Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 334 người bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại cộng đồng ở 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) năm 2013. Đo mật độ xương bằng phương pháp DXA ngoại biên (peripheral dual energy X-Ray absorptiometry-pDXA) vị trí ở 1/3 dưới cẳng tay và chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn của WHO. Chụp X quang cột sống nghiêng để chẩn đoán gãy xương đốt sống theo phương pháp bán định lượng – Genant. Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống là 18,6% (nam giới 16,7% và nữ giới 19,5%); vị trí gãy ở đốt sống lưng là 30,7%, thắt lưng 53,2% và ở cả hai 16,1%; số đốt sống gãy là một có tỷ lệ 67,7%, hai đốt 21% và hơn hai đốt là 11,3%; gãy độ 1 có tỷ lệ 53,2%, độ 2 21% và độ 3 là 25,8%. Khảo sát cũng cho thấy có 84% số người gãy xương đốt sống nhưng không biết mình bị bệnh. Gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương có liên quan đến tuổi, nghề nghiệp, tập thể dục, tình trạng giảm chiều cao và mật độ xương. Như vậy, cần tăng cường tầm soát gãy xương đốt sống ở người có mật độ xương thấp tại cộng đồng bằng phương pháp chụp X quang cột sống thường quy, đặc biệt đối với người cao tuổi có giảm chiều cao, vận động thể lực kém
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn10 THỰC TRẠNG GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG Ở NGƯỜI BỆNH LOÃNG XƯƠNG TẠI 4 QUẬN, HUYỆN CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013 Nguyễn Trung Hòa1, Nguyễn Thị Thắm1, Nguyễn Thị Mỹ Phụng1, Nguyễn Mạnh Bảo2, Nguyễn Văn Tập3 TÓM TẮT Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 334 người bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại cộng đồng ở 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) năm 2013. Đo mật độ xương bằng phương pháp DXA ngoại biên (peripheral dual energy X-ray absorptiometry-pDXA) vị trí ở 1/3 dưới cẳng tay và chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn của WHO. Chụp X quang cột sống nghiêng để chẩn đoán gãy xương đốt sống theo phương pháp bán định lượng – Genant. Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống là 18,6% (nam giới 16,7% và nữ giới 19,5%); vị trí gãy ở đốt sống lưng là 30,7%, thắt lưng 53,2% và ở cả hai 16,1%; số đốt sống gãy là một có tỷ lệ 67,7%, hai đốt 21% và hơn hai đốt là 11,3%; gãy độ 1 có tỷ lệ 53,2%, độ 2 21% và độ 3 là 25,8%. Khảo sát cũng cho thấy có 84% số người gãy xương đốt sống nhưng không biết mình bị bệnh. Gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương có liên quan đến tuổi, nghề nghiệp, tập thể dục, tình trạng giảm chiều cao và mật độ xương. Như vậy, cần tăng cường tầm soát gãy xương đốt sống ở người có mật độ xương thấp tại cộng đồng bằng phương pháp chụp X quang cột sống thường quy, đặc biệt đối với người cao tuổi có giảm chiều cao, vận động thể lực kém. Từ khóa: Loãng xương, gãy xương đốt sống, phương pháp Genant, TPHCM. ABSTRACT THE SITUATION OF VERTEBRAL FRACTURES IN PATIENTS WITH OSTEOPOROSIS IN FOUR DISTRICTS IN HO CHI MINH CITY IN 2013 Cross-sectional descriptive study was conducted on 334 people aged 45 and older in 4 districts in Ho Chi Minh City (HCMC) 2013. Measurement of bone mineral density (BMD) used by peripheral dual energy X-ray absorptiometry (pDXA) in distal 1/3rd forearm and diagnose of osteoporosis according to WHO standards. X-rays to diagnose osteoporotic vertebral fractures used by semi-quantitative method - Genant. Results showed that the rate of osteoporotic vertebral fractures was 18.6% (16.7% men and 19.5% women); Location of vertebral fractures in thoracic vertebrae, lumbar vertebrae and both was 30.7%, 53.2%, and 16.1%, respectively; the rates of number vertebral fractures were one 67.7%, two 21% and more than two 11.3%; the rates of vertebral fractures grade 1,2,3 were 53.2%, 21%, 25.8%, respectively. The survey also showed that 84% of vertebral fractures but this patients do not know they had fractures. Vertebral osteoporotic fractures were related to age, occupation, physical exercise, reduced height and bone density. Thus, the need to strengthen screen vertebral fractures in people with low bone density in the community by means of routine chest X-ray, especially for elderly people with reduced height, less physical activity . Key words: Osteoporosis, vertebral fratures, Method Genant, Ho Chi Minh City. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Loãng xương đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu và là gánh nặng lên ngân sách y tế ở mỗi quốc gia. Việt Nam có trên 2,5 triệu người bị loãng xương trong đó phụ nữ 1,9 triệu người [7]. Gãy đốt sống do bệnh loãng xương thường dẫn đến biến dạng cột sống như còng gù lưng, làm đau lưng 1. Trung tâm Y tế Dự phòng Gò Vấp TPHCM. Tác giả. Nguyễn Trung Hòa. Điện thoại.0903673388. [email protected] 2. Bệnh viện ĐKKV Hóc Môn TPHCM 3. Đại học Y Dược TPHCM Ngày nhận bài: 30/06/2016 Ngày phản biện: 08/07/2016 Ngày duyệt đăng: 15/07/2016 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 11 kéo dài, giảm chiều cao, hạn chế vận động, trầm cảm, giảm chức năng hô hấp và chết sớm. Trên thế giới, cứ mỗi 22 giây có một trường hợp gãy xương đốt sống. Tỷ lệ lưu hành gãy xương đốt sống là 20-25% ở phụ nữ và đàn ông da trắng trên 50 tuổi và 50% nếu trên 80 tuổi. Hầu hết người bệnh gãy xương đốt sống do loãng xương không được chẩn đoán và điều trị, nhất là những trường hợp nhẹ và vừa. Bên cạnh đó, chỉ khoảng 40% phụ nữ cao tuổi phát hiện gãy xương đốt sống trên phim X quang được chỉ định đo mật độ xương bằng DXA và ở nam giới còn thấp hơn (<20%) [2]. Với hậu quả nặng nề của gãy xương đốt sống do loãng xương, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại 4 quận huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013” nhằm xác định tỷ lệ bệnh và những yếu tố liên quan, đề xuất giải pháp phòng bệnh, nâng cao chất lượng sống cho người cao tuổi. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu Người dân bệnh loãng xương tuổi từ 45 trở lên đang cư trú tại 8 phường, xã thuộc 4 quận, huyện của TPHCM. Tiêu chí loại trừ là người dân bệnh loãng xương có chống chỉ định chụp X quang cột sống, đã từng bị gãy cột sống do tai nạn nghiêm trọng hoặc bệnh lý khác về cột sống, bệnh lý chuyển hóa calci. Thời gian nghiên cứu từ tháng 8 đến 12/2013 tại 6 phường và 2 xã: phường 3 và 11 quận Bình Thạnh, phường 5 và 8 quận Gò Vấp, phường Hiệp Thành và An Phú Đông quận 12, xã Tân Xuân và Đông Thạnh huyện Hóc Môn. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang và cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ: p(1-p) n = Z2 (1-α/2) ------------------------ (∆)2 Chúng tôi chọn p=0,245 tương ứng với 24,5% là tỷ lệ gãy xương đốt sống ở người trên 50 tuổi từ một nghiên cứu tại TPHCM năm 2011 [4]. Chọn sai số mong muốn Δ=0,05. Thay vào công thức và tăng 20% sai số ta có n=341. Thực tế cỡ mẫu khảo sát là 334 người. Kỹ thuật chọn mẫu: Dùng phương pháp PPS (probability proportionate to size) chọn 3 quận Bình Thạnh, Gò Vấp, 12 và huyện Hóc Môn. Sau đó mỗi quận, huyện bốc thăm ngẫu nhiên chọn 2 phường, xã. Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45 tuổi trở lên có thứ tự tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã (chọn từ 120 – 125 người dân). Theo kết quả điều tra ngang thì tỷ lệ loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại TPHCM năm 2011 là 39,9% [1]. Như vậy, để được cỡ mẫu là 341 người bệnh loãng xương thì số người cần tầm soát là 866. Thực tế chúng tôi khảo sát 988 người. 2.3. Biến số nghiên cứu - Gãy xương đốt sống: Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp bán định lượng do Genant đề xuất vào năm 1990. Phim cột sống được chụp nghiêng, vị trí đốt sống đánh giá là từ T4 đến L4 dựa vào một trong 4 chỉ số sau: chiều cao trước, giữa, sau và diện tích mặt bên của thân đốt sống so với chiều cao còn lại của chính đốt sống đó. Bảng 1. Tiêu chuẩn chẩn đoán gãy đốt sống theo phương pháp Genant [2] Vị trí xác định Mức độ gãy Diện tích mặt bên của thân đốt sống Độ 1 (nhẹ) : giảm từ 10-20% Độ 2 (vừa) : giảm từ 20-40% Độ 3 (nặng): giảm >40% Thân trước: so với chiều cao thân sau Thân giữa: so với chiều cao trước và sau Thân sau: so với chiều cao thân trước Độ 1 (nhẹ): giảm từ 20-25% Độ 2 (vừa): giảm từ 25-40% Độ 3 (nặng): giảm >40% - Loãng xương: Đo bằng phương pháp hấp thụ năng lượng tia X kép ngoại biên (Peripheral Dual-Energy X-ray Absorptiometry -pDXA) được thực hiện bằng máy DTX-200 DexaCare do hãng OSTEOMETER MEDITECH, INC của Mỹ sản xuất năm 2009. Vị trí đo tại phần xa cẳng tay và chẩn đoán theo tiêu chuẩn WHO (T-score ≤-2,5). 2.4. Phân tích và xử lý số liệu Phân tích số liệu theo phương pháp thống kê y học, phần mềm Stata-10. So sánh sự liên quan bằng test χ², Spearman test. Giá trị p có ý nghĩa thống kê ở ngưỡng < 0,05. III. KẾT QUẢ Kết quả khảo sát 334 người cho thấy: nữ 67,7%, tuổi trung bình 67,4 (±9,7). Nhóm tuổi từ 45-54: 8,4%, 55-64: 33,2%, 65-74: 33,5% và >74 tuổi: 24,9%. Trung bình BMI là 21,9%. Trình độ học vấn chiếm phân nửa là tiểu học (49,7%). Về tiền sử có gãy xương đốt sống là 11/334 trường hợp nhưng chỉ có 10 trường hợp được xác định trên phim X quang. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn12 Biểu đồ 1: Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương Biểu đồ 2: Phân bố tỷ lệ vị trí, số lượng, phân độ đốt sống gãy Bảng 2. Liên quan gãy xương đốt sống với BMD của người bệnh loãng xương Bảng 3. Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống theo nhóm tuổi Gãy xương đốt sống Không gãy xương đốt sống 18,6% 81,4% Nhận xét: Kết quả cho thấy có 18,6% người loãng xương bị gãy xương đốt sống Nhận xét: Gãy ở vị trí đốt sống thắt lưng có tỷ lệ cao (53,2%), gãy chỉ một đốt chiếm tỷ lệ 67,7% và trên phân nửa số gãy là độ 1. Phân tích tương quan r của Spearman test (số liệu BMD không chuẩn). Nhận xét: Trung bình BMD ở người bệnh loãng xương có gãy xương đốt sống 0,296 g/cm² thấp hơn so với người bệnh loãng xương không gãy (0,33 g/cm²) và sự tương quan đồng biến ở mức độ yếu (p<0,001). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Vị trí đốt sống gãy Số đốt sống gãy Phân độ đốt sống gãy Đốt sống thắt lưng, Một đốt, Độ I Đốt sống ngực, Hai đốt, Độ II Cả hai, Trên 2 đốt, Độ III 53,2% 30,7% 16,1% 67,7% 21% 11,3% 53,2% 21% 25,8% Biến số Chỉ số Tần số % X BMD SD± Spearman´s r P Gãy xương đốt sống Có 62 18,6 0,296 0,076 0,2 <0,001Không 272 81,4 0,33 0,074 Tổng cộng 334 100 0,323 0,076 Nhóm tuổi Gãy cột sống Không gãy cột sống Tổng cộng p Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ 45 - 54 4 14,3 24 85,7 28 8,4 < 0.05 55 - 64 15 13,5 96 86,5 111 33,2 65 -74 17 15,2 95 84,8 112 33,5 >74 26 31,3 57 68,7 83 24,9 Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 13 Bảng 4. Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống theo giới tính, nghề nghiệp, tập thể dục thể thao và giảm chiều cao Kết quả cho thấy nhóm tuổi >74 có số trường hợp gãy xương đốt sống tăng cao và tỷ lệ gãy chiếm 31,3%. Nhận xét: Nam giới có tỷ lệ gãy xương đốt sống thấp hơn nữ giới (p>0,05). Người nội trợ có tỷ lệ gãy xương đốt sống cao nhất (30,4%), có tập thể dục thể thao tỷ lệ gãy thấp hơn không tập và người có giảm chiều cao chiếm tỷ lệ 38,8% gãy xương đốt sống. IV. BÀN LUẬN Trên thế giới, gãy xương đốt sống được xem là một bệnh phổ biến đối với người cao tuổi và là bệnh rất ít được chẩn đoán và điều trị. Hầu hết bệnh đều do biến chứng bởi mật độ xương thấp hay do loãng xương. Về cơ chế sinh bệnh thường là do té ngã, do trọng lực cơ thể đè nén thường xuyên trên những đốt sống đã giảm khối lượng và chất lượng. Kết quả khảo sát 334 người bệnh loãng xương có tuổi từ 45 trở lên tại 4 quận, huyện của TPHCM cho thấy tuổi trung bình là 67,4 và giới nữ chiếm 2/3 (67,7%). Phân tích kết quả chụp X quang cột sống nghiêng theo phương pháp bán định lượng cho thấy có 62/334 (18,6%) trường hợp gãy xương đốt sống và tỷ lệ nữ cao hơn nam giới (19,5% so với 16,7%) nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (bảng 1). Nếu so sánh với số người dân nghiên cứu đã biết bị gãy xương đốt sống trước đây (10/62=16%) thì tỷ lệ người bệnh loãng xương không biết mình bị gãy rất cao, chiếm 84%. Tỷ lệ gãy xương tăng theo tuổi từ 65 trở lên và nhóm tuổi trên 74 có tỷ lệ 31,3%, như vậy ở nhóm tuổi này 10 người thì có hơn 3 người bị gãy xương đốt sống. Tại bảng 2, BMD càng thấp thì tỷ lệ gãy xương đốt sống càng cao, trung bình BMD ở người có gãy xương chỉ có 0,296g/cm2 trong khi đó ở người không gãy xương là 0,33g/cm2. Kết quả phân tích Spearman cho thấy có mối tương quan giữa BMD và tỷ lệ gãy xương có ý nghĩa thống kê. Theo kết quả nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan tại TPHCM năm 2011 thì tỷ lệ gãy xương đốt sống ở người trên 50 tuổi nữ giới là 26,5% và nam giới là 23% [4]. Như vậy kết quả của chúng tôi thấp hơn khoảng 6,3-7%. Điều này có thể do chúng tôi sử dụng phương pháp bán định lượng và nhằm tránh tỷ lệ dương tính giả cao dẫn đến ước lượng quá mức tần suất gãy xương đốt sống so với thực tế (khi so sánh với phương pháp định lượng) nên chuyên gia phân tích kết quả đã rất cẩn trọng trong chẩn đoán và như vậy có khả năng một số trường hợp bỏ sót gãy độ 1. Tại các nước phương Tây, tỷ lệ lưu hành gãy xương đốt sống ở người da trắng trên 50 tuổi là 20-25% [2] và tỷ lệ này cũng cao hơn khảo sát của chúng tôi. Lý giải vấn đề này có thể do số trường hợp té ngã ở phương Tây cao hơn chúng ta. Mỗi năm có khoảng 40% số người phương Tây trên 65 tuổi té ngã ít nhất một lần [3] so với khảo sát của chúng tôi thì số người té ngã dưới 10%. Tại biểu đồ 2, cho thấy vị trí gãy ở đốt sống thắt lưng có tỷ lệ cao nhất, nếu gãy riêng là 53,2% nhưng nếu gộp chung thì có tới 69,3%; đốt sống ngực chiếm 30,7%, cả hai vị trí Nhóm tuổi Gãy cột sống Không gãy cột sống Tổng cộng p Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ Giới tính Nam 18 16,7 90 83,3 108 32,3 >0,05Nữ 44 19,5 182 80,5 226 67,7 Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100 Nghề nghiệp CBCC-VC 8 13,3 52 86,7 60 17,9 <0,05 Công nhân 17 23,3 56 76,7 73 21,8 Kinh doanh 7 10,5 60 89,5 67 20,1 Nông dân 14 21,9 50 78,1 64 19,2 Nội trợ 14 30,4 32 69,6 46 13,8 khác 2 8,3 22 91,7 24 7,2 Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100 Thể dục -thể thao Có 22 12,9 149 87,1 171 51,2 <0,05không 40 24,5 123 75,5 163 48,8 Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100 Giảm chiều cao Có 38 38,8 60 61,2 98 29,3 <0,05không 24 10,2 212 89,8 236 70,7 Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn14 có tỷ lệ 16,1%. Điều này phù hợp với thói quen sinh hoạt và lao động của người dân đa số chịu lực tác động ở thắt lưng và những tổn thương do sai tư thế. Số đốt xương sống gãy là một chiếm hơn 2/3 trường hợp (67,7%), hai đốt chiếm hơn 1/5 số gãy (21%) và số trường hợp gãy độ 1 chiếm hơn phân nửa, độ 3 hơn ¼ số trường hợp. Một nghiên cứu tương tự về tỷ lệ lưu hành gãy xương đốt sống liên quan đến loãng xương ở phụ nữ mãn kinh tại Saudi Arabia. Kết quả cho thấy có 785 người chụp X quang cột sống thì có 159 (20,3%) người bệnh, nhóm tuổi 61-70 chiếm 35,4% số trường hợp, gãy nhiều đốt chủ yếu ở tuổi từ 71 trở lên và chỉ có 13,2% người bệnh được điều trị thuốc chống loãng xương [5]. Kết quả này gần tương đương nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bệnh (19,5% so với 20,3%) nhưng theo nhóm tuổi >74 thì tỷ lệ bệnh của nghiên cứu chúng tôi thấp hơn. Phân tích về yếu tố nghề nghiệp cho thấy nhóm nghề nội trợ có tỷ lệ gãy xương đốt sống cao nhất (30,4%) kế đến là công nhân 23,3% và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 10,5%. Nghề nghiệp có liên quan đến gãy xương đốt sống có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này có thể do người nội trợ là người làm việc chính trong gia đình và có thể nguy cơ té ngã cao hơn các hoạt động khác. Phân tích thói quen tập thể dục thể thao của người dân nghiên cứu cho thấy người có tập tỷ lệ gãy xương chỉ 12,9% so với người không tập là 24,5% và tập thể dục thể thao có liên quan đến tỷ lệ gãy xương đốt sống có ý nghĩa thống kê. Vận động thể lực là biện pháp làm gia tăng sức mạnh của cơ bắp và của hệ xương khớp. Tại Boston ở Mỹ, các nhà khoa học đã nghiên cứu sự tác động của luyện tập Thái cực quyền trên nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh có giảm mật độ xương. Nhóm phụ nữ can thiệp được đào tạo và thực hành Thái cực quyền trong 9 tháng và còn lại là nhóm chứng không có tập. Kết quả cho thấy có sự khác biệt mật độ xương ở cổ xương đùi giữa nhóm tập luyện và nhóm chứng (+0,04 g/cm² so với -0,98% BMD, p=0,05) [6]. Về phân tích giảm chiều cao, trong nghiên cứu này chúng tôi so sánh chiều cao hiện tại với chiều cao ở lứa tuổi thanh niên (25-30 tuổi) nếu có giảm hơn 4cm thì được xem như giảm chiều cao. Kết quả cho thấy người có giảm chiều cao tỷ lệ gãy xương đến 38,8% trong khi không giảm chỉ có 10,5% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Theo các chuyên gia y tế tại châu Âu, những dấu hiệu nên nghĩ đến gãy xương đốt sống là giảm chiều cao trên 3cm, đau lưng nặng đột ngột hoặc đau mãn tính, gia tăng sự biếng dạng cột sống (còng, gù lưng) [2]. V. KẾT LUẬN VÀ KIÊN NGHỊ Thực trạng gãy xương đốt sống đang lưu hành phổ biến ở cộng đồng nhất là người cao tuổi. Tuy nhiên, việc tầm soát bệnh loãng xương và gãy xương đốt sống hiện nay vẫn còn hạn chế. Bằng chứng cho thấy có hơn 80% người dân nghiên cứu không biết mình mắc bệnh và việc điều trị nội khoa với chứng đau lưng mãn tính, biếng dạng cột sống, kém vận động... đã tiêu tốn tài chính cho gia đình và xã hội. Do vậy, cần thiết phải tầm soát gãy xương đốt sống ở người có mật độ xương thấp và hoặc có các triệu chứng chỉ điểm như giảm chiều cao, còng gù lưng, đau lưng kéo dài... để phát hiện và điều trị phù hợp nhằm cải thiện chất lượng sống cho người cao tuổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Nguyễn Trung Hòa (2015), “Đánh giá hiệu quả một số can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sỹ Y khoa, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội. 2. International Osteoporosis Foundation (2010), The Breaking Spin, Report of IOF. 3. International Osteoporosis Foundation (2012), Facts and Statistics, Annual Report 2011 of International Osteoporosis Foundation. 4. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán gãy xương đốt sống: Phát triển giá trị tham chiếu cho người Việt – Quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt”, Thời sự Y học-Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 8(63), tr. 3-16. 5. M. Sadat-Ali et al. (2009), “Osteoporosis-related vertebral fractures in postmenopausal women: Prevalence in a Saudi Arabian sample”, La Revue de Santé de la Méditerranée orientale, Vol. 15(6), pp. 1420-1425. 6. Peter M Wayne et al. (2012), “Impact of Tai Chi exercise on multiple fracture-related risk factors in post-menopausal osteopenic women: a pilot pragmatic, randomized trial”, BMC Complement Alternal Medicine, Vol. 12(7), pp. 1-12. 7. Lê Anh Thư (2009), Những tiến bộ chính trong lĩnh vực loãng xương và thách thức trong chọn lựa-quản lý điều trị loãng xương, Báo cáo khoa học cập nhật mới trong chẩn đoán, điều trị loãng xương và bệnh xương khớp, TPHCM, tr. 1-7
File đính kèm:
thuc_trang_gay_xuong_dot_song_o_nguoi_benh_loang_xuong_tai_4.pdf

