Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có
bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Hiện nay, chưa có
vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực
hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm cúm là cách bảo vệ duy nhất.
Để có thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống
cúm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 436 chủ hộ gia đình có chăn nuôi tại 3
huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
96 THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ PHÒNG CHỐNG BỆNH CÚM A/H5N1 Ở NGƯỜI CỦA NGƯỜI DÂN TẠI 3 HUYỆN NAM ĐÔNG, A LƯỚI VÀ QUẢNG ĐIỀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Lê Trung Quân, Phan Đăng Tâm, Hầu Văn Nam và cộng sự Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh Thừa Thiên Huế Tóm tắt nghiên cứu Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Hiện nay, chưa có vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm cúm là cách bảo vệ duy nhất. Để có thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống cúm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 436 chủ hộ gia đình có chăn nuôi tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trên 80% người dân có biết về đường lây truyền chủ yếu; các triệu chứng mà người dân nhắc đến khi nghi bệnh là sốt (91,3%); ho (59,9%) và đau đầu (71,6%). Biện pháp rửa tay và không ăn thịt gia cầm ốm/chết được người dân nhắc nhiều nhất trong vệ sinh ăn uống để phòng bệnh. Tuy nhiên vẫn có tới 69,0% người dân có thái độ cho rằng rất ít nguy cơ xảy ra dịch. Khi có dịch thì có tới 98,9% sẽ báo cho cơ quan chức năng và chủ yếu là báo cho cán bộ thú ý (89,6%). Về thực hành thì có tới 42% chủ hộ chưa tiêm phòng cho đàn gia cầm của mình vì lý do tốn tiền (50,8%). Biện pháp vệ sinh ăn uống được họ thực hiện nhiều nhất là nấu chín kỹ thịt gia cầm (92,9%); không ăn thịt gia cầm và không ăn trứng lòng đào được thực hiện ít hơn (72,7%) và (66,7%). Đeo khẩu trang và đeo găng tay khi giết mổ được người dân thực hiện thấp (28,0% và 30,5%). Chuồng nuôi với quy mô nhỏ, thả rông và không đảm bảo quy trình kỹ thuật cao. Dựa vào kết quả nghiên cứu trên chúng tôi đã đề xuất tăng cường các biện pháp truyền thông, đặc biệt trên phương tiên thông tin đại chúng; thúc đẩy việc phối hợp giữa y tế, thúy y và chính quyền địa phương trong việc truyền thông thực hiện chăn nuôi và phòng bệnh hiệu quả. 1. Đặt vấn đề Bệnh cúm A/H5N1 là một bệnh lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề và có tỷ lệ tử vong trên 50%. Bệnh do virut cúm A/H5N1 gây nên. Tình hình cúm A/H5N1 ở gia cầm và ở người có diễn biến rất phức tạp. Theo Tổ chức Y tế thế giới từ năm 2003 đến cuối năm 2013 đã ghi nhận tại 15 quốc gia trên thế giới có 648 người bị mắc bệnh cúm A/H5N1, trong đó có 97 384 người tử vong (chiếm 59%). Ở Việt Nam từ năm 2003 đến nay đã xảy ra rất nhiều đợt dịch cúm trên gia cầm, đồng thời cũng có rất nhiều đợt cúm A/H5N1 trên người, ở gia cầm, chúng ta phải tiêu huỷ nhiều chục triệu con gia cầm, làm tổn hại kinh tế, làm ảnh hưởng không tốt cho môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Số người mắc cúm gia cầm được ghi nhận ở Việt Nam là 127 đến nay ca được xác định, trong đó 64 ca tử vong (tỷ suất tử vong là 50%), đứng thứ ba trên thế giới (sau In-đô-nê-xi-a và Ai Cập). Trong tháng 01/2014 đã ghi nhận 02 trường hợp tử vong do cúm A/H5N1 tại tỉnh Bình Phước và Đồng Tháp, cả hai trường hợp đều có tiền sử tiếp xúc với gia cầm bệnh. Hiện nay, chưa có vắc xin phòng bệnh cho người và không thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực hiện các biện pháp phòng bệnh để phòng lây nhiễm cúm là cách bảo vệ duy nhất. Tại Thừa Thiên Huế, chưa có nhiều nghiên cứu về kiến thức, thái độ thực hành của người dân trong phòng chống cúm A/H5N1 và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hành phòng chống cúm, từ đó có thông tin cơ sở cho việc xây dựng chiến lược truyền thông phòng chống cúm trong thời gian tới. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” . 2. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người của người dân tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chủ hộ có chăn nuôi gia cầm, hiện đang sinh sống tại 3 huyện Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.2. Thiết kế nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. 3.3. Cỡ mẫu nghiên cứu Nghiên cứu này chúng tôi sử dụng công thức tính cỡ mẫu 2 2 c p)p(1Zn Trong đó: - n: Số đối tượng nghiên cứu 98 - Z: với xác suất 95% có Z = 1,96 (có trong bảng Z) - p: ước đoán tỷ lệ hiểu biết đầy đủ về bệnh cúm A/H5N1 của chủ hộ gia đình. Chưa có nghiên cứu nào tại địa phương về kiến thức thái độ và thực hành nên chúng tôi ước đoán là p = 0,50 - c: độ chính xác của nghiên cứu trên mẫu (sai số lựa chọn); chấp nhận c = 0,05 Từ đó tính được n = 385 Ước lượng thêm sai số 10%, nên làm tròn mẫu là 436. 3.4. Chọn mẫu Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên qua 2 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Chọn xã nghiên cứu. Tại mỗi huyện (Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền) chọn ngẫu nhiên 50% số xã. Tổng cộng có 22 xã được chọn nghiên cứu ( A Lưới 10 xã; Nam Đông 6 xã; Quảng Điền 6 xã) - Giai đoạn 2: Chọn đối tượng nghiên cứu. Ở mỗi xã được chọn vào nghiên cứu, lập danh sách hộ gia đình có chăn nuôi gia cầm, bốc thăm ngẫu nhiên chọn 20 hộ. Mỗi hộ phỏng vấn chủ hộ (nếu chủ hộ vắng mặt phỏng vấn người chăn nuôi khác trên 15 tuổi). 3.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Tháng 5/2014. tại 3 huyện (Nam Đông, A Lưới và Quảng Điền) 3.6. Xử lý số liệu Nội dung của phiếu phỏng vấn được mã hóa, nhập vào máy tính và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 11.5. 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 4.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu trong độ tuổi 20- 49 (64,1%), từ 50 tuổi trở lên chiếm 34,8%. Dân tộc Kinh chiếm phần lớn 45,2%, sau đó là Pa- kô 22,9%, Cơ-tu 18,1% thấp nhất là Tà-ôi 13,8%. Trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên chiếm 66,7%; có tới 6,2% mù chữ. Trong 436 người được chọn vào mẫu nghiên cứu thì người dân ở vùng A Lưới chiếm 45,6%, Nam Đông 27,5% còn lại Quảng Điền chiếm 26,8%. Phần lớn các hộ chăn nuôi có quy mô nhỏ, lẻ dưới 100 con chiếm 95,0% gần với kết quả nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 92,5%. Tập quán chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phòng chống dịch cúm A/H5N1 như khó tập trung vệ sinh chuồng trại, ít quan tâm đến việc tiêm phòng cho gia cầm 99 Người dân tiếp nhận được thông tin về bệnh cúm A/H5N1 nhiều nhất là ti- vi (93,3%); tiếp đến là cán bộ y tế là 75,7%, loa, đài chiếm 47,9% , áp phích, tờ rơi: 43,8%, còn lại văn nghệ truyền thông chỉ chiếm 21,8%. Nghiên cứu của Nguyễn Đức Lợi cũng cho thấy: nguồn cung cấp thông tin từ ti vi, loa truyền thanh chiếm tỷ lệ cao nhất 45,8%, tiếp đến là cán bộ y tế xã, y tế thôn bản: 24,9%, người nhà, người thân: 13,7%, tranh ảnh, áp phích, tờ rơi: 13,1%, còn lại là các nguồn khác: 2,6%. Như vậy có thể thấy kênh truyền thông quan trọng cần tập trung tuyên truyền đó là tivi, loa đài và cán bộ y tế. 4.2. Kiến thức về phòng chống cúm A/H5N1 Bảng 1: Kiến thức về đường lây Đường lây Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Tiếp xúc với gia cầm 387 88,8 Ăn thịt gia cầm ốm, chết 343 78,7 Khác 8 1,8 Không biết 7 1,6 Tỷ lệ người dân biết được đường lây bệnh cúm A/H5N1 khá cao, có đến 88,8% cho rằng bệnh lây qua tiếp xúc với gia cầm, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Phạm Ngọc Cương năm 2009 tại Ninh Bình là 98,2%[8] và nghiên cứu của Đặng Quốc Việt [10] là 75,4%, tỷ lệ người dân không biết đường lây nào là 1,6%, tỷ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt (3,3%). Tỷ lệ cho rằng lây do ăn thịt gia cầm ốm, chết là 78,7% cũng là một kết quả khá cao, cho thấy nhận thức về đường lây bệnh cúm A/H5N1 của người dân trong thời gian vừa qua đã được nâng lên rõ rệt. Bảng 2: Kiến thức về triệu chứng cúm Triệu chứng cúm Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Sốt 398 91,3 Ho 261 59,9 Đau họng 121 27,8 Đau đầu 312 71,6 Đau cơ 74 17,0 Mệt mỏi 128 29,4 Triệu chứng khác 3 0,7 Không biết 18 4,1 100 Tỷ lệ người dân biết được triệu chứng thường gặp bệnh cúm A/H5N1 khá cao: sốt (91,3%), đau đầu (71,6%) và ho (59,9%), khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phạm Ngọc Cương [8] lần lượt là 95,5%, 80,5% và 72,3%, nghiên cứu của Đặng Quốc Việt [10] cho kết quả thấp hơn với sốt chiếm tỷ lệ 77,1%, việc nhận biết được những triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh với tỷ lệ khá cao thuận lợi cho công tác phát hiện sớm, sàng lọc và cách ly kịp thời, tránh dịch lây lan ra cộng đồng. Bảng 3: Kiến thức về biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Rửa tay 395 90,6 Không ăn thịt gia cầm ốm chết 382 87,6 Sử dụng thịt có nguồn gốc, được kiểm dịch 204 46,8 Nấu chín kỹ thịt gia cầm 314 72,0 Không ăn tiết canh 259 59,4 Biện pháp khác 1 0,2 Không biết biện pháp nào 1 0,2 Rửa tay biện pháp được nhắc đến nhiểu nhất với tỷ lệ 90,6%, điều này không mấy ngạc nhiên vì các kênh truyền thông trong thời gian gần đây đã lặp đi lặp lại thông điệp về rửa tay. Không ăn thịt gia cầm ốm chết, nấu chín kỹ thịt gia cầm và không ăn tiết canh là 3 biện pháp vệ sinh ăn uống được người dân nhắc đến khá nhiều với tỷ lệ lần lượt là 87,6% và 72,0% và 59,4%, phù hợp với nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 85,4% và 61,2% và 52,9%, sử dụng thịt có nguồn gốc, được kiểm dịch với tỷ lệ thấp hơn (46,8%). Có thể nói các biện pháp vệ sinh ăn uống khá dễ nhớ và được truyền thông liên tục nên nhận thức của người dân được nâng cao. Bảng 4: Kiến thức về biện pháp tránh tiếp xúc với gia cầm để phòng bệnh Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Rửa tay sau khi tiếp xúc với gia cầm 391 89,7 Đeo găng tay 206 47,2 Đeo khẩu trang 240 55,0 Biện pháp khác 1 0,2 Không biết biện pháp nào 15 3,4 101 Có 89,7% người dân biết biện pháp rửa tay sau khi tiếp xúc với gia cầm, 55,0% biết đeo khẩu trang và 47,2% biết đeo găng tay là các biện pháp tránh tiếp xúc với gia cầm để phòng bệnh, vẫn còn 3,4% không biết các biện pháp nào. Vì vậy, ngoài biện pháp rửa tay, cũng cần tập trung đẩy mạnh truyền thông về các biện pháp tránh tiếp xúc khác. 4.3. Thái độ của người dân về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 Bảng 5: Thái độ về nguy cơ xảy ra dịch cúm A/H5N1 Nguy cơ Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Rất dễ xảy ra 121 27,8 Ít khi xảy ra 301 69,0 Không thể xảy ra 14 3,2 Chỉ có 27,8% số người cho rằng dịch cúm rất dễ xảy ra, trong khi đó có đến 69,0% cho rằng ít khi xảy ra và 3,2% cho rằng không thể xảy ra. Trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt chỉ có 4,2% cho rằng có nguy cơ cao, còn lại đa số là nguy cơ thấp. Tuy bệnh cúm A/H5N1 chưa xảy ở người tại Thừa Thiên Huế, chỉ xảy ra ở gia cầm, nhưng việc người dân có thái độ chủ quan với dịch ở các vùng không có người mắc bệnh cúm A/H5N1, không thường xuyên thực hiện các biện pháp phòng bệnh có thể dẫn đến bùng phát dịch tại những vùng này. Tỷ lệ người dân cho rằng bệnh cúm A/H5N1 có thể lây sang người là rất cao chiếm 95,2%. Mặc dù chưa có bằng chứng rõ ràng bệnh có thể lây từ gia cầm sang người, nhưng thái độ của người dân cảnh giác trước sự nguy hiểm, lây lan của dịch là rất khả quan cho công tác phòng chống dịch. Bảng 6: Đối tượng được người dân lựa chọn để báo cáo khi nghi ngờ gia cầm nhiễm cúm A/H5N1 Biện pháp Số lượng (n= 431) Tỷ lệ (%) Chính quyền địa phương 125 29,0 Cán bộ y tế 177 41,1 Cán bộ thú y 386 89,6 Đối tượng khác 4 0,9 Khi nghi ngờ gia cầm nhiễm cúm A/H5N1, có đến 98,9% người dân sẽ báo ngay cho các cơ quan chức năng, tương tự với nghiên cứu của Phạm Ngọc Cương 102 là 98,0%, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt cũng thấp hơn (85,0%). Cơ quan, cá nhân được người dân báo cáo nhiều nhất là cán bộ thú y (89,6%) sau đó là cán bộ y tế (41,1%) và chính quyền địa phương (29,0%). Trong nghiên cứu của Đặng Quốc Việt thì cán bộ y tế lại được chọn là nơi báo cáo nhiều nhất (75,6%) sau đó mới đến chính quyền địa phương và cán bộ thú y (lần lượt là 47,1% và 41,25%). Dù mỗi nơi có kết quả khác nhau nhưng điều đáng mừng là người dân đã bắt đầu có ý thức trong việc báo cáo sớm với các cơ quan chức năng, trong đó tại Thừa Thiên Huế, người dân đã biết báo cáo cho cán bộ thú y là người có chuyên môn phù hợp nhằm đưa ra phương án xử trí kịp thời dịch ở gia cầm. Bảng 7: Thái độ xử trí khi nghi ngờ bệnh nhân nhiễm cúm A/H5N1 Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Đến cơ sở y tế 329 98,4 Tự mua thuốc điều trị 6 1,4 Không làm gì cả 1 0,2 98,4% người dân chọn cơ sở y tế là nơi cần khám khi nghi ngờ mắc bệnh. Kết quả này tượng tự với nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 97,9% và của Phạm Ngọc Cương là 98,0%, tỷ lệ này phản ảnh đúng công tác truyền thông trong thời gian vừa qua đã đạt một số kết quả nhất định trong việc tạo ra thái độ đúng và tích cực trong công tác phòng chống bệnh cúm A/H5N1. 4.4. Thực hành về bệnh Cúm A/H5N1 Kết quả nghiên cứu cho thấy có 58,0% người dân đã tiêm phòng cho đàn gia cầm, tỷ lệ này thấp so với nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 70,2%; nhưng lại cao hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Lợi (40,8%) [9]. Việc chưa tiêm phòng cho đàn gia cầm là một mối nguy cơ bùng phát dịch ở gia cầm, tạo điều kiện cho bệnh có cơ hội lây sang người. Bảng 8: Lý do chưa tiêm phòng cho đàn gia cầm Lý do Số lượng (n=183) Tỷ lệ (%) Sợ không ăn thịt gia cầm sau tiêm 5 2,7 Gia cầm chậm lớn do tiêm 3 1,6 Tốn tiền 93 50,8 Lý do khác 91 49,7 103 Phần lớn lý do chưa tiêm phòng là ngại tốn tiền 50,8%; lý do sợ không ăn thịt gia cầm sau tiêm và gia cầm chậm lớn do tiêm ít được đề cập đến (lần lượt 2,7% và 1,6%). Như vậy, vấn đề chi phí tiêm phòng là nguyên nhân quan trọng làm giảm tỷ lệ tiêm phòng. Ngành y tế cần phối hợp với ngành thú y và các ban ngành khác như: hội nông dân, phụ nữ...vận động người dân thực hiện tiêm phòng cho đàn gia súc, đồng thời chính quyền địa phương cần có chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Bảng 9: Thực hành biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh cúmA/H5N1 Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Nấu chín kỹ thịt gia cầm 405 92,9 Không ăn tiết canh 344 78,9 Không ăn trứng lòng đào 291 66,7 Không ăn thịt gia cầm ốm chết 317 72,7 Không làm gì cả 4 0,9 Thực hiện các biện pháp vệ sinh ăn uống là một trong những biện pháp quan trọng để phòng bệnh. Tỷ lệ người dân đã thực hiện nấu chín kỹ thịt gia cầm là 92,9% cao hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt (73,0%), không ăn trứng lòng đào là 66,7%. Như vậy, việc ăn thịt gia cầm nấu chín kỹ được thực hiện tốt. Nhưng việc ăn trứng không còn lòng đào vẫn khó thực hiện do thói quen dựng trứng sống đập vào phở, trứng ốp la Không còn nghi ngờ nữa đó là thói quen, món khoái khẩu mà chúng ta cần tiếp tục truyền thông cảnh báo mới có thể bỏ được. Bảng 10: Thực hành vệ sinh giết mổ gia cầm để phòng bệnh cúm A/H5N1 Biện pháp Số lượng (n= 436) Tỷ lệ (%) Đeo găng 133 30,5 Đeo khẩu trang 122 28,0 Rửa tay sau khi giết mổ 335 76,8 Không làm gì cả 70 16,1 Tỷ lệ người dân thực hiện rửa tay sau khi giết mổ gia cầm là 76,8% cao hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 47%, đây là kết quả của việc truyền thông rửa tay xà phòng được thực hiện trong thời gian qua. Việc đeo găng tay và đeo khẩu 104 trang trong khi giết mổ ít được thực hiện hơn lần lượt là 30,5% và 28,0% thấp hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là đeo găng tay (36,2%), đeo khẩu trang (45,0%). Vẫn còn đến 16,1% người dân không thực hiện biện pháp nào. Việc không mang găng tay, đeo khẩu trang có thể do tâm lý, cảm giác vướng víu trong khi giết mổ và các dụng cụ này không thường xuyên sẵn có và đòi hỏi phải vệ sinh thường xuyên,vì vậy nội dung này cần tiếp tục tuyên truyền vận động trong thời gian đến, đặc biệt là mang dụng cụ bảo hộ khi giết mổ. Bảng 11: Đặc điểm chuống nuôi nhốt gia cầm Đặc điểm Số lượng (n=139) Tỷ lệ (%) Vị trí chuồng Dưới 10m 80 57,6 ≥ 10m 59 42,4 Cấu trúc chuồng Kiên cố 29 20,9 Bán kiên cố 110 79,1 Vệ sinh chuồng Sạch sẽ 72 51,8 Mất vệ sinh 67 48,2 Có đến 139 hộ vẫn còn nuôi thả gia cầm (chiếm 68,1%), tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của Đặng Quốc Việt là 42,2%, cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Đức Lợi là 25,7%. Về đặc điểm chuồng nuôi nhốt, chuồng được xây kiên cố chỉ chiếm 20,9% còn lại chủ yếu là bán kiên cố. Khoảng cách từ chuồng nuôi đến khu sinh hoạt, ăn uống dưới 10m chiếm tỷ lệ 57,6%, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Lợi lên đến 74,3%. Ngoài những khó khăn của việc nuôi nhốt như: diện tích hẹp, không có vật liệu, kỹ thuật, nhân công để làm chuồng, quây rào, bên cạnh đó lại còn vấn đề bảo vệ chúng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tăng cường truyền thông để những người không có nhu cầu (đặc biệt là trẻ em) cần chủ động tránh xa gia cầm, không chơi gần và không bế gia cầm chơi, nhất là các trẻ em ở nông thôn và ở vùng đồng bào dân tộc cũng cần đặc biệt chú trọng. Bảng 12: Sử dụng dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại Loại Số lượng (n=139) Tỷ lệ (%) Ủng 52 37,4 Găng tay 59 42,4 Khẩu trang 71 51,1 Áo choàng 14 10,1 Không có 65 46,8 105 Việc mang bảo hộ khi tiếp xúc gia cầm gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc lại càng khó khăn gấp bội. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc thực hiện vệ sinh chuồng trại có 51,8% vệ sinh sạch sẽ và 48,2% mất vệ sinh. Tỷ lệ người dân thực hiện mang các dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại nhiều nhất là mang khẩu trang (51,1%), găng tay (42,4%), ít hơn là ủng (37,4%), thấp nhất là mang áo choàng (10,1%), cũng có đến 46,8% người dân không mang bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại. 5. Kết luận Qua nghiên cứu trên 436 người dân tại 3 huyện A Lưới, Nam Đông và Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống cúm A(H5N1) ở người như sau: - Về kiến thức: Người dân có kiến thức tốt về phòng chống bệnh cúm A/H5N1, trên 80% biết về các đường lây; trên 60% kể được các triệu chứng cảu bệnh (ho, sốt, đau đầu), Các biện pháp vệ sinh ăn uống để phòng bệnh được người dân nhắc đến nhiều nhất là rửa tay (90,6%) và không ăn thịt gia cầm ốm/chết (87,6%). - Về thái độ: người dân có thái độ đúng, tích cực như: khả năng có thể lây sang người (95,2%), báo ngay cho các cơ quan chức năng (98,9%), chọn cơ sở y tế là nơi cần khám khi nghi ngờ mắc bệnh (98,4%). Thái độ chưa đúng: người dân vẫn cho rằng ít có nguy cơ xảy ra dịch (69,0%). - Về thực hành: Vẫn còn 42% hộ gia đình chưa tiêm phòng cho gia cầm. Có tới 92,9% thực hiện nấu chín kỹ thịt gia cầm, 78,9% không ăn tiết canh và không ăn thịt gia cầm ốm chết (72,7%); 76,8% thực hiện rửa tay sau giết mổ; - Thực hiện vệ sinh chăn nuôi: nuôi nhốt (31,9%), khoảng cách từ chuồng nuôi đến khu sinh hoạt, ăn uống dưới 10m (57,6%), chuồng nuôi được xây kiên cố (20,9%), thực hiện vệ sinh chuồng trại sạch sẽ ( 51,8%), thực hiện mang các dụng cụ bảo hộ khi vệ sinh chuồng trại: khẩu trang (51,1%), găng tay (42,4%), không mang bảo hộ (46,8%). 6. Khuyến nghị - Tăng cường công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là kênh truyền hình. Đối với truyền thông trực tiếp, cần nâng cao kỹ năng truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cán bộ y tế. - Nội dung truyền thông, các thông điệp cần cổ động cho vấn đề vệ sinh giết mổ, vệ sinh chăn nuôi. - Ngành y tế, thú y phối hợp với chính quyền địa phương cần có giải pháp hỗ trợ để người dân thực hiện chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học. 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), QCVN 01 - 15: 2010/BNNPTNT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều kiện trại chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học, Thông tư số 04/2010/TT-BNNPTNT ngày 15/01/2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2. Bộ Y tế (2005), Kế hoạch hành động phòng chống đại dịch cúm ở người tại Việt Nam, tr.1. 3. Bộ Y tế (2005), Chỉ Thị Số 02/2005/CT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng cường công tác phòng chống cúm A/H5N1,. 4. Bộ Y tế (2005), Quy trình xử lý ổ dịch cúm A/H5N1 ở người theo Quyết định số 1812/QĐ-BYT ngày 23/5/2005 5. Bộ Y tế (2005), Quy trình xử lý ổ dịch cúm A (H5N1) ở người theo Quyết định số 1812/QĐ-BYT ngày 23/5/2005. 6. Bộ Y tế (2006), Quyết định số 44/2006/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Hướng dẫn chẫn đoán, xử trí và phòng lây nhiễm cúm A/H5N1 ở người,. 7. Bộ Y tế - Cục Y tế dự phòng (2006), Phòng chống dịch cúm A/H5N1 lây sang người, tr.12. 8. Phạm Ngọc Cương (2009), “ Đánh giá nhận thức thái độ thực hành của người dân và thực trạng công tác quản lý, chỉ đạo phòng chống dịch cúm A/H5N1 tại tỉnh Ninh Bình”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học về truyền thông giáo dục sức khỏe giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, tr.94-104. 9. Nguyễn Đức Lợi (2012), “Nghiên cứu kiến thức và thực hành phòng chống dịch cúm A(H5N1) và cúm A(H1N1) của người dân huyện Phong Điền năm 2011”, Luận án chuyên khoa II, Đại học Y Dược Huế. 10. Đặng Quốc Việt và cộng sự (2008), “Kiến thức, Thái độ, Thực hành của người dân về phòng chống bệnh cúm A/H5N1 ở người tại 4 tỉnh Hà Nam, Hải Dương, Sóc Trăng, Long An”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học về truyền thông giáo dục sức khỏe giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, tr.21-28.
File đính kèm:
thuc_trang_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_phong_chong_benh_c.pdf

