Thực trạng khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành nhằm mô tả thực trạng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng năm 2012. Kết quả: Vẫn còn tình trạng bất cập giữa khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ về cả cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực, sự phối hợp liên ngành cũng như hạn chế về nhận thức của cộng đồng với nhu cầu được phát hiện sớm, can thiệp sớm của trẻ khiếm thính. Hầu hết (98%) trẻ khiếm thính được phát hiện bởi gia đình và đa số được chẩn đoán xác định tại các bệnh viện tuyến Trung ương (76,8%). Trẻ khiếm thính được phát hiện, chẩn đoán và can thiệp rất muộn, hiệu quả can thiệp bị hạn chế (tuổi tương ứng 22,3; 34; và 32,5 tháng). Có tới 63,6% gia đình phải tự xoay xở với vấn đề khiếm thính của con em mình. Dữ liệu nghiên cứu cho thấy sự cần thiết thực hiện những giải pháp can thiệp để tăng cường hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm giúp cho trẻ khiếm thính được phát hiện sớm, can thiệp kịp thời và phù hợp

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng

Thực trạng khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 157
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CUNG ỨNG CỦA CÁC CƠ SỞ 
CUNG CẤP DỊCH VỤ CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ 
KHIẾM THÍNH TẠI HẢI PHÒNG
Nguyễn Ngọc Hà1, Nguyễn Tuyết Xương2, Nguyễn Anh Dũng3, Võ Thanh Quang4
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành nhằm mô 
tả thực trạng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can 
thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng năm 2012. Kết 
quả: Vẫn còn tình trạng bất cập giữa khả năng cung ứng của 
các cơ sở cung cấp dịch vụ về cả cơ sở vật chất, trang thiết 
bị và nhân lực, sự phối hợp liên ngành cũng như hạn chế về 
nhận thức của cộng đồng với nhu cầu được phát hiện sớm, 
can thiệp sớm của trẻ khiếm thính. Hầu hết (98%) trẻ 
khiếm thính được phát hiện bởi gia đình và đa số được chẩn 
đoán xác định tại các bệnh viện tuyến Trung ương (76,8%). 
Trẻ khiếm thính được phát hiện, chẩn đoán và can thiệp rất 
muộn, hiệu quả can thiệp bị hạn chế (tuổi tương ứng 22,3; 
34; và 32,5 tháng). Có tới 63,6% gia đình phải tự xoay xở với 
vấn đề khiếm thính của con em mình. Dữ liệu nghiên cứu cho 
thấy sự cần thiết thực hiện những giải pháp can thiệp để tăng 
cường hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm giúp cho trẻ khiếm 
thính được phát hiện sớm, can thiệp kịp thời và phù hợp.
Từ khóa: Khiếm thính, trẻ em, phát hiện sớm, can thiệp 
sớm, dịch vụ, Hải Phòng.
SUMMARY: ACTUAL SITUATION OF THE 
PROVIDING CAPACITY OF SERVICE DELIVERY 
FACILITIES FOR CHILDREN WITH HEARING 
LOSS IN HAI PHONG
The descriptive cross-sectional study was carried in order 
to describe the actual situation of the early intervention 
service delivery system for children with hearing loss in 
Haiphong in 2012. The results showed that: there were still 
shortcomings in the providing capacity of service delivery 
facilities regarding material facilities, supplies and equipment, 
and human force; inter-disciplinary coordination of activities 
as well as inadequate community awareness and the need 
of early detection and intervention among children with 
hearing loss. Most children with hearing loss (98%) were 
detected by their family and the majority were identified 
at central hospitals (76.8%).The hearing impaired children 
were detected, diagnosed, and intervened very late (the 
average ages of detection, diagnosis and intervention were 
22.3, 34 and 32,5 months, respectively), so the effectiveness 
of interventions was limited. Up to 63.6% of families had 
to struggle with the problem of their child’ hearing loss. 
The data showed that implementing intervention solutions 
are needed to enhance the service delivery system and to 
help hearing impaired children in terms of early detection, 
timely and appropriate intervention.
Keywords: Hearing loss; children; early detection; early 
intervention; service; Haiphong. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khiếm thính (hay nghe kém, giảm thính lực) bẩm sinh là 
một trong những khuyết tật thường gặp nhất, gây ảnh hưởng 
suốt đời cho trẻ và gia đình [1]. Việc phát hiện sớm khiếm 
thính cùng với can thiệp kịp thời, phù hợp có vai trò rất quan 
trọng giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ, lời nói và nhận thức 
để hòa nhập xã hội [1]. Vì vậy, việc cung cấp đầy đủ dịch vụ 
can thiệp sớm đảm bảo tính sẵn có để trẻ khiếm thính và gia 
đình dễ dàng tiếp cận có ý nghĩa rất quan trọng.
Trên thế giới, can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính đã trở 
thành tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe trẻ em và chương trình 
mục tiêu quốc gia ở các nước phát triển [2]. Tuy nhiên do 
điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau giữa các nước 
1. Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng. Email: [email protected], ĐT: 0912427567
2. Bệnh viện Nhi Trung ương, Hà Nội
3. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội
4. Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương, Hà Nội
Ngày nhận bài: 19/01/2017 Ngày phản biện: 26/01/2017 Ngày duyệt đăng: 01/02/2017
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn158
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
phát triển và đang phát triển mà mô hình cũng khác nhau 
từ quy mô, nội dung, tổ chức thực hiện đến chất lượng dịch 
vụ, [2]. Ở Việt Nam, can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính còn 
là một lĩnh vực non trẻ, vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó 
khăn và thách thức như: chưa hình thành hệ thống, vẫn thiếu 
các dịch vụ để cung cấp đủ cho nhu cầu của bản thân trẻ và 
gia đình [3]; chưa có nhiều chương trình cụ thể để hỗ trợ sự 
phát triển dịch vụ này ở các cơ sở mặc dù Đảng, Nhà nước đã 
có những chính sách định hướng, khuyến khích. Cũng như ở 
các địa phương khác, xác định những sự bất cập trong việc 
cung cấp dịch vụ can thiệp sớm ở Hải phòng là một nhu cầu 
cấp thiết, góp phần cung cấp một số bằng chứng khoa học và 
thực tiễn cho giải pháp tăng cường khả năng đáp ứng của hệ 
thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính, 
nhằm giúp trẻ được phát hiện sớm, can thiệp kịp thời, phù 
hợp. Đó là lý do chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Thực 
trạng khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ can 
thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng”.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu.
Các cơ sở liên quan đến cung ứng dịch vụ can thiệp 
sớm (CTS) cho trẻ khiếm thính (KT) tại Hải Phòng gồm: 
Trường Khiếm thính Hải Phòng, Bệnh viện (BV) Hữu Nghị 
Việt - Tiệp, BV Trẻ em, BV Phụ sản, Trung tâm Thính học 
Cát Tường Hải Phòng (gọi là Trung tâm Thính học), Quỹ 
Bảo trợ trẻ em (BTTE) Hải Phòng; Đại diện cán bộ quản lý 
các cơ sở nêu trên; Giáo viên dạy CTS Trường Khiếm thính 
Hải Phòng; Trẻ khiếm thính và phụ huynh có tên trong hồ 
sơ lưu trữ tại các cơ sở. Những trẻ > 15 tuổi, nghe kém do 
mắc phải hoặc gia đình và trẻ không đồng ý tham gia sẽ 
không được lựa chọn.
Nghiên cứu được tiến hành có chủ đích tại các cơ sở nêu 
trên, từ tháng 10/2012 – 12/2012.
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp giữa định lượng 
và định tính.
- Cỡ mẫu: Chọn mẫu thuận tiện có chủ đích như sau:
Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ CTS: Chọn toàn bộ 
06 cơ sở; đại diện cán bộ quản lý cơ sở (06 người); giáo viên 
dạy CTS (05 người).
Đối với trẻ khiếm thính: Chọn tất cả 353 trẻ KT có hồ sơ 
lưu tại các cơ sở trên, thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn (nghiên 
cứu định lượng); 30 phụ huynh (nghiên cứu định tính).
Đối với phỏng vấn và thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm 
cán bộ quản lý (01 cuộc); thảo luận nhóm giáo viên (01 
cuộc). Phỏng vấn sâu cán bộ quản lý (06 cuộc); phỏng vấn 
sâu giáo viên (05 cuộc) và phỏng vấn sâu phụ huynh (30 
cuộc).
Các chỉ số nghiên cứu chính: nhân lực, trang thiết bị, 
dịch vụ của các đơn vị; tỉ lệ trẻ được chẩn đoán tại Hải 
Phòng và tuyến Trung ương; tuổi phát hiện, chẩn đoán, can 
thiệp của trẻ KT...
 - Một số khái niệm: Tuổi phát hiện (tháng): Lần đầu tiên 
trẻ được nhận thấy có biểu hiện nghe kém. Tuổi chẩn đoán 
ban đầu (tháng): Lần đầu tiên trẻ được đưa đi khám TMH 
hoặc kiểm tra thính lực sau khi phát hiện nghe kém. Tuổi 
chẩn đoán cuối cùng (tháng): Khi trẻ chính thức được xác 
định nghe kém thông qua đo thính lực. Tuổi đeo máy (tháng): 
Lần đầu tiên trẻ được đeo máy trợ thính và bắt đầu sử dụng. 
Tuổi can thiệp: Khi trẻ bắt đầu nhận được chương trình giáo 
dục và phục hồi chức năng thính giác (tham gia trị liệu ngôn 
ngữ-lời nói). 
2.1. Công cụ thu thập số liệu
Phiếu điều tra cơ sở cung ứng dịch vụ CTS, phiếu điều 
tra trẻ KT, nội dung hướng dẫn thảo luận nhóm cán bộ quản 
lý, giáo viên, bộ câu hỏi phỏng vấn sâu cán bộ quản lý, giáo 
viên và phụ huynh. 
2.2. Các bước tiến hành 
Bước 1: Điều tra cắt ngang các cơ sở cung cấp dịch vụ, 
phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với lãnh đạo các cơ sở, 
giáo viên dạy CTS nhằm thu thập số liệu về nguồn lực, hoạt 
động cung ứng dịch vụ.
Bước 2: Thu thập thông tin về thực trạng tiếp cận và sử 
dụng dịch vụ CTS của trẻ KT cùng gia đình qua hồi cứu hồ 
sơ, thống kê của các đơn vị và phỏng vấn phụ huynh.
Bước 3: Phân tích và xử lý số liệu.
2.3. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 12.0. 
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của cơ sở nghiên cứu, gia 
đình và bản thân đối tượng (với trẻ >12 tuổi). Đối tượng 
tham gia được bảo đảm các quyền lợi trong khám và điều trị; 
đảm bảo giữ kín thông tin, chỉ sử dụng cho nghiên cứu và 
mục tiêu sức khỏe cộng đồng.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thực trạng nguồn lực của các đơn vị và tính sẵn 
có của dịch vụ
Có 06 cơ sở liên quan đến cung ứng dịch vụ CTS tại Hải 
Phòng. Trong đó, thuộc ngành y tế có 03 cơ sở công lập và 01 
cơ sở tư nhân; 02 cơ sở công lập còn lại thuộc Sở GD & ĐT 
và Sở LĐ – TB & XH. Chưa có cơ sở công lập nào có đầy đủ 
trang thiết bị sàng lọc, chẩn đoán và cung cấp đầy đủ dịch vụ 
CTS. Khả năng cung cấp dịch vụ CTS giữa các đơn vị trong 
hệ thống khá chênh lệch.
Nguồn nhân lực của các cơ sở cung cấp dịch vụ
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 159
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Bảng 1. Thông tin nguồn nhân lực của các cơ sở y tế 
cung cấp dịch vụ CTS
Chỉ số
BV
 Việt Tiệp
BV
 Trẻ em
BV 
Phụ sản
TT 
Thính 
học
Bác sỹ TMH 09 05 0 01
Bác sỹ PHCN 05 05 0 0
Kỹ thuật viên 
thính học
0 01 0 03
Giáo viên 
dạy CTS
0 0 0 04
Nguồn nhân lực của các cơ sở y tế cung cấp dịch vụ CTS 
vừa phân bố không đều, vừa thiếu. Chỉ Trung tâm Thính học 
là có đầy đủ cơ cấu nhân lực cho một quy trình CTS khép 
kín. Với cơ cấu nhân lực như vậy đã hạn chế rất nhiều khả 
năng cung cấp dịch vụ CTS của các cơ sở này.
Bảng 2. Mô tả nguồn nhân lực của Trường Khiếm thính
Chỉ số Số lượng %
Tổng số 23 100
Trình độ đào tạo
Đại học 21 91,4
Cao đẳng 01 4,3
Trung cấp 01 4,3
Chuyên ngành đào tạo
Sư phạm chung 20 87
Giáo dục đặc biệt 02 8,7
Y tế 01 4,3
Thâm niên công tác
< 5 năm 0 0
5 06 26,1
> 10 năm 17 73,9
Hoạt động chuyên môn
Dạy văn hóa 16 69,6
Dạy nghề 06 26,1
Y tế 01 4,3
Trường Khiếm thính có 23 giáo viên và cán bộ y tế, trong 
đó 16 giáo viên dạy văn hóa, 06 giáo viên dạy nghề và 01 bác 
sỹ đa khoa vừa chăm sóc y tế, vừa chăm sóc thính học. Giáo 
viên có thâm niên công tác trên 10 năm chiếm đa số (73,9%). 
Không có nhân viên chuyên làm công tác xã hội. Một số 
giáo viên kiêm thêm dạy CTS. Chỉ có 02 giáo viên được đào 
tạo chuyên về giáo dục đặc biệt (8,7%). Kết quả nghiên cứu 
này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đặng T. Mỹ 
Phương [4] khảo sát một số trường chuyên biệt ở TP HCM: 
Đa số các trường chưa có biên chế riêng cho CTS, giáo viên 
phải kiêm nhiệm công tác giảng dạy, không có thời gian đầu 
tư về chuyên môn CTS. Giáo viên còn lúng túng trong công 
tác hướng dẫn phụ huynh và triển khai giáo dục sớm cho trẻ 
KT. Thực trạng này cũng được đề cập tới trong một số 
nghiên cứu khác, và đang là thách thức lớn đối với ngành 
giáo dục [5-7]. Điều này cho thấy sự cần thiết bồi dưỡng 
chuyên môn về CTS cho cán bộ, giáo viên trực tiếp tham gia 
CTS để họ có thể nâng cao kiến thức, kĩ năng hướng dẫn phụ 
huynh; đồng thời họ cũng là đội ngũ cốt cán để tiến hành bồi 
dưỡng giáo dục hòa nhập cho giáo viên trực tiếp dạy trẻ KT 
ở các trường mầm non, tiểu học, trung học. 
Cơ sở vật chất của các cơ sở cung cấp dịch vụ
Bảng 3. Mô tả cơ sở vật chất của các cơ sở y tế cung cấp 
dịch vụ CTS
Chỉ số
BV
 Việt Tiệp
BV
 Trẻ em
BV 
Phụ sản
TT 
Thính 
học
Cơ sở vật chất
Phòng cách âm 01 01 0 01
Phòng dạy can 
thiệp sớm
0 0 0 03
Trang thiết bị đặc thù
Máy đo sàng 
lọc (OAE)
0 0 0 01
Máy đo thính 
lực đơn âm
01 01 0 01
Máy đo chẩn 
đoán xác định 
(ABR, ASSR)
0 0 0 01
Máy đo nhĩ 
lượng và đo 
phản xạ cơ bàn 
đạp
0 0 0 01
Thiết bị hiệu 
chỉnh máy 
trợ thính
0 0 0 01
Bộ dụng cụ 
khám TMH 
02 02 0 01
Bộ khám nội 
soi TMH
01 01 0 0
Bảng trên cho thấy, ngoài Trung tâm Thính học là đơn vị 
tư nhân có đủ cơ sở vật chất cho các dịch vụ từ sàng lọc phát 
hiện sớm cho đến can thiệp thì các cơ sở y tế công lập đều 
thiếu các thiết bị cần thiết để sàng lọc và chẩn đoán thính học 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn160
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
như máy đo OAE, máy đo ABR, ASSR... Tình trạng này đã 
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cung cấp dịch vụ của các cơ 
sở. Đây cũng là thực trạng của hệ thống các cơ sở y tế công 
lập nói chung và hệ thống các cơ sở chuyên khoa Tai Mũi 
Họng nói riêng [1], [5], [6].
Bảng 4. Mô tả cơ sở vật chất của Trường Khiếm thính
Chỉ số Số lượng
Máy đo sàng lọc
Máy đo thính lực đơn âm 0
Máy đo chẩn đoán xác 
định
01
 (ABR, ASSR) 0
Máy đo nhĩ lượng 01
Thiết bị hiệu chỉnh 
máy trợ thính
 0
Bộ dụng cụ khám TMH 01
Cơ sở vật chất Số lượng Diện tích (m2)
Phòng cách âm 01 16
Phòng dạy văn hóa 13 678
Phòng dạy can thiệp sớm 04 64
Phòng dạy nghề 08 559
Hành chính tổng hợp 11 569
Nhà ăn + khu nội trú 18 907
Kinh phí dành cho 
can thiệp sớm
Không có kinh phí riêng 
Trường Khiếm thính có cơ sở vật chất tương đối phong 
phú. Có 01 phòng cách âm để đo thính lực, 04 phòng để dạy 
tiết cá nhân. Tuy nhiên, máy đo thính lực đơn âm chỉ đo được 
cho các trẻ ≥ 3 tuổi đã biết hợp tác. Vẫn cần có thêm phòng 
cách âm để trị liệu ngôn ngữ và cần có thiết bị để sàng lọc, 
chẩn đoán thính học. Kinh phí cấp cho Trường dành cho các 
hoạt động chung, không có kinh phí cấp riêng cho hoạt động 
CTS, Nhà trường phải tự cân đối nguồn thu - chi và huy động 
sự đóng góp của gia đình. Như vậy, việc đầu tư cho cơ sở vật 
chất, trang thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học đặc thù, 
đáp ứng nhu cầu CTS cho trẻ KT chưa được quan tâm tương 
xứng với qui mô giáo dục của Trường.
Khiếm thính là một tật ẩn không nhìn thấy được, việc xác 
định sớm khuyết tật thính giác đòi hỏi các phương pháp đo 
phù hợp với từng độ tuổi của trẻ. Do vậy, trang thiết bị chẩn 
đoán là yếu tố quan trọng không thể thiếu của các cơ sở cung 
cấp dịch vụ. Trong khi các cơ sở công lập không có đủ trang 
thiết bị sàng lọc chẩn đoán thì Trung tâm Thính học là cơ sở 
tư nhân lại có đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị để cung cấp 
đầy đủ dịch vụ. Điều này cho thấy việc đầu tư cho phát triển 
chuyên môn thính học nói chung và sàng lọc phát hiện sớm 
khiếm thính nói riêng tại các cơ sở y tế công lập chưa được 
quan tâm đúng mức. Kết quả thảo luận nhóm đại diện cán bộ 
quản lý các đơn vị đã cho thấy rõ hơn nguyên nhân của việc 
này là do nguồn lực có hạn và còn nhiều lĩnh vực chuyên 
môn ưu tiên khác.
Hoạt động cung ứng dịch vụ
Bảng 5. Các loại hình dịch vụ can thiệp sớm được cung 
ứng trong năm 2012
Cơ sở
cung 
cấp
dịch vụ
Các loại hình dịch vụ
Sàng
lọc
Chẩn 
đoán
Cung 
cấp thiết 
bị trợ 
thính
Chăm 
sóc 
thính 
học
Tư 
vấn, hỗ 
trợ gia 
đình
Trị 
liệu 
ngôn 
ngữ
BV Viêt 
Tiệp
- - - + - -
BV Trẻ 
em
- - - + - -
BV Phụ 
sản
- - - - - -
Trường 
Khiếm 
thính
- - - + + +
Trung 
tâm 
Thính 
học
+ + + + + +
Quỹ 
BTTE
- - - - - -
Các dịch vụ CTS còn thiếu và chưa phân phối đầy đủ ở 
các cơ sở. Dịch vụ sàng lọc phát hiện, chẩn đoán sớm cho 
trẻ dưới 3 tuổi, dịch vụ cung cấp thiết bị trợ thính chỉ được 
cung cấp bởi 01 đơn vị là Trung tâm Thính học. Dịch vụ trị 
liệu ngôn ngữ có ... vụ 
dạy nghe - nói để cho cháu học tiếp nên khả năng nghe - nói 
của cháu bị kém đi. Cháu đi học hòa nhập muộn một năm so 
với bạn bè. Bây giờ cháu vẫn nghe được nhưng nói bị ngọng 
nhiều và giao tiếp vẫn phải kết hợp với đọc hình miệng”. 
Cháu Nguyễn P. Y. là điển hình cho thấy khả năng tiếp cận 
dịch vụ CTS của gia đình trẻ KT rất khó khăn do các cơ 
sở cung cấp dịch vụ trên địa bàn Hải Phòng chưa đáp ứng 
được nhu cầu sử dụng dịch vụ. Cháu cũng là điển hình cho 
hiệu quả can thiệp bị hạn chế. Mặc dù gia đình đã cố gắng 
cho cháu đeo máy trợ thính tốt nhất ngay sau khi được chẩn 
đoán nhưng quá trình can thiệp bị gián đoạn đã ảnh hưởng rất 
nhiều đến khả năng nghe - nói. Đồng thời vai trò của cán bộ, 
nhân viên y tế trong việc phát hiện, chẩn đoán sớm KT và tư 
vấn cho gia đình còn nhiều hạn chế. Điều này cho thấy công 
tác TT-GDSK nâng cao nhận thức cộng đồng cần được tiến 
hành rộng rãi tới mọi đối tượng trong cộng đồng. 
So sánh việc cung cấp dịch vụ với các nước tiên tiến 
chúng ta thấy sự khác biệt rất lớn. Tại Mỹ, mỗi bang và 
vùng lãnh thổ đều có một hệ thống phát hiện và can thiệp 
sớm khiếm thính (EHDI- Early Hearing Detection and 
Intervention). Tất cả trẻ sơ sinh được sàng lọc thính lực 
trước khi xuất viện với tỉ lệ >95%. Thông tin về những trẻ đã 
và chưa được sàng lọc sẽ được gửi cho chương trình EHDI 
của bang và cho Medical Home (Dịch vụ y tế tại nhà). Với 
sự điều phối của Medical Home, trẻ không qua được sàng 
lọc lần 2 sẽ tiếp tục được gửi đánh giá chẩn đoán thính học 
chuyên sâu; những trẻ chưa được sàng lọc hoặc được sinh ra 
tại nhà hay trung tâm hộ sinh cũng dễ dàng tiếp cận dịch vụ 
trên địa bàn, thậm chí có thể cho trẻ sàng lọc thính lực tại cơ 
sở thính học tư nhân hoặc phòng mạch tư [2], [9].
Như vậy, để tăng tính sẵn có của dịch vụ tại các cơ sở 
y tế, việc đầu tư cơ sở vật chất cho phát triển chuyên môn 
thính học là rất cần thiết và hợp lý với quy mô phân tuyến 
kỹ thuật của bệnh viện tuyến tỉnh/thành. Việc đầu tư thiết 
bị sàng lọc thính lực tại các cơ sở sản khoa, nhi khoa cũng 
không quá phức tạp nhưng mang lại nhiều lợi ích thiết thực. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho ta thấy khoảng trống rất lớn ở 
hoạt động cung cấp dịch vụ can thiệp và tư vấn, hỗ trợ gia 
đình. Tại các cơ sở y tế công lập, khoa PHCN mới chỉ có 
các hoạt động vật lý trị liệu, vận động trị liệumà chưa có 
trị liệu ngôn ngữ - lời nói. Trung tâm Thính học là cơ sở tư 
nhân - thuộc Công ty TNHH Máy trợ thính và Thiết bị thính 
học Cát Tường, Hà Nội - hoạt động trong lĩnh vực thính học 
và cung cấp thiết bị trợ thính. Từ 2010 trở lại đây, Trung tâm 
đã có thêm thiết bị sàng lọc và chẩn đoán thính học chuyên 
sâu. Do vậy, các dịch vụ được cung cấp tại chỗ đầy đủ, từ 
sàng lọc, chẩn đoán, cung cấp thiết bị trợ thính tới can thiệp. 
Trung tâm đã có vai trò rất lớn trong việc cung cấp dịch vụ 
thính học tại Hải Phòng trong những năm gần đây, góp phần 
làm tăng tính sẵn có của dịch vụ và tăng cường khả năng tiếp 
cận của gia đình trẻ KT. Tuy nhiên, Trung tâm cũng có những 
hạn chế nhất định trong việc mở rộng qui mô hoạt động so 
với các cơ sở y tế công lập.
Trong khi các cơ sở y tế có vai trò đi đầu trong việc thực 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn162
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hiện sàng lọc, chẩn đoán thính học thì Trường Khiếm thính 
là cơ sở giáo dục công lập đóng vai trò quan trọng trong việc 
cung cấp dịch vụ can thiệp cho trẻ KT tại Hải Phòng. Tuy 
nhiên, hoạt động này chưa được quan tâm phát triển thành 
mũi nhọn chuyên môn, mặc dù đã được triển khai sau đề án 
bổ sung chức năng nhiệm vụ cho Trường năm 2006. Trường 
duy trì hướng dẫn tại lớp hoặc tại gia đình cho khoảng 10 - 15 
trẻ KT từ 4 - 6 tuổi. Trong số này, do được phát hiện, chẩn 
đoán muộn nên hiệu quả can thiệp hạn chế, những trẻ có khả 
năng ra học hòa nhập không nhiều, còn lại phần lớn tiếp tục 
chuyển tiếp học văn hóa trong Trường thông qua ngôn ngữ kí 
hiệu hoặc theo phương thức giao tiếp tổng hợp nhưng ngôn 
ngữ kí hiệu vẫn chiếm phần chủ yếu. Theo kết quả nghiên 
cứu định tính và quan sát của chúng tôi, hoạt động CTS chưa 
được tổ chức chặt chẽ và chưa phát triển tương xứng với qui 
mô giáo dục của Nhà trường. Phân tích nguyên nhân của tình 
trạng trên có nhiều lý do, nhưng nổi bật lên là: Trường còn 
thiếu trang thiết bị và nhân lực; không có kinh phí để đầu tư 
mở rộng qui mô hoạt động; dịch vụ tư vấn CTS của Trường 
mới chỉ được lồng ghép vào các dịp tuyển sinh, hoặc khi phụ 
huynh có nguyện vọng, mà chưa có các hoạt động truyền 
thông chủ động đến cộng đồng nên chưa thực sự thu hút 
được sự quan tâm của phụ huynh có con trong độ tuổi CTS; 
chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ sở y tế nên không 
có được dịch vụ theo dõi can thiệp sau chẩn đoán đối với trẻ 
KT, những trẻ KT tìm đến Trường thường đã qua giai đoạn 
tốt nhất để phát triển ngôn ngữ. Đây cũng là những thách 
thức rất lớn đối với Nhà trường. Như vậy có thể thấy hoạt 
động CTS có được phát triển mở rộng qui mô hay không, đòi 
hỏi sự chủ động từ phía Nhà trường cộng với sự quan tâm chỉ 
đạo của lãnh đạo cấp trên và sự phối hợp của các ban ngành 
liên quan.
Quỹ Bảo trợ trẻ em thành phố Hải Phòng là đơn vị sự 
nghiệp thuộc Sở LĐ – TB & XH, thực hiện chức năng tổ 
chức vận động nhằm khai thác các nguồn lực, tài trợ trong 
nước và quốc tế để góp phần thực hiện mục tiêu bảo vệ, chăm 
sóc và giáo dục trẻ em. Trong đó ưu tiên trẻ em có hoàn cảnh 
đặc biệt khó khăn, trẻ em khuyết tật. Mỗi năm, có hàng nghìn 
trẻ em được hưởng lợi thông qua các chương trình của Quỹ. 
Tuy nhiên, do chưa có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ và 
thiếu vắng hoạt động truyền thông nên hoạt động của Quỹ 
BTTE đối với trẻ KT mới chỉ là hoạt động hỗ trợ nhân đạo 
mà chưa thực sự là công tác xã hội như vai trò cần phải có. 
Sự phối hợp liên ngành
Can thiệp sớm là một quá trình liên tục từ khâu sàng lọc 
phát hiện cho tới chẩn đoán, can thiệp và hỗ trợ gia đình, do 
đó đòi hỏi cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa các lĩnh vực khác 
nhau. Sự cộng tác của nhóm đa chức năng trong sự phối hợp 
liên ngành sẽ giúp cho trẻ được phát hiện kịp thời, được can 
thiệp toàn diện, phù hợp và hiệu quả. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi nhận thấy ba ngành chủ đạo, trực tiếp thực hiện 
quyền lợi của trẻ KT gồm: Giáo dục, Y tế, và Bảo trợ xã hội 
hoạt động hầu như tách biệt. Không thấy rõ mối liên hệ chức 
năng giữa ba ngành mũi nhọn này từ khâu khảo sát, sàng lọc 
phát hiện, đến khâu can thiệp, thực hiện quyền và chính sách 
cho trẻ KT. Chưa thực sự hình thành sự điều phối liên ngành 
Giáo dục, Y tế, Bảo trợ xã hội trong hoạt động CTS; hệ thống 
phát hiện, báo cáo và thu thập số liệu chưa có sự đồng nhất 
giữa ba ngành. Tình trạng này cũng được báo cáo trong một 
số nghiên cứu khác ở trong nước [4-6], [8].
Như vậy, cần phải thiết lập và duy trì một chương trình 
phối hợp liên ngành trong việc tổ chức cung ứng dịch vụ, xây 
dựng hệ thống tư vấn và truyền thông tới cộng đồng về lợi 
ích của CTS cho trẻ KT cùng những chế độ, chính sách liên 
quan tới trẻ. Những bất cập trong việc cung cấp dịch vụ CTS 
nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng thụ hưởng là 
trẻ khiếm thính và gia đình. Điều này được phản ánh qua kết 
quả điều tra và phỏng vấn phụ huynh của 353 trẻ KT.
3.2. Thực trạng tiếp cận và sử dụng dịch vụ can thiệp 
sớm của trẻ khiếm thính
Trẻ KT được phát hiện, chẩn đoán, đeo máy và can thiệp 
muộn nên hiệu quả can thiệp rất hạn chế là những kết quả 
được ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi. Có 98% trẻ 
KT được phát hiện bởi gia đình, chỉ 2% trẻ được phát hiện 
bởi giáo viên và cán bộ y tế.
Tuổi trung bình phát hiện là gần 2 tuổi (22,3 tháng); tuổi 
trung bình chẩn đoán, đeo máy và can thiệp đều muộn sau 
2 tuổi. Khoảng biến thiên của các tuổi này cũng rất rộng, có 
những trẻ đến 60 tháng tuổi mới được phát hiện, hoặc đến 72 
tháng tuổi mới được chẩn đoán, can thiệp. 
- Không chỉ trung bình các tuổi nghiên cứu rất muộn, mà 
tỉ lệ tương ứng ở độ tuổi 0 - 12 tháng cũng rất thấp: chỉ có 
11% số trẻ được phát hiện, 4,2% được chẩn đoán xác định, 
3,1% được đeo máy và 3,4% được trị liệu ngôn ngữ ở độ 
tuổi này.
- Độ tuổi trẻ KT được phát hiện chủ yếu từ 13 - 36 
tháng (86,4%); chẩn đoán ban đầu chủ yếu từ 13 - 36 tháng 
(76,8%); chẩn đoán xác định và đeo máy chủ yếu là 25 - 48 
tháng (64,1% và 62,3%); can thiệp chủ yếu quanh tuổi 25 - 
36 tháng.
Có 33,2% trẻ KT được chẩn đoán ban đầu tại Hải Phòng, 
62% tại các BV tuyến Trung ương và 4,8% tại nơi khác. 
Nhưng chỉ 16,7% trẻ được chẩn đoán xác định tại Hải Phòng, 
có tới 76,8% trẻ được chẩn đoán tại các BV tuyến Trung 
ương, và 6,5% tại nơi khác. 
Hạn chế của hệ thống cung cấp dịch vụ cả về số lượng và 
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 163
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
chất lượng đã khiến nhiều trẻ KT không có được chẩn đoán 
xác định trong lần đi khám đầu tiên, gia đình không nhận 
được sự tư vấn hợp lý tiếp theo, thậm chí có những trẻ bị bỏ 
sót chẩn đoán. 
Phân tích sâu hơn ta thấy, khi không có dịch vụ sàng lọc 
thính lực sơ sinh thì việc phát hiện nghe kém chủ yếu do gia 
đình; với hiểu biết và sự quan tâm của phụ huynh còn hạn 
chế nên trẻ thường bị chẩn đoán muộn và bỏ qua mất giai 
đoạn tốt nhất để phát triển ngôn ngữ. Đây cũng là thực trạng 
của trẻ KT gặp ở 33 tỉnh/thành trên cả nước trong nghiên 
cứu của Trần Thị Thiệp [10], trong một số nghiên cứu khác ở 
trong nước [4], và ở các nước đang phát triển [11-14].
Trong tổng số 353 trẻ KT, có 191 trẻ (54,1 %) không được 
đeo máy trợ thính, không được nhận bất cứ sự can thiệp nào 
và có 162 trẻ (45,9%) được đeo máy. Trong 162 trẻ này, chỉ 
có 20,4 % số trẻ được cả GV và gia đình cùng kết hợp trị liệu, 
16 % hoàn toàn do GV can thiệp; còn lại phần lớn (63,6%) gia 
đình phải tự xoay xở với vấn đề khiếm thính của con mình. 
Như vậy tỉ lệ trẻ vừa được hưởng dịch vụ trị liệu ngôn ngữ, 
vừa nhận được sự quan tâm sát sao của gia đình trong quá trình 
can thiệp là không nhiều. Số trẻ có mức độ nghe kém sâu là 
270/353 trẻ (76,5%) nhưng chỉ có 11 trẻ được cấy điện cực ốc 
tai (3,1%). Ngoài ra, các dịch vụ hỗ trợ và chăm sóc thính học 
trong quá trình đeo máy chưa được các hãng máy trợ thính 
thực hiện tốt dẫn đến hiệu quả đeo máy bị hạn chế, 52 (32,1%) 
trẻ đã bỏ đeo máy sau một thời gian sử dụng.
Như vậy, cơ cấu, phân bố nhân lực chưa hợp lý, thiếu cơ 
sở vật chất kỹ thuật, thiếu sự quan tâm đầu tư phát triển là 
những yếu tố quan trọng nổi trội ảnh hưởng đến khả năng 
cung ứng của các cơ sở trong hệ thống cung cấp dịch vụ CTS 
tại Hải Phòng. Bên cạnh đó, sự phối hợp liên ngành chưa 
chặt chẽ cũng như nhận thức hạn chế của cộng đồng, điều 
kiện kinh tế của người dân còn khó khăn...cũng là những yếu 
tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tổ chức cung ứng 
dịch vụ của các cơ sở và thực trạng phát hiện, CTS của trẻ 
KT. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã cho thấy thực trạng 
hệ thống cung ứng dịch vụ CTS cho trẻ KT tại Hải Phòng 
tồn tại nhiều sự bất cập ở cả phía cung cấp và người sử dụng 
dịch vụ. Trong đó, những yếu tố từ phía người sử dụng dịch 
vụ là rất khó cải thiện. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết thực 
hiện những giải pháp can thiệp hệ thống. Đó là việc triển 
khai thực hiện chương trình phát hiện và CTS cho trẻ KT có 
sự phối hợp liên ngành chặt chẽ với nhiều hoạt động mang 
tính thống nhất và toàn diện nhằm tăng cường hệ thống cung 
ứng dịch vụ và cải thiện thực trạng phát hiện, CTS của trẻ 
KT. Đồng thời cần chú trọng công tác truyền thông nâng cao 
nhận thức cộng đồng cũng như cần có chính sách xã hội hỗ 
trợ cho trẻ KT có hoàn cảnh khó khăn để có thể nâng cao 
hiệu quả phòng và điều trị bệnh. 
IV. KẾT LUẬN
Nghiên cứu thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ can 
thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng năm 2012 cho 
thấy những tồn tại ở cả phía cung cấp và người sử dụng dịch 
vụ: Vẫn còn tình trạng bất cập giữa khả năng cung ứng của 
các cơ sở cung cấp dịch vụ về cả cơ sở vật chất, trang thiết 
bị và nhân lực, sự phối hợp liên ngành cũng như hạn chế về 
nhận thức của cộng đồng với nhu cầu được phát hiện sớm, 
can thiệp sớm của trẻ khiếm thính. Hầu hết (98%) trẻ khiếm 
thính được phát hiện bởi gia đình và đa số được chẩn đoán 
xác định tại các bệnh viện tuyến Trung ương (76,8%). Trẻ 
khiếm thính được phát hiện, chẩn đoán và can thiệp rất muộn 
(tuổi tương ứng 22,3; 34; và 32,5 tháng), do đó hiệu quả can 
thiệp bị hạn chế. Có tới 63,6% gia đình phải tự xoay xở với 
vấn đề khiếm thính của con em mình. Dữ liệu nghiên cứu cho 
thấy sự cần thiết thực hiện những giải pháp can thiệp để tăng 
cường hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm giúp cho trẻ khiếm 
thính được phát hiện sớm, can thiệp kịp thời và phù hợp.
1. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2007). Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. WHO (2010). Newborn and infant hearing screening: current issues and guiding principles for action, WHO press, 
Geneve.
3. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2012). Giáo dục đặc biệt và những thuật ngữ cơ bản, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Đặng Thị Mỹ Phương (2010). Thực trạng công tác Can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại một số trường chuyên biệt 
TPHCM, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển giáo dục hòa nhập ở Việt Nam.
6. Nguyễn Đức Hữu (2014). Thực trạng và định hướng phát triển giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam giai đoạn 2015 -2020. 
Tạp chí giáo dục số đặc biệt, 8/2014, 2-6.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn164
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
7. Nguyễn Văn Lê và cộng sự (2012). Báo cáo nghiên cứu về năng lực nguồn nhân lực cho can thiệp sớm giáo dục trẻ 
khuyết tật Việt Nam, Hà Nội.
8. UNICEF và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011). Nghiên cứu định tính về trẻ khuyết tật tại An Giang và Đồng 
Nai: Kiến thức - Thái độ - Thực hành, Báo cáo cho UNCEF Việt Nam. 
9. Karl R. White (2003). The current status of EHDI programs in the United States. Mental retardation and developmental 
disabilities, 9, 79–88.
10. Trần Thị Thiệp (2004). Một số biện pháp tổ chức thực hiện can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính, Luận văn thạc sỹ Khoa 
học Quản lý Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội.
11. Fortnum H và Davis A (1997). Epidemiology of permanent childhood hearing impairment in Trent Region, 1985-
1993. Br J Audiol, 72 (1), 5-11.
12. Jafari Z, Malayeri S và Ashayeri H (2007). The ages of suspicion, diagnosis, amplification, and intervention in deaf 
children. Int J Pediatr Otorhinolaryngol, 71 (1), 35-40.
13. Ozcebe E, Sevinc S và Belgin E (2005). The ages of suspicion, identification, amplification and intervention in children 
with hearing loss. Int J Pediatr Otorhinolaryngol 69 (8), 1081-1087.
14. Robertson C, Aldridge S, Jarman F et al (1995). Late diagnosis of congenital sensorineural hearing impairment: why 
are detection methods failing. Arch Dis Child, 72 (1), 11-15.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kha_nang_cung_ung_cua_cac_co_so_cung_cap_dich_vu.pdf