trong việc báo cáo sớm với các cơ quan chức năng, trong đó 
tại Thừa Thiên Huế, người dân đã biết báo cáo cho cán bộ thú y là người có chuyên 
môn phù hợp nhằm đưa ra phương án xử trí kịp thời dịch ở gia cầm. 
Bảng 7: Thái độ xử trí khi nghi ngờ bệnh nhân nhiễm cúm A/H5N1 
Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Đến cơ sở y tế 329 98,4 
Tự mua thuốc điều trị 6 1,4 
Không làm gì cả 1 0,2 
 98,4% người dân chọn cơ sở y tế là nơi cần khám khi nghi ngờ mắc bệnh. 
Kết quả này tượng tự với nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 97,9% và của Phạm 
Ngọc Cương là 98,0%, tỷ lệ này phản ảnh đúng công tác truyền thông trong thời 
gian vừa qua đã đạt một số kết quả nhất định trong việc tạo ra thái độ đúng và 
tích cực trong công tác phòng chống bệnh cúm A/H5N1. 
4.4. Thực hành về bệnh Cúm A/H5N1 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 58,0% người dân đã tiêm phòng cho đàn 
gia cầm, tỷ lệ này thấp so với nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 70,2%; 
nhưng lại cao hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Lợi (40,8%) [9]. Việc 
chưa tiêm phòng cho đàn gia cầm là một mối nguy cơ bùng phát dịch ở gia 
cầm, tạo điều kiện cho bệnh có cơ hội lây sang người. 
Bảng 8: Lý do chưa tiêm phòng cho đàn gia cầm 
Lý do Số lượng (n=183) Tỷ lệ (%) 
Sợ không ăn thịt gia cầm sau tiêm 5 2,7 
Gia cầm chậm lớn do tiêm 3 1,6 
Tốn tiền 93 50,8 
Lý do khác 91 49,7 
 103 
Phần lớn lý do chưa tiêm phòng là ngại tốn tiền 50,8%; lý do sợ không 
ăn thịt gia cầm sau tiêm và gia cầm chậm lớn do tiêm ít được đề cập đến (lần 
lượt 2,7% và 1,6%). Như vậy, vấn đề chi phí tiêm phòng là nguyên nhân 
quan trọng làm giảm tỷ lệ tiêm phòng. Ngành y tế cần phối hợp với ngành 
thú y và các ban ngành khác như: hội nông dân, phụ nữ...vận động người dân 
thực hiện tiêm phòng cho đàn gia súc, đồng thời chính quyền địa phương cần 
có chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là vùng dân tộc 
thiểu số, vùng sâu, vùng xa. 
Bảng 9: Thực hành biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh cúmA/H5N1 
Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Nấu chín kỹ thịt gia cầm 405 92,9 
Không ăn tiết canh 344 78,9 
Không ăn trứng lòng đào 291 66,7 
Không ăn thịt gia cầm ốm chết 317 72,7 
Không làm gì cả 4 0,9 
Thực hiện các biện pháp vệ sinh ăn uống là một trong những biện pháp quan 
trọng để phòng bệnh. Tỷ lệ người dân đã thực hiện nấu chín kỹ thịt gia cầm là 92,9% 
cao hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt (73,0%), không ăn trứng lòng đào là 
66,7%. Như vậy, việc ăn thịt gia cầm nấu chín kỹ được thực hiện tốt. Nhưng việc ăn 
trứng không còn lòng đào vẫn khó thực hiện do thói quen dựng trứng sống đập vào 
phở, trứng ốp la  Không còn nghi ngờ nữa đó là thói quen, món khoái khẩu mà 
chúng ta cần tiếp tục truyền thông cảnh báo mới có thể bỏ được. 
Bảng 10: Thực hành vệ sinh giết mổ gia cầm để phòng bệnh cúm A/H5N1 
Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) 
Đeo găng 133 30,5 
Đeo khẩu trang 122 28,0 
Rửa tay sau khi giết mổ 335 76,8 
Không làm gì cả 70 16,1 
Tỷ lệ người dân thực hiện rửa tay sau khi giết mổ gia cầm là 76,8% cao hơn 
nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 47%, đây là kết quả của việc truyền thông rửa 
tay xà phòng được thực hiện trong thời gian qua. Việc đeo găng tay và đeo khẩu 
 104 
trang trong khi giết mổ ít được thực hiện hơn lần lượt là 30,5% và 28,0% thấp 
hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là đeo găng tay (36,2%), đeo khẩu trang 
(45,0%). Vẫn còn đến 16,1% người dân không thực hiện biện pháp nào. Việc 
không mang găng tay, đeo khẩu trang có thể do tâm lý, cảm giác vướng víu trong 
khi giết mổ và các dụng cụ này không thường xuyên sẵn có và đòi hỏi phải vệ 
sinh thường xuyên,vì vậy nội dung này cần tiếp tục tuyên truyền vận động trong 
thời gian đến, đặc biệt là mang dụng cụ bảo hộ khi giết mổ. 
Bảng 11: Đặc điểm chuống nuôi nhốt gia cầm 
Đặc điểm Số lượng (n=139) Tỷ lệ (%) 
Vị trí chuồng Dưới 10m 80 57,6 
≥ 10m 59 42,4 
Cấu trúc chuồng Kiên cố 29 20,9 
Bán kiên cố 110 79,1 
Vệ sinh chuồng Sạch sẽ 72 51,8 
Mất vệ sinh 67 48,2 
Có đến 139 hộ vẫn còn nuôi thả gia cầm (chiếm 68,1%), tỷ lệ này thấp hơn 
nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 42,2%, cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Đức 
Lợi là 25,7%. Về đặc điểm chuồng nuôi nhốt, chuồng được xây kiên cố chỉ chiếm 
20,9% còn lại chủ yếu là bán kiên cố. Khoảng cách từ chuồng nuôi đến khu sinh 
hoạt, ăn uống dưới 10m chiếm tỷ lệ 57,6%, tỷ lệ này trong nghiên cứu của 
Nguyễn Đức Lợi lên đến 74,3%. Ngoài những khó khăn của việc nuôi nhốt như: 
diện tích hẹp, không có vật liệu, kỹ thuật, nhân công để làm chuồng, quây rào, 
bên cạnh đó lại còn vấn đề bảo vệ chúng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tăng 
cường truyền thông để những người không có nhu cầu (đặc biệt là trẻ em) cần 
chủ động tránh xa gia cầm, không chơi gần và không bế gia cầm chơi, nhất là các 
trẻ em ở nông thôn và ở vùng đồng bào dân tộc cũng cần đặc biệt chú trọng. 
Bảng 12: Sử dụng dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại 
Loại Số lượng (n=139) Tỷ lệ (%) 
Ủng 52 37,4 
Găng tay 59 42,4 
Khẩu trang 71 51,1 
Áo choàng 14 10,1 
Không có 65 46,8 
 105 
Việc mang bảo hộ khi tiếp xúc gia cầm gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng 
đồng bào dân tộc lại càng khó khăn gấp bội. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy việc thực hiện vệ sinh chuồng trại có 51,8% vệ sinh sạch sẽ và 48,2% mất vệ 
sinh. Tỷ lệ người dân thực hiện mang các dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại 
nhiều nhất là mang khẩu trang (51,1%), găng tay (42,4%), ít hơn là ủng (37,4%), 
thấp nhất là mang áo choàng (10,1%), cũng có đến 46,8% người dân không mang 
bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại. 
5. Kết luận 
Qua nghiên cứu trên 436 người dân tại 3 huyện A Lưới, Nam Đông và 
Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy thực trạng kiến thức, thái độ, 
thực hành về phòng chống cúm A(H5N1) ở người như sau: 
- Về kiến thức: Người dân có kiến thức tốt về phòng chống bệnh cúm A/H5N1, trên 
80% biết về các đường lây; trên 60% kể được các triệu chứng cảu bệnh (ho, sốt, 
đau đầu), Các biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh được người dân nhắc đến 
nhiều nhất là rửa tay (90,6%) và không ăn thịt gia cầm ốm/chết (87,6%). 
- Về thái độ: người dân có thái độ đúng, tích cực như: khả năng có thể lây sang 
người (95,2%), báo ngay cho các cơ quan chức năng (98,9%), chọn cơ sở y tế 
là nơi cần khám khi nghi ngờ mắc bệnh (98,4%). Thái độ chưa đúng: người 
dân vẫn cho rằng ít có nguy cơ xảy ra dịch (69,0%). 
- Về thực hành: Vẫn còn 42% hộ gia đình chưa tiêm phòng cho gia cầm. Có tới 
92,9% thực hiện nấu chín kỹ thịt gia cầm, 78,9% không ăn tiết canh và không 
ăn thịt gia cầm ốm chết (72,7%); 76,8% thực hiện rửa tay sau giết mổ; 
- Thực hiện vệ sinh chăn nuôi: nuôi nhốt (31,9%), khoảng cách từ chuồng nuôi 
đến khu sinh hoạt, ăn uống dưới 10m (57,6%), chuồng nuôi được xây kiên cố 
(20,9%), thực hiện vệ sinh chuồng trại sạch sẽ ( 51,8%), thực hiện mang các 
dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại: khẩu trang (51,1%), găng tay 
(42,4%), không mang bảo hộ (46,8%). 
6. Khuyến nghị 
- Tăng cường công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, 
đặc biệt là kênh truyền hình. Đối với truyền thông trực tiếp, cần nâng cao kỹ 
năng truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cán bộ y tế. 
- Nội dung truyền thông, các thông điệp cần cổ động cho vấn đề vệ sinh giết 
mổ, vệ sinh chăn nuôi. 
- Ngành y tế, thú y phối hợp với chính quyền địa phương cần có giải pháp hỗ 
trợ để người dân thực hiện chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học. 
 106 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), QCVN 01 - 15: 2010/BNNPTNT - 
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều kiện trại chăn nuôi gia cầm an toàn sinh 
học, Thông tư số 04/2010/TT-BNNPTNT ngày 15/01/2010 của Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn. 
2. Bộ Y tế (2005), Kế hoạch hành động phòng chống đại dịch cúm ở người tại 
Việt Nam, tr.1. 
3. Bộ Y tế (2005), Chỉ Thị Số 02/2005/CT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc 
tăng cường công tác phòng chống cúm A/H5N1,. 
4. Bộ Y tế (2005), Quy trình xử lý ổ dịch cúm A/H5N1 ở người theo Quyết định 
số 1812/QĐ-BYT ngày 23/5/2005 
5. Bộ Y tế (2005), Quy trình xử lý ổ dịch cúm A (H5N1) ở người theo Quyết định 
số 1812/QĐ-BYT ngày 23/5/2005. 
6. Bộ Y tế (2006), Quyết định số 44/2006/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về 
việc ban hành Hướng dẫn chẫn đoán, xử trí và phòng lây nhiễm cúm A/H5N1 
ở người,. 
7. Bộ Y tế - Cục Y tế dự phòng (2006), Phòng chống dịch cúm A/H5N1 lây sang 
người, tr.12. 
8. Phạm Ngọc Cương (2009), “ Đánh giá nhận thức thái độ thực hành của người 
dân và thực trạng công tác quản lý, chỉ đạo phòng chống dịch cúm A/H5N1 
tại tỉnh Ninh Bình”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học về truyền thông 
giáo dục sức khỏe giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật, Hà 
Nội, tr.94-104. 
9. Nguyễn Đức Lợi (2012), “Nghiên cứu kiến thức và thực hành phòng chống 
dịch cúm A(H5N1) và cúm A(H1N1) của người dân huyện Phong Điền năm 
2011”, Luận án chuyên khoa II, Đại học Y Dược Huế. 
10. Đặng Quốc Việt và cộng sự (2008), “Kiến thức, Thái độ, Thực hành của 
người dân về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người tại 4 tỉnh Hà Nam, Hải 
Dương, Sóc Trăng, Long An”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học về 
truyền thông giáo dục sức khỏe giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản Khoa học 
Kỹ Thuật, Hà Nội, tr.21-28. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_phong_chong_benh_c.pdf