Thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay

Khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của khoa học và công nghệ luôn được Đảng và Nhà nước xem là nhân tố động lực trong phát triển kinh tế xã hội, nền tảng và nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này

đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW Khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ

Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.

Trong những năm qua, việc triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả nghiên

cứu đã góp phần tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng

cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, một vấn đề lớn đang được đặt ra hiện nay là

làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ. Để góp phần giải quyết

vấn đề này, bài viết đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ ở Việt Nam qua một

số nội dung: Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước; Thực trạng đội

ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; Thực trạng công trình khoa học được công bố

pdf 60 trang phuongnguyen 10380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay

Thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay
TÒA SOẠN
Số 111 Trần Duy Hưng - Cầu Giấy - Hà Nội
Tel: 024 6287 3463 / Website: khoahockiemtoan.vn
Email: tcnckhkt@yahoo.com.vn / khoahockiemtoansav@gmail.com
Giấy phép hoạt động báo chí số: 514/GP-BTTTT cấp ngày 05/10/2015
In tại: Công ty Cổ phần In La Bàn 
GIá: 9.500 ĐồNG
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP 
TS. Hồ Đức Phớc, Tổng KTNN, Chủ tịch
GS.TS Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng KTNN, Phó Chủ tịch
TS. Lê Quang Bính
GS.TS Ngô Thế Chi
PGS.TS Phạm Văn Đăng
PGS.TS Đinh Trọng Hanh
PGS.TS Nguyễn Đình Hòa
GS.TS Vương Đình Huệ
GS.TS Đặng Thị Loan
GS.TS Dương Thị Bình Minh
PGS.TS Phan Duy Minh
TS. Lê Đình Thăng
Nhà báo Nguyễn Thái Thiên
PGS.TS Lê Huy Trọng
GS.TS Phạm Quang Trung
PGS.TS Ngô Trí Tuệ
TS. Nguyễn Hữu Vạn
TS. Mai Vinh
THƯ KÝ TÒA SOẠN
ThS. Ngô Khánh Hòa
THIếT Kế
Kỷ Quang
SOÁ 145 - 11/2019 i iSSN 1859 - 1671
content
NO 145 - 11/2019 i ISSN 1859 - 1671
RESEARCH AND DISCUSSION
Dang Thi To Tam Current situation of 
science and technology activities of Vietnam
Nguyen Duc Thanh, Vu Le Xuan Anh, Tran 
Dinh Vinh Completing the audit minutes 
and preparation of audit minutes of district 
budget audits in the local budget audit
FROM THEORY TO PRACTICE
Nguyen Thi Kieu Thu Improving quality 
of audit of public health establishments 
through designing and promulgation of 
detailed audit guidance
Truong Duc Thanh Improving the quality 
of the audit of Social Policy Bank of State 
Audit of Vietnam
ECONOMICS – FINANCE
Vu Ngoc Tuan Impact of ownership structure 
on the performance of state-invested 
enterprises listed on Vietnam’s stock market
Nguyen Thi Kim Tuyen Building 
environmental performance indicators at 
the mineral exploiting enterprises in Binh 
Dinh province
FORUM AND DIALOGUE
Hoai Phuong Adjust GDP to make 
appropriate policy
Minh Anh Enhance solutions to anti origin 
fraud
EXPERIENCES FROM ABROAD
Pham Van Dang Training human resources 
on accounting and auditing in Vietnam 
towards the international financial reporting 
standards in the process of global economic 
integration
NEW DOCUMENTS
06
19
33
49
53
61
noäi dung
Số 145 - 11/2019 i ISSN 1859 - 1671
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Đặng Thị Tố Tâm Thực trạng hoạt động 
khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay 
Nguyễn Đức Thanh, Vũ Lê Xuân Anh, 
Trần Đình Vĩnh Hoàn thiện biên bản và 
việc lập biên bản kiểm toán ngân sách cấp 
huyện trong cuộc kiểm toán ngân sách 
địa phương
TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
Nguyễn Thị Kiều Thu Nâng cao chất 
lượng kiểm toán các cơ sở y tế công lập 
thông qua việc xây dựng và ban hành 
hướng dẫn kiểm toán chi tiết
Trương Đức Thành Nâng cao chất lượng 
kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội 
của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Vũ Ngọc Tuấn Tác động của cấu trúc sở 
hữu tới hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp có vốn nhà nước đầu tư niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nguyễn Thị Kim Tuyến Xây dựng chỉ số 
hiệu quả môi trường tại các doanh nghiệp 
khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh 
Bình Định
DIỄN ĐÀN - ĐốI THOẠI
Hoài Phương Điều chỉnh GDP để hoạch 
định chính sách phù hợp
Minh Anh Nâng cao giải pháp chống gian 
lận xuất xứ
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
Phạm Văn Đăng Đào tạo nguồn nhân lực 
kế toán - kiểm toán ở Việt Nam hướng tới 
phù hợp với chuẩn mực báo cáo tài chính 
quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế 
toàn cầu
VĂN BẢN MỚI
06
19
33
49
53
61
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN6 Số 145 - tháng 11/2019
THÖÏC TRAÏNG HOAÏT ÑOÄNG KHOA HOÏC 
VAØ COÂNG NGHEÄ ÔÛ NÖÔÙC TA HIEÄN NAY
ĐặNG THị Tố TâM*
*Học viện Chính trị Khu vực I
Khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của khoa học và công nghệ luôn được Đảng và Nhà nước xem là nhân tố động lực trong phát triển kinh tế xã hội, nền tảng và nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này 
đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW Khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng 
sản Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ 
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. 
Trong những năm qua, việc triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả nghiên 
cứu đã góp phần tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng 
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, một vấn đề lớn đang được đặt ra hiện nay là 
làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ. Để góp phần giải quyết 
vấn đề này, bài viết đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ ở Việt Nam qua một 
số nội dung: Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước; Thực trạng đội 
ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; Thực trạng công trình khoa học được công bố
Từ khóa: Khoa học và công nghệ.
Current situation of science and technology activities of Vietnam
Science and technology serve as the foundation and driving force for the country’s industrialization 
and modernization process. The role of science and technology is always considered by the Party and the 
State to be the driving force in socio-economic development, the foundation and the decisive factor for 
the success of industrialization, modernization and international integration of the country. This is clearly 
shown in Resolution No.20-NQ/TW of the XI Congress of the Central Committee of the Communist Party 
of Vietnam, Law on Science and Technology 2013 and Strategy for Science and Technology Development of 
Vietnam period 2011-2020.
Over the past years, the implementation of scientific and technological tasks and the application of 
research results have contributed to a marked change in productivity, quality and efficiency in production, 
and competitive capacity improvement. However, a big problem now being raised is how to improve the 
quality of scientific and technological research activities. This is a big deal and in order to contribute to solving 
this problem, the article evaluates the current situation of scientific and technological research activities in 
Vietnam through a number of contents: Current situation of investment in science and technology activities 
from the state budget; actual status of scientific researchers; actual status of published scientific works.
Keywords: Science and technology.
Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học 
công nghệ từ ngân sách nhà nước
Năm 2015, đầu tư cho khoa học công nghệ từ 
ngân sách nhà nước đạt khoảng 17.390 tỷ đồng, 
bằng 1,52% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 
mạnh so với mức 1,36% trong năm 2014, song 
giảm mạnh so với mức 1,85% năm 2006. Tính theo 
tỷ trọng đầu tư cho khoa học công nghệ/GDP từ 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 7Số 145 - tháng 11/2019
ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2015 thì cũng 
giảm từ mức 0,51% xuống mức 0,41%. Như vậy, 
tổng đầu tư của Việt Nam cho khoa học công nghệ 
hàng năm vẫn dưới 1% GDP.
Hiện nay, hoạt động khoa học và công nghệ 
phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước. 
Điều này đã được cụ thể hóa rõ nét ở Nghị định số 
95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ 
quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt 
động khoa học và công nghệ. Bình quân hàng năm, 
đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học 
và công nghệ với mức kinh phí vào khoảng 1,4 - 
1,85% tổng chi ngân sách nhà nước, chiếm từ 0,4 
đến 0,6% GDP.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và 
công nghệ từ năm 2006 đến năm 2015 đều có xu 
hướng tăng: Năm 2006 là 5.429 tỷ đồng, đến năm 
2015 đạt 17.390 tỷ đồng, qua đó cho thấy sự quan 
tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động khoa 
học và công nghệ. (1)
Trong đó, tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu 
và phát triển khoa học và công nghệ là 13.390,6 tỷ 
đồng thì đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm hơn 
một nửa: 7.591,6 tỷ đồng (tương đương 56,7%), 
trong khi nguồn đầu tư từ doanh nghiệp là 
5.597,3 tỷ đồng đạt 41,8%, còn lại chỉ có 201,7 tỷ 
đồng (tương đương 1,5%) là từ nguồn vốn nước 
ngoài. Nhìn chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước 
cho khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức 
quan trọng.
Năm 2016, trong cơ cấu chi cho khoa học và 
công nghệ, ngân sách nhà nước chiếm 52%, nguồn 
từ doanh nghiệp đã tăng lên 48%. Sự chuyển biến 
tích cực này có được nhờ doanh nghiệp đã quan 
tâm nhiều hơn tới khoa học và công nghệ và sự đầu 
tư trọng điểm của một số doanh nghiệp lớn như: 
Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Dầu khí 
quốc gia. Đây là dấu hiệu cho thấy hiệu quả trong 
tăng cường xã hội hóa trong nghiên cứu khoa học 
và công nghệ.
Riêng về chi sự nghiệp cho khoa học và công 
nghệ, trong giai đoạn 2016 - 2019, mặc dù điều 
kiện ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, 
nhưng bố trí chi ngân sách nhà nước cho phát triển 
hoạt động khoa học và công nghệ luôn ưu tiên năm 
sau tăng cao hơn so với năm trước. Theo báo cáo 
của Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2016 - 
2018 chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công 
nghệ được đảm bảo ở mức 2% tổng chi ngân sách 
nhà nước. Cơ cấu kinh phí đầu tư phát triển/kinh 
phí sự nghiệp khoa học và công nghệ liên tục được 
đảm bảo theo tỷ lệ 40/60. Tổng dự toán chi ngân 
sách nhà nước sự nghiệp khoa học và công nghệ 
giai đoạn 2016 - 2019 đã được Quốc hội thông qua 
tại các nghị quyết về về phân bổ ngân sách hàng 
năm là 46.729 tỷ đồng. Nguồn lực tài chính cho 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN8 Số 145 - tháng 11/2019
phát triển khoa học và công nghệ đã được bố trí 
tăng dần trong những năm gần đây. Theo đó, trong 
năm 2019, tổng chi sự nghiệp cho khoa học và công 
nghệ đạt 12.825 tỷ đồng, tăng khoảng 22% so với 
năm 2016. (3)
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt 
động khoa học và công nghệ
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động 
khoa học và công nghệ đã đạt được những kết 
quả sau:
Thứ nhất, luôn là nguồn đầu tư chủ yếu, cơ bản 
cho hoạt động nghiên cứu khoa học; góp phần 
quan trọng vào quá trình thúc đẩy phát triển đào 
đạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ (bình 
quân hàng năm chi ngân sách nhà nước cho hoạt 
động khoa học công nghệ chiếm khoảng 2% tổng 
chi của ngân sách nhà nước, tương đương 0,6% 
GDP và tăng bình quân mỗi năm là 19%).
Thứ hai, đã có sự thay đổi về cơ cấu, phân cấp để 
phù hợp với nhu cầu nguồn lực đầu tư hiện tại, từ 
đó góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và công 
nghệ phát triển bền vững.
Thứ ba, cơ sở pháp lý về đầu tư ngân sách nhà 
nước cho khoa học và công nghệ ngày càng hoàn 
thiện hơn, chi tiết và cụ thể hóa rõ nét hơn. Cụ thể, 
gồm 38 văn bản cấp Chính phủ, Thủ tướng Chính 
phủ (Nghị định, Quyết định), 88 văn bản cấp Bộ 
(Thông tư, Thông tư liên tịch).
Tuy nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho 
phát triển khoa học và công nghệ thời gian qua đã 
có được những kết quả nhất định, nhưng bên cạnh 
đó vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
Một là, hàng năm, mặc dù đầu tư ngân sách nhà 
nước cho khoa học và công nghệ đã có tăng nhưng 
vẫn chưa đáp ứng đủ với nhu cầu phát triển, đẩy 
mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới khoa học 
công nghệ như hiện nay. So với các nước, nguồn 
lực tài chính từ ngân sách nhà nước để đầu tư cho 
khoa học và công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế. Ở 
Việt Nam, ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học 
và công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP, còn châu âu 
năm 2013 là 2,01%, Nhật Bản năm 2013 là 3,47%, 
Mỹ năm 2012 là 2,81%...
Hai là, việc phân bổ ngân sách nhà nước để phát 
triển khoa học và công nghệ còn phân tán, dàn trải, 
thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên, chưa đảm 
bảo theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu cơ chế minh 
bạch (Chủ yếu tập trung chi cho bộ máy; Chi cho 
đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ còn ở mức 
thấp; Chi lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học 
và công nghệ cũng còn thấp)... do đó dẫn đến hiệu 
quả đầu tư còn thấp.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 9Số 145 - tháng 11/2019
Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư từ 
ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ 
còn thấp. Bởi hiện nay chưa xây dựng được một cơ 
chế thực sự phù hợp, từ đó để gắn kết phân bổ ngân 
sách nhà nước cho các tổ chức khoa học và công 
nghệ với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể về các sản 
phẩm khoa học và công nghệ mà các đơn vị nghiên 
cứu cần thực hiện.
Kinh phí ngân sách nhà nước cấp để thực hiện 
nhiệm vụ khoa học công nghệ có nhiều bất cập, cơ 
cấu chi chưa thực sự phù hợp (ước tính có khoảng 
20% tiền dành cho khoa học công nghệ thực chất 
đầu tư cho hoạt động sáng tạo của các nhà nghiên 
cứu, còn 80% nằm ở khâu đầu tư gián tiếp). 
Thực trạng đội ngũ cán bộ nghiên cứu 
khoa học
Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, 
đến năm 2016, nước ta đã có hơn 24.300 Tiến sĩ, 
101.000 Thạc sỹ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng 
trung bình 11,6%/năm, trong đó Tiến sỹ tăng 7%/
năm, Thạc sỹ tăng 14%/năm. Hiện cả nước có hơn 
10.774 Giáo sư, Phó Giáo sư, tuổi trung bình của 
cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình 
quân chung là 57,2 tuổi. Số cán bộ học vị, học hàm 
cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 
56 trở lên là 65,7%, riêng Giáo sư chiếm tới 77,4% 
và Phó Giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa 
tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm 
thì phần đông Giáo sư có tuổi trên 60 và Phó Giáo 
sư có tuổi từ 56 đến 60. Trong số các Giáo sư và 
Phó Giáo sư thì nam là 83,5%, nữ 16,5% (3). Khi 
một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt 
đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì 
đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị 
bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa 
học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương 
lai rất gần.
 Ngoài ra, còn có nhiều cán bộ nghiên cứu triển 
khai thuộc các viện nghiên cứu, trung tâm và nhiều 
nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 
các trường đại học, cao đẳng, cơ sở đào tạo sau đại 
học. Đây thực sự là nguồn nhân lực nòng cốt cho 
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, được đào 
tạo từ nhiều nguồn khác nhau. 
Theo kết quả điều tra, thống kê năm 2015 do Bộ 
Nội vụ tiến hành đối với 25 cơ quan Trung ương và 
48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả 
nước thì tổng số viên chức khoa học và công nghệ 
(theo 08 chức danh nghề nghiệp) là 43.849, trong 
đó, khối các cơ quan Trung ương là 32.881 và các 
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 10.968.
Số lượng viên chức khoa học và công nghệ là 
nam giới chiếm 78.03% tổng số lượng viên chức 
khoa học và công nghệ đã thống kê được. Tỷ lệ 
này ở khối các cơ quan trung ương là 80%, và khối 
địa phương là 71.3%. Đây là kết quả cho thấy có 
sự chênh lệch rất lớn về giới tính, nếu như không 
phải những lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất 
thiết (chỉ có thể do nam giới thực hiện) thì rất cần 
có sự điều chỉnh về tiêu chí bình đẳng giới khi đề 
xuất với các cơ quan có thẩm quyền về những quan 
điểm, định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ 
viên chức khoa học và công nghệ ở cả khối trung 
ương và khối địa phương trong thời gian tới.
Về độ tuổi của viên chức khoa học và cô ...  hiệp định tự do hóa thương mại 
và dịch chuyển lao động tạo ra thách thức và cơ 
hội cho nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, để cung 
cấp nguồn nhân lực cho nghề nghiệp trong giai 
đoạn mới, cần xem xét lại định hướng đào tạo đáp 
ứng nhu cầu nội địa hiện nay, trong đó có đào tạo 
chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế. Việc duy trì 
hướng đào tạo như hiện nay sẽ dẫn đến mất dần 
thị trường lao động kế toán, kiểm toán ngay tại sân 
nhà, chưa kể đến đánh mất cơ hội mở mang sang 
các nước trong khu vực.
Thứ hai, Chính phủ cần có chính sách chỉ đạo, Bộ 
Tài chính cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo 
để xây dựng một chiến lược đào tạo kế toán, kiểm 
toán bậc Đại học theo chuẩn quốc tế và tạo điều kiện 
để từng trường tùy theo năng lực hiện có thiết kế 
chương trình đào tạo phù hợp theo hướng tiếp cận 
chương trình tiên tiến trên thế giới. Chiến lược này 
tạo nên nền tảng pháp lý để từng trường chủ động 
trong việc hoạch định quá trình đào tạo nguồn nhân 
lực về kế toán, trong đó có đào tạo chuẩn mực báo 
cáo tài chính quốc tế có chất lượng đáp ứng tốt yêu 
cầu sử dụng tại Việt Nam cũng như các nước trong 
khu vực và các tổ chức nghề nghiệp quốc tế.
Thứ ba, đổi mới mô hình đào tạo thi, cấp chứng 
chỉ kiểm toán viên, kế toán viên hành nghề theo 
hướng đào tạo, thi theo tín chỉ để cấp chứng chỉ 
kiểm toán viên, kế toán viên hành nghề; đồng thời 
mở rộng và tăng cường số lượng các kỳ thi kế toán 
viên hành nghề, kế toán viên công chứng, kiểm 
toán viên.
Về phía các tổ chức nghề nghiệp
Một là, nâng cao vai trong hội nghề nghiệp như 
Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), 
Chi hội Kế toán hành nghề Việt Nam (VICA)... 
giúp tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng hành 
nghề kế toán, kiểm toán để đảm bảo những người 
đủ điều kiện mới có thể hành nghề, từ đó giúp nâng 
cao chất lượng và tính cạnh tranh của những công 
ty kiểm toán Việt Nam trên thị trường.
Hai là, tăng cường hợp tác với các hội nghề 
nghiệp ở khu vực ASEAN để tăng cường sự hiểu 
biết và liên thông trình độ giữa các kế toán, kiểm 
toán viên trong khu vực. Đẩy mạnh việc thỏa thuận, 
hợp tác giữa các quốc gia trong khối ASEAN để 
tiến tới công nhận các bằng cấp và chứng chỉ hành 
nghề lẫn nhau.
Hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các hội nghề 
nghiệp trên thế giới để đào tạo đội ngũ kế toán 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 59Số 145 - tháng 11/2019
viên, kiểm toán viên, trong đó có đào tạo chuẩn 
mực báo cáo tài chính quốc tế đạt trình độ ngang 
bằng với trình độ của khu vực.
Về phía các trường Đại học
Với mục tiêu áp dụng IFRS thì nội dung chương 
trình giảng dạy kế toán cần phải có sự thay đổi, 
điều chỉnh theo hướng giảng dạy IFRS kết hợp với 
các tình huống cụ thể theo yêu cầu của Việt Nam. 
Việc làm này sẽ giúp người học vừa tiếp cận IFRS 
vừa am hiểu các quy trình kế toán ở Việt Nam, để 
kế toán phù hợp với môi trường thực tế sau khi 
ra trường và cũng như đặc điểm chuyển đổi theo 
IFRS khi có quy định bắt buộc áp dụng khuyến 
nghị đó là: 
Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương pháp 
giảng dạy. Mạnh dạn phối hợp và tăng cường hợp 
tác với ACCA, CPA Australia, CIMA... để đổi mới 
giáo trình đào tạo. Đổi mới nội dung chương trình 
đào tạo để người học thông qua chương trình này 
sẽ có được những kiến thức vừa có tính hiện đại, 
tính thực tiễn, vừa có tính hàn lâm, tính ứng dụng, 
vừa có năng lực nghiên cứu, kỹ năng nghề nghiệp 
chuyên sâu phù hợp với các kỹ năng được xác định 
trong chuẩn đầu ra.
Chương trình đào tạo phải đổi mới theo hướng 
tiếp cận và kế thừa những mặt tích cực của chương 
trình đào tạo của các trường Đại học tiên tiến trong 
khu vực và trên thế giới về lĩnh vực kế toán, kiểm 
toán nhằm giúp sinh viên có thể hội nhập và thực 
hành một cách có hiệu quả trong môi trường làm 
việc quốc tế. Bên cạnh đó, các trường cần thiết kế 
trong chương trình đào tạo những nội dung chuyên 
môn có tính chất đặc thù về môi trường pháp lý và 
môi trường hoạt động tại Việt Nam để người học 
có thể thực hiện được công việc chuyên môn một 
cách thành thạo sau khi tốt nghiệp.
Tăng cường áp dụng phương pháp làm việc theo 
nhóm để thực hiện các bài tập tình huống do giảng 
viên đưa ra có tác dụng rất quan trọng để nâng cao 
chất lượng đào tạo theo hướng quốc tế hóa.
Thứ hai, các trường Đại học cần phải gắn kết 
chặt chẽ với các tổ chức nghề nghiệp trong nước và 
quốc tế để từng bước đưa vào chương trình đào tạo 
những nội dung có tính ứng dụng chuyên nghiệp 
đã được các tổ chức này nghiên cứu, tổng hợp và 
áp dụng trong quá trình đào tạo các loại chứng chỉ 
hành nghề được công nhận rộng rãi ở Việt Nam và 
quốc tế.
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN60 Số 145 - tháng 11/2019
Việc gắn kết này sẽ tạo nên sự hài hòa giữa 
đào tạo hàn lâm và đào tạo kỹ năng nghề nghiệp 
chuyên sâu, giữa thực tế về kế toán, kiểm toán của 
một quốc gia với tính chất quốc tế hóa theo xu 
hướng hội tụ kế toán toàn cầu, từ đó nâng cao tính 
hiện đại, tính chuyên nghiệp cho chất lượng đầu ra 
ở bậc Đại học.
Thứ ba, các trường Đại học cần phối hợp và 
thông qua các hiệp hội nghề nghiệp như Hội Kế 
toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA), Hội Kiểm 
toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Câu lạc 
bộ Kế toán trưởng... để tạo nên mối quan hệ rộng 
rãi và sâu sắc với các loại hình doanh nghiệp khác 
nhau trong nền kinh tế nhằm một mặt giúp người 
học có điều kiện tiếp cận dễ dàng công việc thực tế 
tại các doanh nghiệp nhằm rèn luyện kỹ năng nghề 
nghiệp trước khi tốt nghiệp. Mặt khác, với việc 
tạo ra mối quan hệ này sẽ giúp các trường thường 
xuyên lắng nghe được từ phía các doanh nghiệp - 
các nhà tuyển dụng chủ lực - những yêu cầu về chất 
lượng sản phẩm đào tạo được cung cấp cũng như 
sự thích hợp của chương trình đào tạo để đáp ứng 
yêu cầu về chất lượng được đặt ra.
Thứ tư, nâng cao năng lực của đội ngũ giảng 
viên. Đội ngũ giảng viên không chỉ là những người 
có phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải là những 
người có kiến thức chuyên môn sâu rộng, không 
ngừng cập nhật để kiến thức luôn được đổi mới, có 
tính hiện đại đồng thời phải có những am hiểu tình 
hình thực tiễn của hoạt động chuyên môn để bên 
cạnh tính hàn lâm còn phải có tính thực tiễn sâu 
sắc trong nội dung giảng dạy.
Bên cạnh đó, việc thành thạo ngoại ngữ để phục 
vụ cho việc nghiên cứu và trao đổi học thuật cũng 
là một trong những yêu cầu cơ bản mà đội ngũ 
giảng viên cần phải có để đáp ứng tốt nhu cầu đào 
tạo theo chương trình tiên tiến quốc tế. Quá trình 
hội nhập quốc tế cũng sẽ làm xuất hiện các cơ sở 
đào tạo mới trên nền tảng tự do hóa việc cung cấp 
dịch vụ đào tạo.
Kết luận
áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc 
tế (IFRS) trên thế giới đang ngày càng trở lên phổ 
biến. IFRS mang lại những lợi ích to lớn trong việc 
nâng cao tính minh bạch của thông tin kế toán, góp 
phần tạo ra ngôn ngữ kế toán mang tính toàn cầu. 
Tuy nhiên, quá trình áp dụng IFRS của các quốc gia 
trên thế giới cũng gặp không ít khó khăn. Những 
khó khăn, thách thức ấy lại càng lớn hơn đối với 
một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Chính 
vì thế, để thực hiện được quyết tâm nỗ lực tiến tới 
vận dụng IFRS trong thời gian tới thì công tác đào 
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán 
cần phải có bước chuyển mình thật sự. Từ đó, đặt 
ra yêu cầu đổi mới công tác đào tạo, cập nhật kiến 
thức của các trường Đại học và các Tổ chức nghề 
nghiệp kế toán của Việt Nam. Các trường Đại học 
Việt Nam cũng phải cần nhiều sự giúp đỡ của Tổ 
chức nghề nghiệp kế toán của Việt Nam, các chuyên 
gia giàu kinh nghiệm trên thế giới trong quá trình 
đưa IFRS vào các trường Đại học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.,TS Võ Văn Nhị (2011), Đại học Kinh tế 
TP. Hồ Chí Minh, Một số ý kiến về vấn đề 
đào tạo kế toán, kiểm toán bậc Đại học đáp 
ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế;
2. PGS.,TS Vũ Hữu Đức (2011), Đại học Mở 
TP. Hồ Chí Minh, Đào tạo nhân lực cho 
ngành kiểm toán cần một cách tiếp cận mới;
3. Nguyễn Thị Phương Hoa (2011), Đại học 
Kinh tế quốc dân, Đào tạo chuyên ngành 
kiểm toán của trường Đại học Kinh tế 
quốc dân phù hợp với thông lệ, chuẩn mực 
quốc tế;
4. TS. Phan Thanh Hải, TS. Nguyễn Phi Sơn, 
Đào tạo nhân lực cho ngành Kiểm toán độc 
lập của Việt Nam trong các trường Đại học: 
Cơ hội và thách thức khi gia nhập AEC, 
Đại học Duy Tân.
VAÊN BAÛN MÔÙI 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 61Số 145 - tháng 11/2019
COÂNG VAêN 3402/TCT-HTQT NGAØY 27 THAÙNG 8 NAêm 2019 CuÛA TOåNG CuÏC THuEá 
VEà VIEÄC XAÙC ÑòNH bAáT ÑOÄNG sAÛN CHO muÏC ÑÍCH AÙp DuÏNG HIEÄp ÑòNH THuEá
COÂNG VAêN 11243/bTC-TCT NGAØY 24 THAÙNG 9 NAêm 2019 CuÛA bOÄ TAØI CHÍNH 
VEà VIEÄC CHuYEåN lOÃ TRONG TRÖÔØNG HÔÏp CHuYEåN ÑOåI HÌNH THÖÙC CHI NHAÙNH
Theo Thông tư 205/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước, khái niệm bất động 
sản trong trường hợp của Việt Nam bao gồm các bất 
động sản theo quy định của Bộ Luật Dân sự và Luật 
Kinh doanh bất động sản, và các tài sản phụ kèm 
theo các bất động sản này.
Theo Bộ Luật Dân sự 2015, bất động sản bao gồm 
đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; 
tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây 
dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Luật Kinh doanh bất động sản cũng định nghĩa 
bất động sản tương tự.
Các quy định nêu trên không nêu rõ liệu máy 
móc, thiết bị được gắn với nhà xưởng có bị xem là 
bất động sản. Trong Công văn 3402, Tổng cục Thuế 
hướng dẫn Cục Thuế Hà Nội, để Cục Thuế Hà Nội 
hướng dẫn một công ty hoạt động trong lĩnh vực 
sản xuất bia về việc áp dụng ưu đãi thuế đối với hoạt 
động chuyển nhượng vốn theo Hiệp định thuế Việt 
Nam - Singapore, như sau:
“Trường hợp máy móc, thiết bị được gắn với nhà 
xưởng của Công ty một cách thường xuyên, ổn định 
trong thời gian dài; máy móc thiết bị cùng với nhà 
xưởng tạo thành nhà máy bia hoàn chỉnh, phục vụ 
chức năng sản xuất sản phẩm bia thì máy móc, thiết 
bị được coi là bất động sản”.
Nhìn chung, hướng dẫn này không có lợi cho 
người nộp thuế khi nhiều hiệp định cho phép Việt 
Nam đánh thuế trên thu nhập thu được từ hoạt động 
chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam hoặc thu 
nhập từ chuyển nhượng cổ phần của một công ty mà 
tài sản của công ty bao gồm trực tiếp hay gián tiếp 
chủ yếu là các bất động sản nằm tại Việt Nam.
Công văn 3402 cho thấy cơ quan thuế đang diễn 
giải việc áp dụng hiệp định thuế theo hướng khắt khe 
hơn. Do đó, trước khi áp dụng hiệp định thuế, công 
ty cần phân tích kỹ hơn điều kiện được hưởng ưu đãi 
thuế theo hiệp định.
Theo Khoản 3, Điều 20, Nghị Định 218/2013/NĐ-CP:“3. Doanh nghiệp thành lập hoặc doanh nghiệp có dự án đầu tư từ việc 
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi chủ 
sở hữu, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm 
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 
Thu nhập doanh nghiệp (kể cả tiền phạt nếu có), đồng 
thời được kế thừa các ưu đãi thuế Thu nhập doanh 
nghiệp (kể cả các khoản lỗ chưa được kết chuyển) của 
doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư trước khi chuyển đổi, 
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất nếu tiếp tục đáp ứng các 
điều kiện ưu đãi thuế Thu nhập doanh nghiệp, điều 
kiện chuyển lỗ theo quy định của pháp luật.”
Bộ Tài chính trong Công văn 11243 tham chiếu 
đến khoản này để hướng dẫn người nộp thuế rằng 
văn bản pháp luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện 
hành chỉ quy định chuyển lỗ trong trường hợp doanh 
nghiệp chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và không 
có quy định chuyển lỗ trong trường hợp chuyển đổi 
hình thức chi nhánh (từ chi nhánh hạch toán độc 
lập chuyển đổi sang chi nhánh hạch toán phụ thuộc).
Bộ Tài chính không nêu rõ liệu chi nhánh sau khi 
chuyển đổi hình thức có được phép chuyển lỗ phát 
sinh trước khi chuyển đổi hay không.
Nếu việc chuyển lỗ khi chuyển đổi hình thức chi 
nhánh là vấn đề chưa rõ, thì việc liệu sau khi chuyển 
đổi, chi nhánh có được kế thừa ưu đãi thuế Thu nhập 
doanh nghiệp được hưởng trước khi chuyển đổi sẽ 
cũng là một câu hỏi với cùng một lập luận như trên 
(tức là văn bản pháp luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 
hiện hành chỉ quy định kế thừa ưu đãi thuế trong 
trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi loại hình doanh 
nghiệp và không có quy định kế thừa ưu đãi thuế 
trong trường hợp chuyển đổi hình thức chi nhánh).
VAÊN BAÛN MÔÙI 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN62 Số 145 - tháng 11/2019
PHIếU ĐẶT MUA
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU KHOA HọC KIỂM TOáN
Đơn vị: ................................................................................
Địa chỉ: ................................................................................
Số điện thoại: .......................... Fax: ...................................
Mã số thuế: .........................................................................
Số tài khoản: .......................................................................
tại: .......................................................................................
Đặt mua TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU KHOA HọC KIỂM TOáN
Với số lượng: ............... cuốn/kỳ xuất bản
Số tiền: 9.500 đồng/cuốn x ...... = ........... ... /kỳ xuất bản
KÍNH GỬI:
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Địa chỉ: Số 111 Trần Duy Hưng - Cầu Giấy - Hà Nội
Tel: 024 6282 2213
Website: khoahockiemtoan.vn
Email: tcnckhkt@yahoo.com.vn /
khoahockiemtoansav@gmail.com 
Số tài khoản: 0451000375016 tại NH Ngoại Thương Hà Nội,
Chi nhánh Thành Công
... Ngày ... tháng ... năm 20........
 Thủ trưởng đơn vị
COÂNG VAêN 8806/CT-TTHT NGAØY 20 THAÙNG 8 NAêm 2019 CuÛA CuÏC THuEá 
Tp. HOà CHÍ mINH VEà KHOAÛN TIEàN VEÙ mAÙY bAY CuÛA NGÖÔØI NÖÔÙC NGOAØI 
lAØm VIEÄC TAÏI VIEÄT NAm
COÂNG VAêN 8913/CT-TTHT NGAØY 20 THAÙNG 8 NAêm 2019 CuÛA CuÏC THuEá 
Tp. HOà CHÍ mINH VEà VIEÄC KHAáu TRÖØ sOá THuEá ÑAÕ NOÄp TAÏI NÖÔÙC NGOAØI
Thuế Thu nhập cá nhân áp dụng đối với khoản trợ cấp là tiền vé máy bay do công ty chi trả cho người lao động nước ngoài là cá nhân cư trú 
như sau:
▶ Chiều từ nước ngoài đến Việt Nam làm việc: 
Không tính vào thu nhập chịu thuế Thu nhập cá 
nhân vì khoản chi này được xem là một phần của 
khoản trợ cấp chuyển vùng một lần.
▶ Chiều từ Việt Nam ra nước ngoài tại thời 
điểm kết thúc hợp đồng làm việc: Tính vào thu 
nhập chịu thuế Thu nhập cá nhân.
Cá nhân cư trú có hai nguồn thu nhập: Thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh tại nước ngoài thì cá nhân thực hiện kê khai trực 
tiếp với cơ quan thuế đối với phần thu nhập phát 
sinh tại nước ngoài. Tại thời điểm quyết toán thuế 
Thu nhập cá nhân, số thuế đã nộp trên thu nhập 
phát sinh tại nước ngoài sẽ được trừ vào số thuế Thu 
nhập cá nhân phải nộp tại Việt Nam. Số thuế được 
trừ nộp tại nước ngoài không vượt quá số thuế phải 
nộp theo biểu thuế của Việt Nam tính phân bổ cho 
phần thu nhập phát sinh tại nước ngoài.
Trường hợp cá nhân cư trú có thu nhập phát 
sinh tại Việt Nam nhưng được chi trả ở hai nơi: Tại 
Việt Nam và tại nước ngoài thì số thuế nộp ở nước 
ngoài cho phần thu nhập phát sinh tại Việt Nam 
không được trừ vào số thuế Thu nhập cá nhân phải 
nộp tại Việt Nam.
Bản tin do Ernst &Young Việt Nam cung cấp

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_hoat_dong_khoa_hoc_va_cong_nghe_o_nuoc_ta_hien_na.pdf