Thực trạng kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện từ tháng 12/2019 - 06/2020 trên 153 thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát thiết kế sẵn về các nội dung liên quan đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ và cho bú ngay sau sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đạt về nuôi con bằng sữa mẹ là 10,5%, chưa đạt là 89,5%. Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về khái niệm NCBSM là 78,4%, tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về khái niệm sữa non là 66,7%, tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về thời gian cho con bú mẹ ngay sau sinh (30 phút - 1 giờ) là 58,2% và tỷ lệ thai phụ có kiến thức chưa đúng về dấu hiệu trẻ bú có hiệu quả là 45,8%. Kết luận: Kiến thức cho con bú ngay sau sinh của các thai phụ là chưa tốt

pdf 9 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 2020

Thực trạng kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 2020
272
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
10. Ramachandran A and et al (2012), 
Trends in Prevalence of diabetes in Asian 
countries, World journal of diabetes, 396), 
110.
11. Lưu Thị Hạnh (2015), Thực trạng 
tuân thủ điều trị của người bệnh đái 
tháo đường tại khoa nội 2 Bệnh viện Xanh 
Pôn, Đề tài tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng, 
Khoa Học Sức Khỏe, Đại Học Thăng Long, 
Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Hoàng Vân (2014), Khảo 
sát khả năng tự tiêm Insulin ở người bệnh 
ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú, Kỉ yếu hội nghị 
khoa học BV tim mạch An Giang.
13. Nguyễn Thị Thoa (2019), Thực trạng 
kiến thức và thực hành tự tiêm Insulin của 
người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị 
ngoại trú tại Bệnh viện 19-8- Bộ công an 
năm 2019.
14. M. Patil and et al (2016), Assessment 
of Insulin injection techniques among 
diabetes patients in a tertiary care centre, 
Diabetes & Metabolic Syndrome: Clinical 
Research & Reviews.
15. Bùi Thị Hoài Thu (2016), Kiến thức, 
thực hành về sử dụng Insulin của bệnh 
nhân đái tháo đường tại khoa Điều trị theo 
yêu cầu Bệnh viện Nội tiết Trung ương, 
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Thăng 
Long.
16. Bhosale A and et al (2018), A study 
to assess the knowledge and practice of 
self-administration of Insulin in a view to 
develop self-instructional module [SIM] 
among patients with diabetes mellitus 
in selected hospitals of Pune city, IJAR, 
4(5),pp. 395-398.
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC THAI PHỤ 
ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020 
Bùi Thị Huế1a, Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Vũ Thị Minh Phượng1
Nguyễn Thị Nhật Lệ1a , Đỗ Thu Tình1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 25/9/2020
Ngày duyệt bài: 05/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức 
nuôi con bằng sữa mẹ của các thai phụ đến 
khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định 
năm 2020. Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
thực hiện từ tháng 12/2019 - 06/2020 trên 
153 thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ 
sản tỉnh Nam Định. Các đối tượng được 
phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát 
thiết kế sẵn về các nội dung liên quan đến 
kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ và cho 
bú ngay sau sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ 
có kiến thức đạt về nuôi con bằng sữa mẹ 
là 10,5%, chưa đạt là 89,5%. Tỷ lệ thai phụ 
có kiến thức đúng về khái niệm NCBSM là 
78,4%, tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về 
khái niệm sữa non là 66,7%, tỷ lệ thai phụ 
có kiến thức đúng về thời gian cho con bú 
mẹ ngay sau sinh (30 phút - 1 giờ) là 58,2% 
và tỷ lệ thai phụ có kiến thức chưa đúng về 
dấu hiệu trẻ bú có hiệu quả là 45,8%. Kết 
luận: Kiến thức cho con bú ngay sau sinh 
của các thai phụ là chưa tốt.
Từ khóa: Kiến thức, nuôi con bằng sữa 
mẹ, Bệnh viện Phụ sản Nam Định.
273
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THE SITUATION OF BREAST-FEEDING KNOWLEDGE OF PREGNANT WOMEN 
EXAMINED AT NAM DINH HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY IN 2020
ABSTRACT
Objective: This research is done in order 
to describe the situation of breastfeeding 
knowledge of pregnant women examined 
at Nam Dinh Hospital of Obstetrics and 
Gynecology in 2020. Method: Cross-
sectional descriptive study conducted 
from December 2019 to June 2020 on 153 
pregnant women examined at Nam Dinh 
Hospital of Obstetrics and Gynecology. 
Those were interviewed directly by 
pre-designed survey questionnaire 
about knowledge of breast-feeding and 
breastfeeding right after birth. Results: 
The percentage of pregnant women who 
meet the standard is 10.5%, and the rate 
of pregnant women who fail to meet the 
standard is 89.5%. The percentage of 
pregnant women with the right knowledge of 
breast-feeding is 78.4%, the rate of women 
with correct knowledge of colostrum concept 
was 66.7%, the rate of women with correct 
knowledge of timing on right after birth-
giving breastfeeding is 58.2% The rate of 
pregnant women with incorrect knowledge 
about effective breastfeeding signals was 
45.8%. Conclusion: The knowledge of 
pregnant women to breastfeed immediately 
after birth is not good.
Keywords: Knowledge, breastfeeding 
right after birth-giving, Nam Dinh Hospital 
of Obstetrics and Gynecology.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh 
là một vấn đề đang nhận được quan tâm 
của nhiều quốc gia trên Thế giới, đặc biệt 
là các nước nghèo, đang phát triển. Nuôi 
con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất và an 
toàn nhất để nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và 
trẻ nhỏ. Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) 
không những tốt cho trẻ em mà còn mang 
lại nhiều lợi ích cho cả bà mẹ, gia đình và 
cộng đồng. Vì vậy, nhiều tổ chức đã khuyến 
cáo nên cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh, 
nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 
tháng đầu và nuôi con bằng sữa mẹ kéo 
dài đến khi trẻ được 2 tuổi hoặc lâu hơn [1].
Sữa non được tạo ra từ những tháng 
cuối của thai kỳ và được tiết ra ngay sau khi 
sinh từ 48 – 72 giờ. Sữa non có màu vàng 
nhạt, sánh đặc và giàu chất dinh dưỡng do 
đó cần cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh và 
tốt nhất trong vòng 30 phút đến 1 giờ đầu 
sau sinh. Điều này sẽ đem lại nhiều lợi ích 
cho sự phát triển của trẻ. Trẻ bú sớm sẽ 
nhận được sữa non, thức ăn phù hợp với 
hệ tiêu hóa còn non yếu của trẻ. Trong sữa 
non ngoài chất dinh dưỡng cần thiết cho 
sự phát triển của trẻ còn chứa các kháng 
thể (IgA tiết) chống lại nhiễm khuẩn và các 
tác nhân gây bệnh. Trẻ bú sớm có tác dụng 
giúp mẹ co hồi tử cung nhanh, tránh băng 
huyết sau đẻ. Một nghiên cứu được thực 
hiện ở Ai Cập cho thấy, 83,7% người tham 
gia biết rằng sữa non làm tăng khả năng 
miễn dịch của em bé và 30,2% bà mẹ cho 
biết đây là lần bảo vệ đầu tiên chống lại 
nhiễm trùng [2]. Nghiên cứu khác ở Nepal 
về tầm quan trọng của sữa non đối với sức 
khỏe của trẻ em, có 41% phụ nữ tin rằng 
sữa non giúp cho sự phát triển đúng đắn 
của trẻ và chống lại nhiễm trùng, 27% cho 
rằng sữa non giúp tăng cường sức khỏe 
nhưng không biết vai trò chính xác trong 
khi 31% phụ nữ không biết gì về sữa non 
và 1% phụ nữ nghĩ rằng sữa non có ảnh 
hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ [2].
Theo thống kê của WHO, tỷ lệ cho con 
bú ngay sau khi sinh cao nhất ở Đông và 
Nam Phi (65%) và thấp nhất ở Đông Á và 
Thái Bình Dương (32%). Cứ 10 em bé sinh 
274
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
ra ở Burundi, Lanka và Vanuatu thì có gần 
9 em được bú sữa mẹ ngay sau khi sinh. 
Năm 2006, tỷ lệ cho con bú sữa mẹ ngay 
sau khi sinh ở một số nước vẫn còn thấp cụ 
thể Ghana (41%), Sudan (54,2%), Zambia; 
(70%), Jordan (49,5%), Bắc Jordan 
(86,6%), Nepal (72,2%), Bolivia; (74%), 
Ethiopia (52%) [3]. 
Trong báo cáo của Qũy Nhi đồng Liên 
hợp quốc (UNICEF) và Tổ chức Y tế Thế 
giới (WHO), Việt Nam có tỷ lệ trẻ được 
nuôi con bằng sữa mẹ sau khi sinh giảm 
nhiều nhất trong giai đoạn năm 2005 - 
2013. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ ngay sau khi 
sinh giảm từ 44% xuống còn 27% trong 
năm 2013 [4]. Bộ Y tế cũng chỉ ra, có 58% 
các bà mẹ cho con bú trong giờ đầu sau 
sinh và 88% bắt đầu cho con bú trong 
vòng 24 giờ đầu. Trên toàn quốc, có 17% 
trẻ dưới 6 tháng tuổi được nuôi hoàn toàn 
bằng sữa mẹ [5].
Tại Bệnh viện Phụ sản Nam Định chỉ 
tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2018, 
tại khoa đỡ đẻ của bệnh viện đã tiếp nhận 
3137 ca [6]. Hiện nay không ít nghiên cứu 
về kiến thức của bà mẹ về nuôi con bằng 
sữa mẹ, tuy nhiên vẫn còn khoảng trống 
kiến thức của các bà mẹ có con lần đầu. 
Từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu đề tài: “Thực trạng kiến thức nuôi con 
bằng sữa mẹ của các thai phụ đến khám 
tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định năm 
2020” với mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến 
thức nuôi con bằng sữa mẹ của các thai 
phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh 
Nam Định năm 2020.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các thai phụ có 
con lần đầu đến khám tại Bệnh viện Phụ 
sản tỉnh Nam Định; đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các thai phụ không 
thể tiếp nhận và trả lời được các câu hỏi.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 
12/2019 - tháng 06/2020 tại bệnh viện Phụ 
sản tỉnh Nam Định 
2.3. Thiết kế nghiên cứu
- Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt 
ngang 
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu 
thuận tiện.
- Cỡ mẫu: Thu thập từ tháng 12/2019 
đến tháng 4/2020 có 153 thai phụ đủ tiêu 
chuẩn tham gia nghiên cứu.
2.5. Công cụ và phương pháp thu 
thập thông tin
- Phiếu khảo sát được xây dựng dựa 
trên nghiên cứu của Mai Anh Đào theo tài 
liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ của Bộ Y tế [3]. 
- Phiếu khảo sát gồm 3 phần: Phần 1: 
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 
từ câu A1 – A7. Phần 2: kiến thức về việc 
cho con bú ngay sau khi sinh: từ câu B1 – 
B13 và Phần 3 là các yếu tố liên quan đến 
thái độ cho con bú ngay sau sinh từ câu 
D1 – D7.
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực 
tiếp để thu thập thông tin cần thiết.
2.6. Tiêu chí đánh giá trong nghiên 
cứu
- Kiến thức về việc cho trẻ bú sớm ngay 
sau sinh: Thai phụ tham gia trả lời phỏng 
vấn với mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, 
trả lời không đúng hoặc không biết được 
0 điểm. Thai phụ trả lời đúng ≥ 75% (20 – 
26 điểm) là kiến thức đạt và < 75% (< 20 
điểm) là kiến thức chưa đạt.
2.7. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu sau khi được làm sạch, nhập và 
phân tích trên phần mền SPSS 16.0
- Tính các giá trị phần trăm, bảng để mô 
tả các số liệu theo mục tiêu nghiên cứu.
275
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3. KẾT QUẢ 
Kiến thức của thai phụ về nuôi con 
bằng sữa mẹ 
Bảng 1. Kiến thức đúng 
về khái niệm và lợi ích nuôi con 
bằng sữa mẹ của thai phụ
Nội dung SL TL %
Khái niệm nuôi con bằng sữa mẹ
Bú mẹ hoàn toàn trong 6 
tháng đầu 120 78,4
Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ
Giúp trẻ tăng trưởng, 
phát triển hài hòa và 
phòng chống suy dinh 
dưỡng 
130 85,0
Bảo vệ trẻ chống nhiễm 
khuẩn 78 51,0
Cải thiện tâm lý cho bà 
mẹ và trẻ 47 30,7
Chi phí ít hơn so với nuôi 
nhân tạo 74 48,4
Góp phần bảo về sức 
khỏe cho trẻ trong suốt 
quá trình trưởng thành
73 47,7
Góp phần bảo vệ sức 
khỏe cho bà mẹ 41 26,8
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy: 
đa số các thai phụ có kiến thức đúng về 
khái niệm nuôi con bằng sữa mẹ chiếm tỷ 
lệ 78,4% và các thai phụ có kiến thức chưa 
đúng chiếm 21,6%. 
Một số lợi ích về nuôi con bằng sữa 
mẹ mà thai phụ biết nhiều là “giúp trẻ tăng 
trưởng, phát triển hài hòa và phòng chống 
suy dinh dưỡng” chiếm 85,0%, “bảo vệ trẻ 
chống nhiễm khuẩn” chiếm 51,0%. Tuy 
nhiên, một số lợi ích khác thai phụ lại không 
biết nhiều, cụ thể “cải thiện tâm lý cho bà 
mẹ và trẻ” chiếm 30,7% và “góp phần bảo 
vệ sức khỏe cho bà mẹ” chiếm 26,8%.
Bảng 2. Kiến thức đúng về thời gian bú 
mẹ ngay sau sinh, khái niệm sữa non 
và lợi ích sữa non của thai phụ 
Nội dung SL TL %
Thời gian cho trẻ bú mẹ ngay sau khi 
sinh 
Trong vòng 1 giờ 89 58,2
Khái niệm sữa non
Sữa non được tiết ra trong 
3 ngày đầu sau sinh, sữa 
sánh đặc và có màu vàng 
nhạt
102 66,7
Lợi ích sữa non
Phòng chống dị ứng và 
nhiễm khuẩn 109 71,2
Đào thải phân su và giảm 
tình trạng vàng da sinh lý 
ở trẻ
80 52,3
Phòng bệnh khô mắt do 
thiếu vitamin A 60 39,2
Nhận xét: Qua bảng 2 cho thấy: Thai 
phụ có kiến thức đúng về thời gian cho trẻ 
bú mẹ ngay sau sinh là trong vòng 1 giờ 
đầu chiếm tỷ lệ 58,2%, kiến thức chưa 
đúng chiếm tỷ lệ tương đối cao 41,8%. Về 
khái niệm sữa non, tỷ lệ thai phụ có kiến 
thức đúng là 66,7% và kiến thức chưa đúng 
là 33,3%. Kiến thức đúng về lợi ích của sữa 
non đối với sự phát triển của trẻ tương đối 
tốt: phòng chống dị ứng và nhiễm khuẩn 
chiếm 71,2%, đào thải phân su và giảm tình 
trạng vàng da sinh lý ở trẻ chiếm 52,3%, tuy 
nhiên, lợi ích “phòng bệnh khô mắt do thiếu 
vitamin A” chỉ có 39,2% thai phụ biết.
276
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Kiến thức đúng về lợi ích của 
việc cho trẻ bú ngay sau sinh và yếu tố 
ảnh hưởng đến số lượng, khả năng tiết 
sữa của thai phụ 
Nội dung SL TL %
Lợi ích của việc cho trẻ bú ngay sau 
sinh
Giúp co hồi tử cung tốt và 
tránh băng huyết sau đẻ 98 64,1
Kích thích sữa mẹ và tăng 
cường sản xuất sữa 107 69,9
Giúp bà mẹ phòng tránh 
thai và phòng ung thư vú 
ở mẹ
56 36,6
Yếu tố ảnh hưởng đến số lượng, khả 
năng tiết sữa
Cho trẻ bú kiệt sữa hoặc 
vắt hết sữa khi trẻ bú xong 54 35,3
Nhận xét: Phỏng vấn về lợi ích của cho 
bú ngay sau sinh, tỷ các thai phụ có kiến 
thức đúng tương đối cao, cụ thể “giúp co 
hồi tử cung tốt và tránh băng huyết sau đẻ” 
chiếm 64,1%, “kích thích sữa mẹ và tăng 
cường sản xuất sữa” chiếm 69,9%. Trong 
khi đó, lợi ích “giúp mẹ phòng tránh thai và 
phòng ung thư vú ở mẹ”chỉ có 36,6%.
Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về yếu 
tố ảnh hưởng đến số lượng và khả năng 
tiết sữa của mẹ không cao, chiếm 35.3%.
Bảng 4. Kiến thức đúng về những yếu tố 
hỗ trợ khả năng tiết sữa của các thai phụ
Nội dung SL TL %
Ăn uống và lao động hợp 
lý 130 85,0
Tinh thần thoải mái 105 68,6
Sinh đẻ có kế hoạch 43 28,1
Không sử dụng thuốc khi 
cho con bú 40 26,1
Đảm bảo hết kiệt sữa sau 
mỗi lần bú 53 34,6
Nhận xét: Kết quả thu được cho thấy, 
thai phụ có kiến thức đúng về những yếu 
tố hỗ trợ khả năng tiết sữa của bà mẹ đa 
phần là yếu tố “Ăn uống và lao động hợp lý” 
và “Tinh thần thoải mái” chiếm tỷ lệ lần lượt 
là 85,0% và 68,6%, những yếu tố như: sinh 
đẻ có kế hoạch, không sử dụng thuốc khi 
cho con bú, đảm bảo hết kiệt sữa sau mỗi 
lần bú chiếm tỷ lệ thấp với tỷ lệ lần lượt là 
28,1%, 26,1%, 34,6%. 
Bảng 5. Kiến thức đúng về dấu hiệu trẻ 
đòi ăn, dấu hiệu cho trẻ bú có hiệu quả, 
cách ngậm bắt vú và số lần cho trẻ bú 
trong một ngày của thai phụ
Nội dung SL TL %
Dấu hiệu trẻ đòi ăn 77 50,3
Dấu hiệu trẻ bú có hiệu 
quả 83 54,2
Cách ngậm bắt bú 89 58,2
Số lần cho trẻ bú trong 
ngày 117 76,5
Nhận xét: Kiến thức đúng của thai phụ 
về dấu hiệu trẻ đòi ăn, dấu hiệu cho trẻ bú 
có hiệu quả và cách ngậm bắt vú đúng ở 
trẻ tương đối thấp, chiếm tỷ lệ lần lượt là 
50,3%, 54,2%, 58,2%. Các thai phụ có kiến 
thức đúng về số lần cho trẻ bú trong một 
ngày là bú theo nhu cầu cả ngày và đêm 
chiếm tỷ lệ 76,5 % và 23,5% các thai phụ 
có kiến thức chưa đúng
89.54%
10.46%
Chưa đạt
Đạt
Biểu đồ 1. Kiến thức chung nuôi con 
bằng sữa mẹ của thai phụ 
277
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Nhận xét: Biểu đồ 1 cho thấy, có 10,5% 
thai phụ tham gia nghiên cứu có kiến thức 
chung đạt về nuôi con bằng sữa mẹ, kiến 
thức chung không đạt chiếm tỷ lệ cao 89,5% 
thai phụ tham gia nghiên cứu.
4. BÀN LUẬN
Sữa mẹ là nguồn thức ăn lý tưởng cho 
trẻ trong 6 tháng đầu đời. Nuôi con bằng 
sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu được 
định nghĩa là chỉ cho trẻ bú mẹ mà không 
cho ăn, uống bất cứ thức ăn, đồ uống 
nào khác kể cả nước trừ các trường hợp 
có chỉ định của bác sỹ phải uống bổ sung 
các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc. Theo 
khuyến cáo của UNICEF và Tổ chức Y tế 
thế giới (WHO), các bà mẹ nên cho con bú 
hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng, sau đó 
trẻ tiếp tục được nuôi bằng sữa mẹ ít nhất 
trong hai năm đầu, kết hợp với việc cho trẻ 
ăn bổ sung để cung cấp cho trẻ một chế độ 
ăn đầy đủ cho sức khỏe. WHO, UNICEF đã 
khẳng định là sữa mẹ không chỉ có lợi ích 
đối với sức khỏe của trẻ nhỏ mà con đối với 
bà mẹ. NCBSM là một biện pháp tự nhiên, 
khoa học, kinh tế và hiệu quả đối với sức 
khỏe của cả mẹ và bé. Kết quả nghiên cứu 
thu được ở bảng 1 cho thấy, tỷ lệ các thai 
phụ có kiến thức đúng về khái niệm nuôi 
con bằng sữa mẹ là cho trẻ bú mẹ hoàn 
toàn trong 6 tháng đầu chiếm 78,4%. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng 
với nghiên cứu của Phạm Văn Tùng (2017) 
tại Nam Định là 77,1% [7], nghiên cứu của 
Đặng Cẩm Tú (2018) tại 3 tỉnh Hà Nam, 
Quảng Bình, Lào Cai là 74% [8] và nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn 
Hoàng Lan tại Hội An là 76,7% [9]. 
Nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất 
để cung cấp thức ăn lý tưởng cho sự tăng 
trưởng và phát triển khỏe mạnh của trẻ sơ 
sinh và các ưu điểm của nó bao gồm từ 
sinh lý đến tâm lý cho cả mẹ và trẻ. NCBSM 
không những mang lại nhiều lợi ích cho trẻ 
mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cả bà mẹ, 
gia đình và cộng đồng. Kết quả nghiên cứu 
ở bảng 1 cho thấy, kiến thức đúng của các 
thai phụ về những lợi ích của NCBSM khá 
cao, cụ thể, có đến 85,0% thai phụ biết 
đến lợi ích của NCBSM là “Giúp trẻ tăng 
trưởng, phát triển hài hòa và phòng chống 
suy dinh dưỡng” tỷ lệ này thấp hơn nghiên 
cứu của Phạm Văn Tùng (2017) là 99% [7]. 
Có 51,0% thai phụ biết đến lợi ích “Bảo vệ 
trẻ chống nhiễm khuẩn”. 30,7% biết đến lợi 
ích “Cải thiện tâm lý cho bà mẹ và trẻ” Tỷ lệ 
thai phụ biết đến lợi ích “Chi phí ít hơn so 
với nuôi nhân tạo” là 48,4. Có 47,7% thai 
phụ biết lợi ích “Góp phần bảo về sức khỏe 
cho trẻ trong suốt quá trình trưởng thành”, 
kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Đặng Cẩm Tú (2018) là 36,5% [8].Sự khác 
biệt này có thể do có sự khác nhau về đặc 
điểm của đối tượng nghiên cứu.
Sữa non là sữa có màu vàng, sánh 
được tạo vào cuối thai kỳ, là thực phẩm 
hoàn hảo nhất cho trẻ sau sinh. Việc bắt 
đầu cho trẻ bú mẹ sớm trong 1 giờ đầu có 
thể giúp ngăn chặn tình trạng tử vong sơ 
sinh do nhiễm trùng máu, viêm phổi và tiêu 
chảy. Cũng có thể ngăn chặn các trường 
hợp tử vong do hạ thân nhiệt, đặc biệt ở 
trẻ sơ sinh đẻ non và nhẹ cân. Tuy nhiên, 
tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng một giờ 
đầu sau khi sinh nói chung vẫn chưa cao. 
Với kết quả bảng 2 cho thấy, tỷ lệ các thai 
phụ có kiến thức đúng về thời gian cho trẻ 
bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 58,2% 
Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với 
nghiên cứu của Nguyễn Lân và Trịnh Bảo 
Ngọc (2013) tại Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên, 
tỷ lệ này là 56,5% [11], nghiên cứu ở Tây 
Nam Nigeria, kết quả cho thấy chỉ 56.5% 
số người cho con bú ngay sau sinh [12]. 
Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Lưu 
Ngọc Hoạt và cộng sự ở Hà Nội năm 2010 
là 30% [13] và thấp hơn số liệu thống kê 
của Tổng Điều tra Dinh dưỡng 2009 – 2010 
do Viện Dinh dưỡng Quốc gia thuộc Bộ Y tế 
thực hiện với sự giúp đỡ của UNICEF tỷ lệ 
cho trẻ bú dưới 1 giờ sau sinh là 76,2% [5]. 
Bú sớm giúp trẻ tập bú mẹ khi vú mẹ 
còn mềm và giúp co hồi tử cung, làm giảm 
mất máu sau sinh. Cho trẻ bú sớm ngay 
sau sinh sẽ tận dụng được tối đa nguồn 
sữa non. Vì sữa non là loại sữa có màu 
vàng và sánh đặc rất tốt cho sức khỏe của 
278
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
trẻ. Sữa non giàu kháng thể, nhiều protein 
kháng khuẩn, nhiều thế bào bạch cầu hơn 
sữa trưởng thành, giúp trẻ phòng chống 
nhiễm khuẩn, dị ứng và nhiều bệnh mà trẻ 
có thể mắc phải. Kết quả nghiên cứu bảng 
2 cho thấy, kiến thức đúng của thai phụ về 
lợi ích của sữa non đối với sự phát triển của 
trẻ chưa cao, có 71,2% thai phụ có kiến 
thức đúng về lợi ích của sữa non đối với 
“Phòng chống dị ứng và nhiễm khuẩn cho 
trẻ”, 52,3% kiến thức đúng sữa non đem 
lại lợi ích “Đào thải phân su và giảm tình 
trạng vàng da sinh lý của trẻ”, 39,2% bà mẹ 
kiến thức đúng lợi ích “Phòng bệnh khô mắt 
do thiếu vitamin A”. Do vậy cần đẩy mạnh 
công tác giáo dục sức khỏe cho thai phụ 
biết về lợi ích của sữa non đối với sự phát 
triển của trẻ.
Cho trẻ bú sớm ngay sau sinh là tạo khởi 
đầu hoàn hảo nhất cho bà mẹ và trẻ nhỏ 
trong suốt quá trình nuôi con, không những 
vậy trẻ bú mẹ ngay sau sinh sẽ tận dụng 
được tối đa nguồn sữa non. Việc cho trẻ bú 
sớm ngay sau sinh đem lại nhiều lợi ích cho 
cả mẹ và bé. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3 
chỉ ra rằng, 64,1% thai phụ nhận thức đúng 
về việc cho bú sớm “Giúp co hồi tử cung và 
tránh băng huyết sau đẻ”, 69,9% cho rằng 
bú sớm “Kích thích sữa mẹ và tăng cường 
sản xuất sữa”, 36,6% “Giúp mẹ phòng tránh 
thai và phòng ung thư vú ở mẹ”, kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên 
cứu của Phạm Văn Tùng (2017), tỷ lệ này 
là 68,6% các bà mẹ tham gia nghiên cứu 
nhận thức được NCBSM giúp mẹ phòng 
tránh thai, 81,9% nhận thức NCBSM giảm 
ung thư vú ở mẹ [7]. Vì vậy, công tác tuyên 
truyền giáo dục về lợi ích của việc cho trẻ 
bú sớm sau sinh ở các bệnh viện, phòng 
khám tư nhân về sản khoa nếu được chú 
trọng và đẩy mạnh sẽ góp phần không nhỏ 
vào việc nâng cao kiến thức của các bà mẹ 
về NCBSM.
Từ bảng 4 cho thấy, kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi chỉ ra rằng, thai phụ có kiến 
thức đúng về yếu tố hỗ trở cho sự tiết sữa 
giao động từ 26,1% – 85,0%. Đa số thai phụ 
cho rằng yếu tố “Ăn uống và lao động hợp 
lý”, “Tinh thần thoải mái” hỗ trợ cho sự tiết 
sữa, tỷ lệ này lần lượt là 85,0% và 68,6% 
đây là một nhận thức chưa đầy đủ vì sự 
bài tiết sữa ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. 
Có 28,1% thai phụ cho rằng “Sinh đẻ có kế 
hoạch”, 26,1% thai phụ cho rằng “Không sử 
dụng thuốc khi cho con bú” và 34,6% cho 
rằng “Đảm bảo hết kiệt sau mỗi lần bú”. Một 
số nghiên cứu khác chỉ ra rằng yếu tố “Cho 
trẻ bú cả ngày lẫn đêm” giúp hỗ trợ khả 
năng tiết sữa, nghiên cứu của Phạm Văn 
Tùng chỉ ra có 60,0% bà mẹ nhận thức điều 
này [18], nghiên cứu của Hoàng Thị Vân 
Lan cũng chỉ ra có 46,7% bà mẹ cho rằng 
“Cho trẻ bú cả ngày lẫn đêm” [14]. Từ kết 
quả nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn 
cán bộ y tế tiếp tục tư vấn cho thai phụ và 
gia đình biết những yếu tố ảnh hưởng đến 
khả năng tiết sữa nhằm tạo nguồn sữa dồi 
dào và đảm bảo mẹ có đủ sữa cho con bú 
hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
Kết quả bảng 5 cho thấy, tỷ lệ thai phụ 
có kiến thức đúng về dấu hiệu trẻ đòi ăn 
đạt 50,3%, tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng 
dấu hiệu trẻ bú có hiệu quả là 54,2%. Cùng 
với kết quả bảng 5 cho thấy, có 89 thai phụ 
tham gia nghiên cứu nhận biết đúng dấu 
hiệu trẻ ngậm bắt vú đúng chiếm 58,2%. Kết 
quả này thấp hơn nghiên cứu của Tôn Thị 
Anh Tú, Nguyễn Thu Tịnh tại Bệnh viện Nhi 
Đồng I thành phố Hồ Chí Minh là 72,06% 
[15]. Nếu mẹ không có kiến thức đúng về 
kỹ thuật cho trẻ bú sẽ có nhiều hậu quả xảy 
ra cho cả mẹ và trẻ, ảnh hưởng không nhỏ 
lên sự phát triển toàn diện của đứa trẻ và 
tâm lý của bà mẹ. Vì vậy ngoài việc tuyên 
truyền, giáo dục kiến thức để các bà mẹ có 
nhận thức đúng về NCBSM, chúng ta cần 
phải thường xuyên và tăng cường các hoạt 
động tập huấn, huấn luyện kỹ thuật cho trẻ 
bú tới các bà mẹ.
Từ bảng 5 cho thấy, kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi chỉ ra rằng, đa số thai phụ có 
kiến thức đúng về số lần cho trẻ bú trong 
ngày “Cho trẻ bú theo nhu cầu kể cả ngày 
và đêm” là 76,5%, kết quả này tương đồng 
với kết quả của Phạm Văn Tùng (2017) tại 
Nam Định là 77,1% [7]. 
279
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Khảo sát kiến thức về nuôi con bằng sữa 
mẹ của 153 thai phụ kết quả cho thấy, tỷ lệ 
thai phụ có kiến thức chung đạt chiếm tỷ lệ 
rất thấp 10,5%, tỷ lệ các thai phụ có kiến 
thức chung chưa đạt chiếm tỷ lệ 89,5% 
tương ứng với 137 thai phụ. Với kết quả 
đó, chúng tôi mong muốn công tác truyền 
thông giáo dục sức khỏe về việc NCBSM 
được đẩy mạnh không chỉ ở các bệnh viện, 
các cán bộ y tế mà công tác truyền thông 
phải được đẩy mạnh tại các địa phương, 
trạm y tế xã, nhằm nâng cao kiến thức 
cho các thai phụ về việc cho con bú ngay 
sau sinh và NCBSM.
KẾT LUẬN
Phỏng vấn 153 thai phụ đến khám tại 
Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định về kiến 
thức nuôi con bằng sữa mẹ, chúng tôi đưa 
ra kết luận sau: 
Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ 
của các thai phụ là chưa tốt
+ Tỷ lệ thai phụ có kiến thức chung chưa 
đạt là 89,5%
+ Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về 
khái niệm nuôi con bằng sữa mẹ là 78,4%.
+ Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về 
khái niệm sữa non là 66,7%.
+ Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về 
thời gian cho con bú mẹ ngay sau sinh (30 
phút - 1 giờ) là 58,2%.
+ Tỷ lệ thai phụ có kiến thức chưa đúng 
về dấu hiệu trẻ bú có hiệu quả là 45,8%.
Với kết quả nghiên cứu trên, nhóm 
nghiên cứu đưa ra khuyến nghị sau: Cần 
thường xuyên tổ chức các buổi truyền 
thông về kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ 
và bú sớm ngay sau sinh. Từ đó, góp phần 
nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ và cải 
thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Joshi S, Barakoti B, Lamsal S. 
Colostrum Feeding (2012). Knowledge, 
Attitude and Practice in Pregnant 
Women in a Teaching Hospital in Nepal. 
WebmedCentral Medical Education 2012.
2. Kumar D, Goel NK, Mittal PC, Misra 
P (2006). Influence of infant-feeding 
practice on nutritional status of under-five 
children. Indian J, 2006;73:417–22
3. Bộ Y tế (2015). Tài liệu Nuôi dưỡng 
trẻ nhỏ 2015.
4. Ngô Tùng Lâm (2019). Báo cáo đánh 
giá công tác chăm sóc sơ sinh sớm thiết 
yếu của khu vực Tây Thái Bình Dương 
năm 2016-2017, Viện Y học Biển Việt Nam, 
Khoa Sản Nhi.
5. Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế (2012). 
Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 
2009-2010
6. Đỗ Thị Ngọc Lan (2018). Khảo sát kiến 
thức về việc nuôi con bằng sữa mẹ của các 
bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản Nam 
Định năm 2018, Luận văn thạc sỹ, Trường 
Đại học Điều Dưỡng Nam Định.
7. Phạm Văn Tùng (2017). Thay đổi 
nhận thức về nuôi con bằng sữa mẹ của 
các bà mẹ có con từ 0 – 6 tháng tuổi tại 
thành phố Nam Định năm 2017 sau can 
thiệp giáo dục, Luận văn thạc sỹ, Trường 
Đại học Điều Dưỡng Nam Định.
8. Đặng Cẩm Tú. Thực trạng kiến thức, 
thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 
của các bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi tại 
3 tỉnh Hà Nam, Quảng Bình, Lào Cai và 
hiệu quả một số biện pháp can thiệp, 2013-
2015, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Y 
tế công cộng.
9. Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn 
Hoàng Lan, Nghiên cứu tình hình 
NCHTBSM trong 6 tháng đầu tại thành phố 
Hội An, Tạp chí y dược học, Trường Đại 
học Y dược Huế tập 6, số 3- tháng 6/2017
10. Trường Đại Học Y dược Huế. Tìm 
hiểu kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ 
của các sản phụ tại phòng hậu sản khoa 
sản Bệnh viện trường Đại hoc Y dược Huế 
năm 2013, Luận văn thạc sỹ.
11. Nguyễn Lân và Trịnh Bảo Ngọc 
(2013). Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ, 
thực hành ăn bổ sung, tình hình nuôi dưỡng 
và bệnh tật của trẻ em từ 5 – 6 tháng tại 
huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên năm 2013, 
Tạp chí y học thực hành (886) số 11/2013.
280
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
12. Bhatt Shwetal, Parikh Pooja, 
Kantharia Neha, Dahat Amit, Parmar 
Rahul. Knowledge, attitude and practice 
of postnatal mothers for early initiation of 
breast feeding in the obstetric wards of a 
tertiary care hospital of Vadodara city.
13. Lưu Ngọc Hoạt, Lê Thị Hương, Lê 
Thị Thanh Xuân (2010), Kiến thức và thực 
hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ 
Hà Nội năm 2010 - Các rào cản và yếu tố 
thúc đẩy. Tạp chí Y học Thực hành (723), 
số 6/2010.
14. Hoàng Thị Vân Lan và cộng sự 
(2013). Đánh giá hiệu quả của việc tư vấn 
nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ có 
con dưới 6 tháng tuổi tại Bệnh viện Nhi tỉnh 
Nam Định, Đề tài cấp cơ sở, Trường Đại 
học Điều dưỡng Nam Định.
15. Tôn Thị Anh Tú, Nguyễn Thu Tịnh. 
Kiến thức, thái độ, thực hành về NCBSM 
của các bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi 
tại Bệnh viên Nhi Đồng 1 từ 1/12/2009 đến 
30/4/2010, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 
tập 15
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC TRẺ MẮC BỆNH BẠCH CẦU CẤP CỦA 
NGƯỜI CHĂM SÓC CHÍNH TẠI VIỆN HUYẾT HỌC VÀ TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 
Đỗ Thị Hòa1, Phạm Thị Bích Ngọc1, Vũ Hồng Nhung1, 
Đinh Thị Thu Huyền1, Phạm Thị Thu Cúc1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức 
về chăm sóc trẻ mắc bệnh bạch cầu cấp 
của người chăm sóc chính tại Viện Huyết 
học truyền máu trung ương. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 182 
người chăm sóc chính trẻ mắc bệnh bạch 
cầu cấp tại Khoa Bệnh máu Trẻ em, Viện 
Huyết học truyền máu trung ương. Kết 
quả: Tỷ lệ kiến thức đạt của người chăm 
sóc chính về chăm sóc trẻ mắc bạch cầu 
cấp là 70,9%. Trong đó, kiến thức chung về 
bệnh có giá trị trung bình lớn nhất là 11 ± 
3,08. Phần lớn, người chăm sóc chính biết 
chế độ ăn của trẻ cần giàu dinh dưỡng và 
trẻ cần uống nhiều các loại dịch mỗi ngày. 
Tuy nhiên, còn một số kiến thức về chăm 
sóc trẻ còn hạn chế như kiến thức không 
đúng và không biết về chế độ ăn trước hóa 
trị liệu tương ứng là: 56% và 23,1%, người 
chăm sóc không biết đến các dấu hiệu thiếu 
máu ở trẻ (28,6%), không biết nguyên nhân 
gây bệnh (44,5%),. Chế độ vận động cho 
trẻ chưa hợp lý, có 33,5% người chăm sóc 
chính cho rằng cần hạn chế vận động thể 
dục nhẹ hàng ngày và 24,7% người chăm 
sóc vẫn cho trẻ vận động bình thường khi 
trẻ có xuất huyết và nhiễm trùng nặng.Có 
mối liên quan giữa trình độ học vấn, giới 
tính và kiến thức chăm sóc trẻ của người 
chăm sóc chính, với p< 0,05. Kết luận: 
Thực trạng kiến thức về chăm sóc trẻ của 
người chăm sóc chính trẻ mắc bệnh bạch 
cầu cấp là khá tốt với tỷ lệ người chăm sóc 
chính có kiến thức đạt là 70,9%. Tuy nhiên, 
kiến thức về tuân thủ chế độ ăn trước hóa 
trị liệu, nhận biết dấu hiệu thiếu máu và vận 
động hợp lý cho trẻ còn hạn chế. 
Từ khóa: Bệnh bạch cầu cấp, kiến thức, 
người chăm sóc chính.
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Thị Hòa
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 13/10/2020
Ngày duyệt bài: 25/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_nuoi_con_bang_sua_me_cua_cac_thai_phu_d.pdf