Thực trạng hiểu biết về luật bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội năm 2017

Điều tra mô tả cắt ngang trên 374 ngưới cao tuổi (NCT) tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà

Nội năm 2017 nhằm mô tả thực trạng hiểu biết về Luật bảo hiểm y tế (BHYT) và một số yếu tố liên quan. Chọn

mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống với k=3, đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng

bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NCT biết về Luật BHYT là 50,8%. NCT chủ yếu biết

đến Luật BHYT qua phương tiện thông tin đại chúng. Đa số NCT có hiểu biết thấp về mức hưởng bảo hiểm

y tế khi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT. KCB đúng tuyến, sử dụng thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh. Khám

chữa bệnh tại nơi đăng ký thẻ BHYT được người cao tuổi đề cập nhiều nhất (64,4%). Người cao tuổi nam có

hiểu biết về mức hưởng BHYT cao hơn người cao tuổi nữ. Người cao tuổi tuổi 60 – 79 có hiểu biết cao hơn

người cao tuổi ≥ 80. Người cao tuổi có trình độ học vấn càng cao, có hiểu biết về mức hưởng BHYT càng cao

pdf 7 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng hiểu biết về luật bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hiểu biết về luật bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội năm 2017

Thực trạng hiểu biết về luật bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội năm 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202052
THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT VỀ LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ VÀ MỘT 
SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI XÃ THỌ AN, 
HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2017 
Trần Thị Thanh Thủy¹ , Nguyễn Đăng Vững¹, Lê Thị Mai²
1Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
2Tổng cục Dân số Việt Nam
Điều tra mô tả cắt ngang trên 374 ngưới cao tuổi (NCT) tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà 
Nội năm 2017 nhằm mô tả thực trạng hiểu biết về Luật bảo hiểm y tế (BHYT) và một số yếu tố liên quan. Chọn 
mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống với k=3, đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng 
bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NCT biết về Luật BHYT là 50,8%. NCT chủ yếu biết 
đến Luật BHYT qua phương tiện thông tin đại chúng. Đa số NCT có hiểu biết thấp về mức hưởng bảo hiểm 
y tế khi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT. KCB đúng tuyến, sử dụng thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh. Khám 
chữa bệnh tại nơi đăng ký thẻ BHYT được người cao tuổi đề cập nhiều nhất (64,4%). Người cao tuổi nam có 
hiểu biết về mức hưởng BHYT cao hơn người cao tuổi nữ. Người cao tuổi tuổi 60 – 79 có hiểu biết cao hơn 
người cao tuổi ≥ 80. Người cao tuổi có trình độ học vấn càng cao, có hiểu biết về mức hưởng BHYT càng cao. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: BHYT, người cao tuổi, sử dụng dịch vụ y tế, Hà Nội
Luật Bảo hiểm y tế đã ra đời từ năm 2008, 
là cơ sở pháp lý cho hoạt động chăm sóc sức 
khỏe thông qua Bảo hiểm y tế (BHYT). Từ khi 
có Luật BHYT tỷ lệ bao phủ BHYT ở nước ta 
không ngừng tăng qua các năm, từ 42,0% năm 
2008 lên 75,3% năm 2014.1 Quốc hội khóa 
13 đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số 
điều của Luật bảo hiểm y tế với nhiều quy định 
mới và mở rộng quyền lợi cho người tham gia 
BHYT. Tuy nhiên, có tới 30% người dân không 
biết về Luật BHYT.2
Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa 
dân số, số lượng người cao tuổi (NCT) ngày 
càng tăng với tỷ trọng người NCT từ 65 tuổi 
trở lên tăng từ 7,0% năm 2011 lên 11,3% năm 
2015.3 Hiện nay, tuy hầu hết NCT có xu hướng 
sống cùng con cái và coi đó như một giải pháp 
an sinh tuổi già; nhưng với những thay đổi 
của cuộc sống hiện đại khiến những cung cấp 
của gia đình về chăm sóc, tình cảm, tâm lý, tài 
chính đối với người cao tuổi trở lên khó khăn.4 
Do đó, nhiều NCT phải sống một mình và tự 
chăm sóc bản thân. NCT Việt Nam có sức khỏe 
chưa thực sự tốt như mong muốn, 95% người 
cao tuổi có bệnh mà chủ yếu là bệnh mạn tính 
không lây, phần lớn người cao tuổi gặp khó 
khăn trong vận động và sinh hoạt.5 Việc trợ giúp 
của nhà nước thông qua chính sách BHYT là 
vô cùng cần thiết, đảm bảo sự chăm sóc sức 
khỏe tốt nhất cho NCT khi số lượng và vai trò 
của đối tượng này ngày càng tăng trong xã hội, 
Tác giả liên hệ: Trần Thị Thanh Thủy, Viện Đào tạo 
Y học Dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại 
học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 05/02/2020
Ngày được chấp nhận: 27/04/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 53
NCT càng cần hiểu rõ pháp luật y tế để có thể 
tự chăm sóc bản thân trong xã hội đầy biến 
động hiện nay. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu 
nào về hiểu biết của NCT về Luật BHYT. Do 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục 
tiêu: Mô tả thực trạng hiểu biết Luật bảo hiểm y 
tế và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi 
tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố 
Hà Nội, năm 2017.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
NCT từ 60 tuổi trở lên, sinh sống từ 1 năm 
trở lên tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành 
phố Hà Nội ở thời điểm nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang, sử dụng phương pháp nghiên cứu định 
lượng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12 năm 
2016 đến tháng 5 năm 2017
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành 
phố Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống.
Lập danh sách NCT, theo số liệu báo cáo 
cuối năm 2016 của UBND xã Thọ An.
Xác định khoảng cách mẫu k: k = Tổng số 
NCT/374 = 1177/374 = 3,1 (làm tròn, lấy k = 3)
Chọn NCT đầu tiên bằng phương pháp 
ngẫu nhiên đơn sao cho số thứ tự của người 
đó trong danh sách nhỏ hơn k (<3). Người tiếp 
theo được chọn bằng cách lấy số thứ tự của 
người đầu tiên +k; +2k; +3k; cứ thế cho đến 
khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu.
Áp dụng công thức:
n d
p(1 p)z12 22=
-
- a
Z1-α/2: Hệ số giới hạn tin cậy, với mức ý nghĩa 
thống kê α
 (α = 0,05 tương ứng với giá trị của Z1-α/2 = 
1,96 với độ tin cậy 95%).
p: Tỷ lệ NCT biết về luật BHYT (thu được 
từ điều tra thử 30 NCT: Tỷ lệ NCT biết về Luật 
BHYT là 33,3%).
1 - p: Tỷ lệ NCT không biết về Luật BHYT.
d: Sai số mong muốn. Chọn d = 0,05.
Áp dụng công thức tính được cỡ mẫu là 340 
NCT. Đề phòng trường hợp không tham gia 
nghiên cứu, chúng tôi tăng cỡ mẫu thêm 10% 
là 374 NCT.
Phương pháp loại trừ: Những đối tượng 
phỏng vấn có vấn đề về tâm thần kinh, không 
hiểu sõ thông tin để trả lời câu hỏi của điều tra 
viên.
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu: 
Bộ câu hỏi phỏng vấn được thiết kế sẵn, thu 
thập số liệu bằng cách phỏng vấn trực tiếp đối 
tượng tại hộ gia đình bằng bộ câu hỏi.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được mã hóa, làm sạch bằng phần 
mềm Epidata 3.1. Sử dụng phần mềm Stata 12 
để phân tích số liệu.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được chấp thuận thông qua hội 
đồng đề cương nghiên cứu tại Bộ môn Dân số 
học,Trường Đại học Y Hà Nội. Được sự chấp 
thuận của UBND và TYT xã Thọ An.
Đối tượng nghiên cứu được giải thích rõ về 
mục đích, nội dung nghiên cứu; chỉ phỏng vấn 
những NCT đồng ý tham gia nghiên cứu; đối 
tượng tham gia trên tinh thần tự nguyện và có 
quyền từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào.
Các thông tin thu được đảm bảo giữ bí mật 
và chỉ phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202054
III. KẾT QUẢ
Biểu đồ 1. Tỷ lệ NCT biết về Luật BHYT
Trong số 374 NCT được nghiên cứu, có 50,8% NCT biết về Luật BHYT và 49,2% NCT không biết 
về Luật BHYT.
Bảng 1. Hiểu biết về mức hưởng BHYT khi KCB bằng thẻ BHYT của NCT
Mức hiểu biết Tần số Tỷ lệ (%)
Thấp 286 76,5
Trung bình 75 20,0
Cao 13 3,5
Tổng 374 100,0
Phần lớn NCT trong nghiên cứu (76,5%) có hiểu biết thấp về mức hưởng BHYT khi KCB bằng thẻ 
BHYT, chỉ có 20,0% NCT có hiểu biết trung bình và 3,5% NCT có hiểu biết cao về mức hưởng BHYT.
Bảng 2. Hiểu biết của NCT về trường hợp được xác định là đúng tuyến khám, chữa bệnh 
bảo hiểm y tế
Nội dung Tần số Tỷ lệ (%)
KCB tại nơi đăng ký thẻ 241 64,4
Tại TYT xã, BV huyện trong cùng tỉnh 12 3,2
Chuyển từ tuyến xã đến tuyến huyện 172 46,0
Chuyển từ tuyến huyện đến tuyến tỉnh 164 43,9
Cấp cứu tại bất kỳ CSYT nào 30 8,0
Không biết 70 18,7
Khác 0 0,0
Tổng 374 100,0
Đa phần NCT cho rằng KCB tại nơi đăng ký thẻ BHYT, chuyển từ tuyến xã đến tuyến huyện và 
chuyển từ tuyến huyện đến tuyến tỉnh mới được coi là đúng tuyến chiếm tỷ lệ lần lượt là 64,4%; 
46,0% và 43,9%. Chỉ có 3,2% NCT cho rằng khi KCB tại tuyến xã, huyện trong cùng tỉnh và 8,0% cho 
rằng cấp cứu là đúng tuyến; có 18,7% số NCT không biết khi nào được coi là đúng tuyến.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 55
Bảng 3. Mối liên quan giữa một số yếu tố và mức độ hiểu biết về mức hưởng 
BHYT của NCT
Đặc điểm
Mức hiểu biết n (%)
OR (95% CI)
TB và cao Thấp
Giới tính
Nữ 27 (11,9) 199 (88,1) 1,00
Nam 61 (41,2) 87 (58,8) 5,17 (2,98 – 8,96)
Nhóm tuổi
≥ 80 7 (9,9) 64 (90,1) 1,00
70 – 79 40 (25,5) 117 (74,5) 3,13 (1,30 - 7,49)
60 – 69 41 (28,1) 105 (71,9) 3,57 (1,47 - 8,61)
Trình độ học vấn
Tốt nghiệp THPT trở lên 27 (84,4) 5 (15,6) 1,00
Tốt nghiệp THCS 29 (53,7) 25 (46,3) 0,21 (0,07 – 0,68)
Tốt nghiệp Tiểu học 27 (17,0) 132 (83,0) 0,04 (0,01 – 0,13)
Dưới tiểu học 5 (3,9) 124 (96,1) 0,01 (0,00 – 0,07)
NCT nam khả năng có hiểu biết về mức chi trả BHYT cao hơn gấp 5,17 lần NCT nữ, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê. NCT ở độ tuổi 60 – 69 và 70 – 79 tuổi nguy cơ có hiểu biết về mức chi trả 
BHYT cao gấp 3,13 và 3,57 lần so với NCT ≥ 80 tuổi, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. NCT 
đã tốt nghiệp THCS, tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt nghiệp tiểu học nguy cơ có hiểu biết về mức 
hưởng BHYT chỉ bằng 21%; 4% và 1% so với NCT tốt nghiệp THPT trở lên. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê.
Biểu đồ 2. Kênh thông tin NCT tiếp cận với Luật BHYT
IV. BÀN LUẬN
NCT biết về Luật BHYT chiếm tỷ lệ 50,8%, 49,2% NCT không biết về Luật BHYT. Kết quả này thấp 
hơn so với nghiên cứu của Bộ Y tế năm 2011, với 30% người được hỏi không biết về luật BHYT.² 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202056
Lý giải điều này do NCT có trình độ học vấn, 
khả năng tiếp cận với tin tức, công nghệ thông 
tin kém hơn so với các thế hệ trẻ hiện nay, hơn 
nữa tuổi càng cao càng phải đối mặt với nhiều 
vấn đề sức khỏe, đặc biệt là thị giác và thính 
giác là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới 
việc tiếp cận thông tin của NCT. Nghiên cứu tại 
Sóc Sơn, Hà Nội năm 2016 cho thấy bệnh đục 
thủy tinh thể gặp ở 98,3% số NCT được nghiên 
cứu và bệnh giảm thính lực gặp ở 48,1% số 
NCT.⁶ NCT biết đến Luật BHYT chủ yếu qua 
tivi, báo, đài với tỷ lệ 85,8%. Kết quả này tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của Trương Xuân 
Trường, năm 2016 tại vùng ven đô Hà Nội với 
55,0% người dân biết về Luật BHYT.⁷ 
Phần lớn NCT (76,5%) có hiểu biết thấp về 
mức hưởng BHYT khi KCB bằng thẻ BHYT, chỉ 
có 23,5% NCT có hiểu biết trung bình và cao. 
Theo kết quả báo cáo đánh giá ba năm thực 
thi Luật bảo hiểm y tế (2010 – 2012) và nghiên 
cứu tại vùng ven đô Hà Nội cho thấy 31% bệnh 
nhân có BHYT đi khám chữa bệnh mà không 
biết sẽ được BHYT chi trả bao nhiêu phần trăm 
chi phí KCB; đa số người dân chỉ biết một phần 
(60,1%), chỉ có 31,7% người hiểu biết thực sự 
về BHYT.7,8 Mức hiểu biết của người dân về 
những quyền lợi khi khám chữa bệnh bằng thẻ 
BHYT, trực tiếp là mức chi trả còn hạn chế. Có 
thể do người dân chủ yếu tiếp cận Luật BHYT 
qua kênh truyền thông đại chúng; tuy nhiên 
chất lượng của hoạt động này còn nhiều bất 
cập, mang tính hình thức, không đi sâu vào giải 
thích thông tin, người dân khi không hiểu vấn 
đề gì liên quan đến luật BHYT hay chính sách 
BHYT cũng không biết hỏi ai.⁷
NCT cho rằng khám, chữa bệnh BHYT đúng 
tuyến là khám tại nơi đăng ký thẻ BHYT đạt tỷ 
lệ cao nhất 64,4%; trường hợp chuyển từ tuyến 
xã lên tuyến huyện và từ tuyến huyện lên tuyến 
tỉnh có tỷ lệ 46,0% và 43,9%. Chỉ có 3,2% NCT 
cho rằng khi KCB tại tuyến xã, huyện trong cùng 
tỉnh là đúng tuyến, có tới 18,7% NCT không 
biết khi nào được xác định là khám, chữa bệnh 
BHYT đúng tuyến. Phần lớn hiểu biết của NCT 
về trường hợp được xác định là đúng tuyến 
khi khám, chữa bệnh BHYT còn chưa cập nhật 
những thay đổi trong chính sách BHYT. Theo 
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo 
hiểm y tế số 46/2014/QH13 và thông tư 40 năm 
2015 của Bộ Y tế, đã quy định từ ngày 1/1/2016 
áp dụng thông tuyến xã và tuyến huyện trong 
khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Như vậy 
người dân khi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT 
tại tuyến xã hoặc tuyến huyện trong cùng địa 
bàn tỉnh được xác định là đúng tuyến, đây là 
một trong những điểm thay đổi quan trọng trong 
chính sách bảo hiểm y tế.9,10
NCT nam có nguy cơ hiểu biết về mức 
hưởng BHYT cao hơn NCT nữ 5,17 lần với 
khoảng tin cậy 95% là 2,98 - 8,96. NCT từ 60 
– 69 và 70 – 79 nguy cơ có hiểu biết cao hơn 
3,57 lần và 3,13 lần so với NCT ≥ 80. NCT tốt 
nghiệp THCS, tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt 
nghiệp tiểu học nguy cơ có hiểu biết về mức 
hưởng BHYT chỉ bằng 21%; 4% và 1% so với 
NCT tốt nghiệp THPT trở lên. Theo nghiên cứu 
của Trương Xuân Trường, năm 2016, tỷ lệ hiểu 
biết đầy đủ về BHYT của nhóm người có trình 
độ tiểu học trở xuống là thấp nhất (7,0%), tỷ lệ 
này tăng theo trình độ học vấn, THCS (21,1%), 
THPT (48,5%) và cao nhất ở nhóm có trình độ 
cao đẳng/đại học trở lên. Ngược lại, tỷ lệ không 
biết gì về BHYT ở nhóm học vấn thấp là cao 
nhất.⁷
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ người cao tuổi biết về Luật bảo hiểm 
y tế thấp (50,8%). Người cao tuổi chủ yếu biết 
đến Luật bảo hiểm y tế qua phương tiện thông 
tin đại chúng.
Người cao tuổi nam có hiểu biết về mức 
hưởng bảo hiểm y tế cao hơn người cao tuổi 
nữ. Người cao tuổi tuổi 60 – 79 có hiểu biết 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 57
cao hơn người cao tuổi ≥ 80. Người cao tuổi 
có trình độ học vấn càng cao có hiểu biết về 
mức hưởng bảo hiểm y tế càng cao. Bên cạnh 
đó, tuyên truyền vận động người cao tuổi khám 
sức khỏe định kỳ và sử dụng thẻ bảo hiểm y 
tế để khám khi ốm tại các cơ sở y tế và cải 
cách thủ tục hành chính. Đảm bảo công bằng 
trong khám chữa bệnh, cải thiện thái độ, phong 
cách của nhân viên y tế. Tăng cường các hoạt 
động truyền thông về luật bảo hiểm y tế và mức 
hưởng bảo hiểm y tế ở nhóm nữ.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, 
giúp đỡ của lãnh đạo UBND xã Thọ An, Huyện 
Đan Phượng Thành phố Hà Nội và những 
người cao tuổi đã tham gia nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội. Luật Bảo hiểm Y tế, số 25/2008/
QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008. 
2. Bộ Y tế, Báo cáo chuyên đề: Tình hình 
bảo hiểm y tế ở Việt Nam, điều tra y tế quốc gia 
2001-2002. NXB Y học (2003). 
3. Báo cáo của tổng giám đốc BHXH Việt 
Nam tại hội nghị trực tuyến về thực hiện chính 
sách bảo hiểm y tế 6 tháng đầu năm 2015. 
4. Quốc hội. Luật sửa đổi một số điều của 
Luật Bảo hiểm y tế, số 46/2014/QH13, ngày 13 
tháng 6 năm 2014.
5. Bộ Y Tế. Thông tin quy định đăng ký 
khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu 
và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo 
hiểm y tế, số 40/2015/TT-BYT, ngày 15 tháng 
11 năm 2015. 
6. Sự hiểu biết của người dân nông thôn 
ven đô hiện nay về chính sách bảo hiểm y tế. 
Trương Xuân Trường. Tạp Chí Thông Tin Khoa 
Học Xã Hội. (2016). 
7. Quốc hội. Luật Người cao tuổi, số 
39/2009/QH12 ngày 23 tháng 11 năm 2009.
8. Tổng cục Thống kê. Điều tra biến động 
dân số và kế hoạch hóa gia đình ngày 1/4/2011. 
Các kết quả chủ yếu. (2014)
9. Tổng cục thống kê. Điều tra biến động 
dân số và KHHGĐ thời điểm 1/4/2015: các kết 
quả chủ yếu. NXB Thống kê. (2016)
10. Tổng cục Thống kê. Dự báo dân số Việt 
Nam 2014 - 2049. NXB Thông Tấn. UNFPA 
(2016).
Summary
CURRENT STATE OF THE ELDERLY’S KNOWLEDGE OF THE 
LAW ON HEALTH INSURANCE AND ASSOCIATED FACTORS IN 
THO AN COMMUNE, DAN PHUONG DISTRICT, HANOI IN 2017
A cross-sectional study was conducted on 374 elderly people in Tho An commune, Dan 
Phuong district, Hanoi capital in 2017 to describe the elderly’s knowledge of the Law on Health 
Insurance and related factors. The systematic random sampling method was used with k = 3, 
The percentage of knowledge about the Law on Health Insurance was 50.8%. Elderly people 
mostly know about the Law on Health Insurance through the mass media. Most elderly people 
have a low understanding of health insurance benefits. The case determined to be the right 
level, health examination at the registered health facility indicated on the health insurance 
card were the highest rated (64.4%). Older males had better knowledge about health insurance 
than elderly women. Elderly people aged 60-79 years old had better knowledge than the 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202058
age group ≥ 80 years old. The higher education, the better knowledge on the level of benefit. 
Key words: Health Insurance, Elderly, Using medical Service, Hanoi

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_hieu_biet_ve_luat_bao_hiem_y_te_va_mot_so_yeu_to.pdf