Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 334 người bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại cộng đồng ở 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) năm 2013. Đo mật độ xương bằng phương pháp DXA ngoại biên (peripheral dual energy X-Ray absorptiometry-pDXA) vị trí ở 1/3 dưới cẳng tay và chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn của WHO. Chụp X quang cột sống nghiêng để chẩn đoán gãy xương đốt sống theo phương pháp bán định lượng – Genant. Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống là 18,6% (nam giới 16,7% và nữ giới 19,5%); vị trí gãy ở đốt sống lưng là 30,7%, thắt lưng 53,2% và ở cả hai 16,1%; số đốt sống gãy là một có tỷ lệ 67,7%, hai đốt 21% và hơn hai đốt là 11,3%; gãy độ 1 có tỷ lệ 53,2%, độ 2 21% và độ 3 là 25,8%. Khảo sát cũng cho thấy có 84% số người gãy xương đốt sống nhưng không biết mình bị bệnh. Gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương có liên quan đến tuổi, nghề nghiệp, tập thể dục, tình trạng giảm chiều cao và mật độ xương. Như vậy, cần tăng cường tầm soát gãy xương đốt sống ở người có mật độ xương thấp tại cộng đồng bằng phương pháp chụp X quang cột sống thường quy, đặc biệt đối với người cao tuổi có giảm chiều cao, vận động thể lực kém

pdf 5 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013

Thực trạng gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương tại 4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh năm 2013
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn10
THỰC TRẠNG GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG Ở 
NGƯỜI BỆNH LOÃNG XƯƠNG TẠI 4 QUẬN, 
HUYỆN CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013
Nguyễn Trung Hòa1, Nguyễn Thị Thắm1, Nguyễn Thị Mỹ Phụng1, Nguyễn Mạnh Bảo2, Nguyễn Văn Tập3
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 334 
người bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại cộng đồng ở 
4 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) năm 
2013. Đo mật độ xương bằng phương pháp DXA ngoại biên 
(peripheral dual energy X-ray absorptiometry-pDXA) vị trí ở 
1/3 dưới cẳng tay và chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn 
của WHO. Chụp X quang cột sống nghiêng để chẩn đoán gãy 
xương đốt sống theo phương pháp bán định lượng – Genant. 
Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống là 18,6% (nam 
giới 16,7% và nữ giới 19,5%); vị trí gãy ở đốt sống lưng là 
30,7%, thắt lưng 53,2% và ở cả hai 16,1%; số đốt sống gãy 
là một có tỷ lệ 67,7%, hai đốt 21% và hơn hai đốt là 11,3%; 
gãy độ 1 có tỷ lệ 53,2%, độ 2 21% và độ 3 là 25,8%. Khảo sát 
cũng cho thấy có 84% số người gãy xương đốt sống nhưng 
không biết mình bị bệnh. Gãy xương đốt sống ở người bệnh 
loãng xương có liên quan đến tuổi, nghề nghiệp, tập thể dục, 
tình trạng giảm chiều cao và mật độ xương. Như vậy, cần 
tăng cường tầm soát gãy xương đốt sống ở người có mật độ 
xương thấp tại cộng đồng bằng phương pháp chụp X quang 
cột sống thường quy, đặc biệt đối với người cao tuổi có giảm 
chiều cao, vận động thể lực kém.
Từ khóa: Loãng xương, gãy xương đốt sống, phương 
pháp Genant, TPHCM.
ABSTRACT
THE SITUATION OF VERTEBRAL FRACTURES 
IN PATIENTS WITH OSTEOPOROSIS IN FOUR 
DISTRICTS IN HO CHI MINH CITY IN 2013
Cross-sectional descriptive study was conducted on 
334 people aged 45 and older in 4 districts in Ho Chi Minh 
City (HCMC) 2013. Measurement of bone mineral density 
(BMD) used by peripheral dual energy X-ray absorptiometry 
(pDXA) in distal 1/3rd forearm and diagnose of osteoporosis 
according to WHO standards. X-rays to diagnose osteoporotic 
vertebral fractures used by semi-quantitative method - Genant. 
Results showed that the rate of osteoporotic vertebral 
fractures was 18.6% (16.7% men and 19.5% women); 
Location of vertebral fractures in thoracic vertebrae, 
lumbar vertebrae and both was 30.7%, 53.2%, and 
16.1%, respectively; the rates of number vertebral fractures 
were one 67.7%, two 21% and more than two 11.3%; the 
rates of vertebral fractures grade 1,2,3 were 53.2%, 21%, 
25.8%, respectively. The survey also showed that 84% of 
vertebral fractures but this patients do not know they had 
fractures. Vertebral osteoporotic fractures were related 
to age, occupation, physical exercise, reduced height and 
bone density. Thus, the need to strengthen screen vertebral 
fractures in people with low bone density in the community 
by means of routine chest X-ray, especially for elderly people 
with reduced height, less physical activity . 
Key words: Osteoporosis, vertebral fratures, Method 
Genant, Ho Chi Minh City.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu và 
là gánh nặng lên ngân sách y tế ở mỗi quốc gia. Việt Nam 
có trên 2,5 triệu người bị loãng xương trong đó phụ nữ 1,9 
triệu người [7]. Gãy đốt sống do bệnh loãng xương thường 
dẫn đến biến dạng cột sống như còng gù lưng, làm đau lưng 
1. Trung tâm Y tế Dự phòng Gò Vấp TPHCM. Tác giả. Nguyễn Trung Hòa. 
Điện thoại.0903673388. [email protected]
2. Bệnh viện ĐKKV Hóc Môn TPHCM
3. Đại học Y Dược TPHCM
Ngày nhận bài: 30/06/2016 Ngày phản biện: 08/07/2016 Ngày duyệt đăng: 15/07/2016
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 11
kéo dài, giảm chiều cao, hạn chế vận động, trầm cảm, giảm 
chức năng hô hấp và chết sớm. Trên thế giới, cứ mỗi 22 giây 
có một trường hợp gãy xương đốt sống. Tỷ lệ lưu hành gãy 
xương đốt sống là 20-25% ở phụ nữ và đàn ông da trắng 
trên 50 tuổi và 50% nếu trên 80 tuổi. Hầu hết người bệnh 
gãy xương đốt sống do loãng xương không được chẩn đoán 
và điều trị, nhất là những trường hợp nhẹ và vừa. Bên cạnh 
đó, chỉ khoảng 40% phụ nữ cao tuổi phát hiện gãy xương 
đốt sống trên phim X quang được chỉ định đo mật độ xương 
bằng DXA và ở nam giới còn thấp hơn (<20%) [2]. Với hậu 
quả nặng nề của gãy xương đốt sống do loãng xương, chúng 
tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng gãy xương đốt sống ở người 
bệnh loãng xương từ 45 tuổi trở lên tại 4 quận huyện của 
thành phố Hồ Chí Minh năm 2013” nhằm xác định tỷ lệ bệnh 
và những yếu tố liên quan, đề xuất giải pháp phòng bệnh, 
nâng cao chất lượng sống cho người cao tuổi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Người dân bệnh loãng xương tuổi từ 45 trở lên đang cư 
trú tại 8 phường, xã thuộc 4 quận, huyện của TPHCM. Tiêu 
chí loại trừ là người dân bệnh loãng xương có chống chỉ định 
chụp X quang cột sống, đã từng bị gãy cột sống do tai nạn 
nghiêm trọng hoặc bệnh lý khác về cột sống, bệnh lý chuyển 
hóa calci.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 8 đến 12/2013 tại 6 phường 
và 2 xã: phường 3 và 11 quận Bình Thạnh, phường 5 và 8 
quận Gò Vấp, phường Hiệp Thành và An Phú Đông quận 12, 
xã Tân Xuân và Đông Thạnh huyện Hóc Môn. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang và cỡ mẫu được tính 
theo công thức ước lượng một tỷ lệ: 
 p(1-p)
 n = Z2
(1-α/2) 
 ------------------------ 
 (∆)2 
Chúng tôi chọn p=0,245 tương ứng với 24,5% là tỷ lệ 
gãy xương đốt sống ở người trên 50 tuổi từ một nghiên cứu 
tại TPHCM năm 2011 [4]. Chọn sai số mong muốn Δ=0,05. 
Thay vào công thức và tăng 20% sai số ta có n=341. Thực tế 
cỡ mẫu khảo sát là 334 người.
Kỹ thuật chọn mẫu: Dùng phương pháp PPS (probability 
proportionate to size) chọn 3 quận Bình Thạnh, Gò Vấp, 12 
và huyện Hóc Môn. Sau đó mỗi quận, huyện bốc thăm ngẫu 
nhiên chọn 2 phường, xã. Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu 
nhiên hệ thống theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45 
tuổi trở lên có thứ tự tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã (chọn 
từ 120 – 125 người dân). Theo kết quả điều tra ngang thì tỷ lệ 
loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại TPHCM năm 2011 
là 39,9% [1]. Như vậy, để được cỡ mẫu là 341 người bệnh 
loãng xương thì số người cần tầm soát là 866. Thực tế chúng 
tôi khảo sát 988 người. 
2.3. Biến số nghiên cứu
- Gãy xương đốt sống: Chẩn đoán gãy xương đốt sống 
bằng phương pháp bán định lượng do Genant đề xuất vào 
năm 1990. Phim cột sống được chụp nghiêng, vị trí đốt sống 
đánh giá là từ T4 đến L4 dựa vào một trong 4 chỉ số sau: 
chiều cao trước, giữa, sau và diện tích mặt bên của thân đốt 
sống so với chiều cao còn lại của chính đốt sống đó. 
Bảng 1. Tiêu chuẩn chẩn đoán gãy đốt sống theo 
phương pháp Genant [2]
Vị trí xác định Mức độ gãy
Diện tích mặt bên của 
thân đốt sống
Độ 1 (nhẹ) : giảm 
từ 10-20%
Độ 2 (vừa) : giảm 
từ 20-40%
Độ 3 (nặng): 
giảm >40%
Thân 
trước:
so với 
chiều 
cao thân 
sau
Thân 
giữa: so 
với chiều 
cao trước 
và sau
Thân sau: 
so với 
chiều cao 
thân trước
Độ 1 (nhẹ): giảm 
từ 20-25%
Độ 2 (vừa): giảm 
từ 25-40%
Độ 3 (nặng): 
giảm >40%
- Loãng xương: Đo bằng phương pháp hấp thụ năng 
lượng tia X kép ngoại biên (Peripheral Dual-Energy X-ray 
Absorptiometry -pDXA) được thực hiện bằng máy DTX-200 
DexaCare do hãng OSTEOMETER MEDITECH, INC của 
Mỹ sản xuất năm 2009. Vị trí đo tại phần xa cẳng tay và chẩn 
đoán theo tiêu chuẩn WHO (T-score ≤-2,5). 
2.4. Phân tích và xử lý số liệu 
Phân tích số liệu theo phương pháp thống kê y học, phần 
mềm Stata-10. So sánh sự liên quan bằng test χ², Spearman 
test. Giá trị p có ý nghĩa thống kê ở ngưỡng < 0,05.
III. KẾT QUẢ
Kết quả khảo sát 334 người cho thấy: nữ 67,7%, tuổi trung 
bình 67,4 (±9,7). Nhóm tuổi từ 45-54: 8,4%, 55-64: 33,2%, 
65-74: 33,5% và >74 tuổi: 24,9%. Trung bình BMI là 21,9%. 
Trình độ học vấn chiếm phân nửa là tiểu học (49,7%). Về 
tiền sử có gãy xương đốt sống là 11/334 trường hợp nhưng 
chỉ có 10 trường hợp được xác định trên phim X quang. 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn12
Biểu đồ 1: Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống ở người bệnh loãng xương
Biểu đồ 2: Phân bố tỷ lệ vị trí, số lượng, phân độ đốt sống gãy
Bảng 2. Liên quan gãy xương đốt sống với BMD của người bệnh loãng xương
Bảng 3. Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống theo nhóm tuổi
Gãy xương đốt sống
Không gãy xương đốt 
sống
18,6%
81,4% 
Nhận xét: Kết quả cho thấy có 18,6% người loãng xương bị gãy xương đốt sống
Nhận xét: Gãy ở vị trí đốt sống thắt lưng có tỷ lệ cao (53,2%), gãy chỉ một đốt chiếm tỷ lệ 67,7% và trên phân nửa số gãy là độ 1.
Phân tích tương quan r của Spearman test (số liệu BMD không chuẩn).
Nhận xét: Trung bình BMD ở người bệnh loãng xương có gãy xương đốt sống 0,296 g/cm² thấp hơn so với người bệnh loãng 
xương không gãy (0,33 g/cm²) và sự tương quan đồng biến ở mức độ yếu (p<0,001).
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Vị trí đốt sống gãy Số đốt sống gãy Phân độ đốt sống gãy
Đốt sống thắt lưng, 
Một đốt, Độ I
Đốt sống ngực, 
Hai đốt, Độ II
Cả hai, Trên 2 đốt, 
Độ III
53,2%
30,7%
16,1%
67,7%
21%
11,3%
53,2%
21%
25,8%
Biến số Chỉ số Tần số % X BMD SD± Spearman´s r P
Gãy xương 
đốt sống
Có 62 18,6 0,296 0,076
 0,2 <0,001Không 272 81,4 0,33 0,074
Tổng cộng 334 100 0,323 0,076
Nhóm tuổi
Gãy cột sống Không gãy cột sống Tổng cộng
p
Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
45 - 54 4 14,3 24 85,7 28 8,4
< 0.05
55 - 64 15 13,5 96 86,5 111 33,2
65 -74 17 15,2 95 84,8 112 33,5
>74 26 31,3 57 68,7 83 24,9
Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 13
Bảng 4. Phân bố tỷ lệ gãy xương đốt sống theo giới tính, nghề nghiệp, tập thể dục thể thao và giảm chiều cao
 Kết quả cho thấy nhóm tuổi >74 có số trường hợp gãy xương đốt sống tăng cao và tỷ lệ gãy chiếm 31,3%.
Nhận xét: Nam giới có tỷ lệ gãy xương đốt sống thấp hơn 
nữ giới (p>0,05). Người nội trợ có tỷ lệ gãy xương đốt sống 
cao nhất (30,4%), có tập thể dục thể thao tỷ lệ gãy thấp hơn 
không tập và người có giảm chiều cao chiếm tỷ lệ 38,8% gãy 
xương đốt sống. 
IV. BÀN LUẬN
Trên thế giới, gãy xương đốt sống được xem là một bệnh 
phổ biến đối với người cao tuổi và là bệnh rất ít được chẩn 
đoán và điều trị. Hầu hết bệnh đều do biến chứng bởi mật độ 
xương thấp hay do loãng xương. Về cơ chế sinh bệnh thường 
là do té ngã, do trọng lực cơ thể đè nén thường xuyên trên 
những đốt sống đã giảm khối lượng và chất lượng. Kết quả 
khảo sát 334 người bệnh loãng xương có tuổi từ 45 trở lên 
tại 4 quận, huyện của TPHCM cho thấy tuổi trung bình là 
67,4 và giới nữ chiếm 2/3 (67,7%). Phân tích kết quả chụp 
X quang cột sống nghiêng theo phương pháp bán định lượng 
cho thấy có 62/334 (18,6%) trường hợp gãy xương đốt sống 
và tỷ lệ nữ cao hơn nam giới (19,5% so với 16,7%) nhưng 
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (bảng 1). Nếu 
so sánh với số người dân nghiên cứu đã biết bị gãy xương 
đốt sống trước đây (10/62=16%) thì tỷ lệ người bệnh loãng 
xương không biết mình bị gãy rất cao, chiếm 84%. Tỷ lệ gãy 
xương tăng theo tuổi từ 65 trở lên và nhóm tuổi trên 74 có 
tỷ lệ 31,3%, như vậy ở nhóm tuổi này 10 người thì có hơn 3 
người bị gãy xương đốt sống. Tại bảng 2, BMD càng thấp thì 
tỷ lệ gãy xương đốt sống càng cao, trung bình BMD ở người 
có gãy xương chỉ có 0,296g/cm2 trong khi đó ở người không 
gãy xương là 0,33g/cm2. Kết quả phân tích Spearman cho 
thấy có mối tương quan giữa BMD và tỷ lệ gãy xương có ý 
nghĩa thống kê. 
Theo kết quả nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan tại 
TPHCM năm 2011 thì tỷ lệ gãy xương đốt sống ở người trên 
50 tuổi nữ giới là 26,5% và nam giới là 23% [4]. Như vậy kết 
quả của chúng tôi thấp hơn khoảng 6,3-7%. Điều này có thể 
do chúng tôi sử dụng phương pháp bán định lượng và nhằm 
tránh tỷ lệ dương tính giả cao dẫn đến ước lượng quá mức 
tần suất gãy xương đốt sống so với thực tế (khi so sánh với 
phương pháp định lượng) nên chuyên gia phân tích kết quả 
đã rất cẩn trọng trong chẩn đoán và như vậy có khả năng một 
số trường hợp bỏ sót gãy độ 1. Tại các nước phương Tây, 
tỷ lệ lưu hành gãy xương đốt sống ở người da trắng trên 50 
tuổi là 20-25% [2] và tỷ lệ này cũng cao hơn khảo sát của 
chúng tôi. Lý giải vấn đề này có thể do số trường hợp té ngã 
ở phương Tây cao hơn chúng ta. Mỗi năm có khoảng 40% 
số người phương Tây trên 65 tuổi té ngã ít nhất một lần [3] 
so với khảo sát của chúng tôi thì số người té ngã dưới 10%. 
Tại biểu đồ 2, cho thấy vị trí gãy ở đốt sống thắt lưng có 
tỷ lệ cao nhất, nếu gãy riêng là 53,2% nhưng nếu gộp chung 
thì có tới 69,3%; đốt sống ngực chiếm 30,7%, cả hai vị trí 
Nhóm 
tuổi
Gãy cột sống Không gãy cột sống Tổng cộng
p
Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
Giới tính
Nam 18 16,7 90 83,3 108 32,3
>0,05Nữ 44 19,5 182 80,5 226 67,7
Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100
Nghề 
nghiệp
CBCC-VC 8 13,3 52 86,7 60 17,9
<0,05
Công nhân 17 23,3 56 76,7 73 21,8
Kinh doanh 7 10,5 60 89,5 67 20,1
Nông dân 14 21,9 50 78,1 64 19,2
Nội trợ 14 30,4 32 69,6 46 13,8
khác 2 8,3 22 91,7 24 7,2
Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100
Thể dục 
-thể thao
Có 22 12,9 149 87,1 171 51,2
<0,05không 40 24,5 123 75,5 163 48,8
Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100
Giảm 
chiều cao
Có 38 38,8 60 61,2 98 29,3
<0,05không 24 10,2 212 89,8 236 70,7
Tổng cộng 62 18,6 272 81,4 334 100
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn14
có tỷ lệ 16,1%. Điều này phù hợp với thói quen sinh hoạt và 
lao động của người dân đa số chịu lực tác động ở thắt lưng 
và những tổn thương do sai tư thế. Số đốt xương sống gãy là 
một chiếm hơn 2/3 trường hợp (67,7%), hai đốt chiếm hơn 
1/5 số gãy (21%) và số trường hợp gãy độ 1 chiếm hơn phân 
nửa, độ 3 hơn ¼ số trường hợp. Một nghiên cứu tương tự về 
tỷ lệ lưu hành gãy xương đốt sống liên quan đến loãng xương 
ở phụ nữ mãn kinh tại Saudi Arabia. Kết quả cho thấy có 785 
người chụp X quang cột sống thì có 159 (20,3%) người bệnh, 
nhóm tuổi 61-70 chiếm 35,4% số trường hợp, gãy nhiều đốt 
chủ yếu ở tuổi từ 71 trở lên và chỉ có 13,2% người bệnh được 
điều trị thuốc chống loãng xương [5]. Kết quả này gần tương 
đương nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bệnh (19,5% so với 
20,3%) nhưng theo nhóm tuổi >74 thì tỷ lệ bệnh của nghiên 
cứu chúng tôi thấp hơn. 
Phân tích về yếu tố nghề nghiệp cho thấy nhóm nghề nội 
trợ có tỷ lệ gãy xương đốt sống cao nhất (30,4%) kế đến 
là công nhân 23,3% và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 10,5%. 
Nghề nghiệp có liên quan đến gãy xương đốt sống có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05). Điều này có thể do người nội trợ là người 
làm việc chính trong gia đình và có thể nguy cơ té ngã cao 
hơn các hoạt động khác. Phân tích thói quen tập thể dục thể 
thao của người dân nghiên cứu cho thấy người có tập tỷ lệ 
gãy xương chỉ 12,9% so với người không tập là 24,5% và tập 
thể dục thể thao có liên quan đến tỷ lệ gãy xương đốt sống 
có ý nghĩa thống kê. Vận động thể lực là biện pháp làm gia 
tăng sức mạnh của cơ bắp và của hệ xương khớp. Tại Boston 
ở Mỹ, các nhà khoa học đã nghiên cứu sự tác động của luyện 
tập Thái cực quyền trên nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn 
kinh có giảm mật độ xương. Nhóm phụ nữ can thiệp được 
đào tạo và thực hành Thái cực quyền trong 9 tháng và còn 
lại là nhóm chứng không có tập. Kết quả cho thấy có sự khác 
biệt mật độ xương ở cổ xương đùi giữa nhóm tập luyện và 
nhóm chứng (+0,04 g/cm² so với -0,98% BMD, p=0,05) [6]. 
Về phân tích giảm chiều cao, trong nghiên cứu này chúng tôi 
so sánh chiều cao hiện tại với chiều cao ở lứa tuổi thanh niên 
(25-30 tuổi) nếu có giảm hơn 4cm thì được xem như giảm 
chiều cao. Kết quả cho thấy người có giảm chiều cao tỷ lệ 
gãy xương đến 38,8% trong khi không giảm chỉ có 10,5% và 
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Theo các chuyên gia 
y tế tại châu Âu, những dấu hiệu nên nghĩ đến gãy xương 
đốt sống là giảm chiều cao trên 3cm, đau lưng nặng đột ngột 
hoặc đau mãn tính, gia tăng sự biếng dạng cột sống (còng, 
gù lưng) [2].
V. KẾT LUẬN VÀ KIÊN NGHỊ
Thực trạng gãy xương đốt sống đang lưu hành phổ biến 
ở cộng đồng nhất là người cao tuổi. Tuy nhiên, việc tầm soát 
bệnh loãng xương và gãy xương đốt sống hiện nay vẫn còn 
hạn chế. Bằng chứng cho thấy có hơn 80% người dân 
nghiên cứu không biết mình mắc bệnh và việc điều trị nội 
khoa với chứng đau lưng mãn tính, biếng dạng cột sống, kém 
vận động... đã tiêu tốn tài chính cho gia đình và xã hội. Do 
vậy, cần thiết phải tầm soát gãy xương đốt sống ở người có 
mật độ xương thấp và hoặc có các triệu chứng chỉ điểm như 
giảm chiều cao, còng gù lưng, đau lưng kéo dài... để phát 
hiện và điều trị phù hợp nhằm cải thiện chất lượng sống cho 
người cao tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Trung Hòa (2015), “Đánh giá hiệu quả một số can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 
tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sỹ Y khoa, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
2. International Osteoporosis Foundation (2010), The Breaking Spin, Report of IOF.
3. International Osteoporosis Foundation (2012), Facts and Statistics, Annual Report 2011 of International Osteoporosis 
Foundation.
4. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán gãy xương đốt sống: Phát triển giá trị tham chiếu cho người Việt – Quy 
mô gãy xương đốt sống ở người Việt”, Thời sự Y học-Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 8(63), 
tr. 3-16.
5. M. Sadat-Ali et al. (2009), “Osteoporosis-related vertebral fractures in postmenopausal women: Prevalence in a Saudi 
Arabian sample”, La Revue de Santé de la Méditerranée orientale, Vol. 15(6), pp. 1420-1425.
6. Peter M Wayne et al. (2012), “Impact of Tai Chi exercise on multiple fracture-related risk factors in post-menopausal 
osteopenic women: a pilot pragmatic, randomized trial”, BMC Complement Alternal Medicine, Vol. 12(7), pp. 1-12.
7. Lê Anh Thư (2009), Những tiến bộ chính trong lĩnh vực loãng xương và thách thức trong chọn lựa-quản lý điều trị 
loãng xương, Báo cáo khoa học cập nhật mới trong chẩn đoán, điều trị loãng xương và bệnh xương khớp, TPHCM, tr. 1-7

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_gay_xuong_dot_song_o_nguoi_benh_loang_xuong_tai_4.pdf