Thực trạng công tác tổ chức kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước thời gian qua

trong thời gian qua, kiểm toán chuyên đề đang là phương thức kiểm toán được Kiểm toán nhà nước chú trọng phát triển bởi những hiệu quả mà nó mang lại. Qua quá trình kiểm toán, đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận cũng như những mặt hạn chế cần khắc phục. Bài viết trình bày một số kết quả chủ yếu cũng như hạn chế của công tác kiểm toán chuyên đề

thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán chuyên đề thời gian tới.

pdf 7 trang phuongnguyen 5340
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng công tác tổ chức kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước thời gian qua", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng công tác tổ chức kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước thời gian qua

Thực trạng công tác tổ chức kiểm toán Chuyên đề của kiểm toán nhà nước thời gian qua
12
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
THÖÏC TRAÏNG COÂNG TAÙC TOÅ CHÖÙC KIEÅM TOAÙN 
CHUYEÂN ÑEÀ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC 
THÔØI GIAN QUA
TRƯƠNG HẢI YẾN*
*KTNN chuyên ngành Ia
Quá trình tổ chức thực hiện kiểm toán chuyên 
đề thời gian qua của KTNN đã đạt được một số kết 
quả chủ yếu như sau:
(1) Về tổ chức lựa chọn chuyên đề để kiểm toán: 
Kiểm toán chuyên đề do KTNN thực hiện đã lựa 
chọn được một số nội dung, hoạt động, chương 
trình phù hợp với yêu cầu quản lý, tình hình kinh tế 
xã hội trong từng thời kỳ, phù hợp với đặc thù của 
từng địa phương, bộ, ngành được lựa chọn kiểm 
toán, liên quan đến những vấn đề dư luận xã hội 
quan tâm, theo yêu cầu giám sát của chính quyền 
địa phương và của Quốc hội. Đây là một trong 
những yếu tố quan trọng đem lại thành công của 
một số cuộc kiểm toán. Các chuyên đề đã tổ chức 
kiểm toán thành công điển hình đó là: Công tác 
phát hành, quản lý và sử dụng vốn TPCP; công tác 
quản lý nợ công; Việc quản lý, sử dụng đất dự án 
khu đô thị tại các địa phương; công tác quản lý và 
sử dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng 
và quỹ lương; Công tác đầu tư, mua sắm, quản lý, 
sử dụng thuốc, vật tư y tế, trang thiết bị y tế tại một 
số địa phương, bộ, ngành; công tác quản lý nhà 
nước về tài nguyên, khoáng sản; Việc thực hiện Đề 
án Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là 
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; Chương 
trình MTQG về xây dựng nông thôn mới...
(2) Quá trình tổ chức thực hiện kiểm toán 
chuyên đề đã xây dựng được đề cương đối với một 
số chuyên đề có phạm vi rộng, sử dụng nguồn lực 
toàn Ngành để thực hiện như đề cương chuyên đề: 
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền 
vững đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 
30a/2008/NQ-CP và Chính sách hỗ trợ hộ nghèo 
về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg; Công 
tác phát hành, quản lý và sử dụng vốn TPCP; Công 
tác quản lý nợ công; Việc quản lý, sử dụng đất dự án 
khu đô thị tại các địa phương; Công tác quản lý và 
sử dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng 
và quỹ lương; Công tác đầu tư, mua sắm, quản lý, 
sử dụng thuốc, vật tư y tế, trang thiết bị y tế tại một 
số địa phương, bộ, ngành; Công tác quản lý nhà 
nước về tài nguyên, khoáng sản; Việc thực hiện Đề 
án Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là 
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; Chương 
trình MTQG về xây dựng nông thôn mới... Việc tổ 
chức thực hiện kiểm toán trên cơ sở đề cương ban 
hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Đoàn kiểm 
toán, là yếu tố quan trọng mang lại thành công cho 
cuộc kiểm toán.
Trong thời gian qua, kiểm toán chuyên đề đang là phương thức kiểm toán được Kiểm toán nhà nước chú trọng phát triển bởi những hiệu quả mà nó mang lại. Qua quá trình kiểm toán, đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận cũng như những mặt hạn chế cần khắc phục. Bài viết trình bày một số kết quả chủ yếu cũng như hạn chế của công tác kiểm toán chuyên đề 
thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán chuyên đề thời gian tới.
Từ khóa: kiểm toán chuyên đề
Current status of conducting thematic audits of SAV
In recent years, thematic auditing is a vital method of auditing developed by SAV by the effects it brings. 
Through the process of auditing, there are many remarkable results as well as limitations to overcome. The 
article presents some key findings as well as the limitations of the audit work over the past time and proposes 
some solutions to improve the audit quality in the coming time.
Keywords: Thematic audit
13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
(3) Việc xây dựng KHKT đã được các đơn vị 
triển khai cơ bản bám sát đề cương các chuyên 
đề đã được Tổng KTNN ban hành và ý kiến chỉ 
đạo của Lãnh đạo KTNN đối với mỗi chuyên đề: 
Hầu hết các KHKT đã thu thập được thông tin 
về chuyên đề thực hiện kiểm toán (độc lập hoặc 
chuyên đề lồng ghép) cũng như các thông tin theo 
yêu cầu của mẫu biểu KHKT theo Đề cương đã 
được phê duyệt; đánh giá được hệ thống kiểm soát 
nội bộ và tình hình thanh tra, kiểm tra tại các đơn 
vị được kiểm toán; xác định trọng tâm và rủi ro 
kiểm toán phù hợp với thông tin đã thu thập, từ đó 
xác định phạm vi, giới hạn và bố trí nhân sự, thời 
gian thực hiện KHKT.
(4) Qua kiểm toán chuyên đề, KTNN đã phát 
hiện, kiến nghị xử lý tài chính với tổng số tiền 
hàng chục ngàn tỷ đồng; kiến nghị hủy bỏ, sửa 
đổi, bổ sung, thay thế nhiều văn bản sai quy định 
hoặc không phù hợp thực tế; chỉ ra những yếu 
kém, hạn chế của hệ thống quản lý, hướng khắc 
phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng 
tài chính công, tài sản công, trong đó một số kết 
quả điển hình như:
- Qua kiểm toán đã phát hiện nhiều trường hợp 
giao dự toán chi đối với một số lĩnh vực không hợp 
lý với nhu cầu thực tiễn của từng địa phương gây 
lãng phí, giảm hiệu quả sử dụng ngân sách; chậm 
đưa các chính sách xã hội của Nhà nước vào cuộc 
sống làm giảm mục tiêu, ý nghĩa, hiệu lực, hiệu quả 
của chính sách, giảm lợi ích đem lại cho người dân, 
làm giảm niềm tin của nhân dân vào Nhà nước. 
Kết quả kiểm toán chuyên đề về các chương trình, 
dự án cũng cho thấy: (i) Có quá nhiều chương 
trình trùng mục tiêu cùng thực hiện trên cùng một 
địa bàn; cơ chế lồng ghép các nguồn vốn của các 
chương trình MTQG còn nhiều bất cập, các địa 
phương chưa chủ động bố trí vốn thực hiện lồng 
ghép dẫn tới đầu tư dàn trải, phân tán, khó quản 
lý điều hành tập trung thống nhất; (ii) Hệ thống 
văn bản, chính sách hướng dẫn thiếu đồng bộ, nội 
dung, tiêu chí lạc hậu, chưa bám sát thực tế; (iii) 
Công tác chỉ đạo điều hành, phối hợp thực hiện đối 
với một số chương trình còn hạn chế; (iv) Công tác 
kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện nghiêm túc, 
hiệu quả; kết quả thực hiện các mục tiêu của một 
số chương trình còn thấp... Trên cơ sở kết quả kiểm 
toán, KTNN đã có kiến nghị đối với Thủ tướng 
Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan khắc phục 
hạn chế, bất cập nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng 
nguồn vốn của các chương trình MTQG.
- Kiểm toán Chuyên đề Việc quản lý, sử dụng 
đất dự án khu đô thị tại các địa phương, KTNN 
đã có kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ để giải 
quyết các vướng mắc, bất cập trong lĩnh vực đất 
14
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
đai; thuế GTGT chuyển nhượng bất động sản; quy 
hoạch đất ở không hình thành đơn vị ở. Đồng thời, 
kiến nghị các bộ, ngành nghiên cứu để hướng dẫn 
áp dụng một phương pháp xác định giá đất tối ưu 
nhất nhằm tránh mỗi địa phương, đơn vị áp dụng 
tùy tiện các phương pháp khác nhau gây thất thu 
ngân sách, khó khăn trong công tác quản lý; sửa 
đổi và bổ sung một số quy định tại Thông tư số 
36/2014/TT-BTNMT, Thông tư 76/2014/TT-BTC, 
Thông tư số 219/2013/TT BTC; bãi bỏ Văn bản 
số 2409/BXD-KTXD ngày 27/10/2016 gửi UBND 
Thành phố Hà Nội... nhằm đảm bảo quy định của 
Nhà nước ngày một hướng dẫn đầy đủ hơn các hoạt 
động phát sinh trong thực tiễn quản lý, sử dụng đất 
tại các địa phương, tránh thất thu NSNN; kiến nghị 
các địa phương chấn chỉnh, khắc phục sai sót, hạn 
chế phát hiện qua kiểm toán trong việc quản lý, sử 
dụng đất dự án đô thị nhằm nâng cao hiệu quả sử 
dụng tài chính công, tài sản công...
- Qua kiểm toán công tác quản lý và sử dụng 
công chức, viên chức, lao động hợp đồng tại các 
bộ, ngành, địa phương cho thấy còn nhiều sai sót, 
hạn chế; việc thực hiện tinh giản biên chế đối với 
cơ quan, đơn vị theo quy định hiện nay còn bất 
cập..., KTNN đã kiến nghị Chính phủ sửa đổi bất 
cập của Kế hoạch thực hiện tinh giản biên chế 
đối với cơ quan, đơn vị ban hành kèm theo Quyết 
định số 2218/QĐ-TTg ngày 10/12/2015, Nghị 
định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014, Nghị 
định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000; kiến 
nghị các bộ, ngành sửa đổi Thông tư liên tịch số 
08/2007/TTLT-BYT-BNV của Bộ Y tế và Bộ Nội 
vụ... nhằm giải quyết những vấn đề bất cập, vướng 
mắc trong quản lý, sử dụng biên chế tại các địa 
phương, bộ, ngành.
Qua kết quả kiểm toán chuyên đề, KTNN cũng 
đã kiến nghị kiểm điểm, xử lý trách nhiệm tập thể, 
cá nhân có sai phạm trong quản lý, sử dụng tài 
chính công, tài sản công góp phần phòng, chống 
tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. 
Thông qua kết quả kiểm toán, KTNN đã cung cấp 
cho Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp, chính 
quyền địa phương các cấp, cũng như từng đơn vị 
được kiểm toán những thông tin hữu ích, kịp thời, 
có độ tin cậy và tính thuyết phục cao để sử dụng 
trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ 
của mình, là nguồn thông tin quan trọng giúp cho 
Quốc hội, HĐND các cấp sử dụng trong hoạt động 
giám sát và ra quyết định.
Ngoài những kết quả đã đạt được như trên, 
kiểm toán chuyên đề của KTNN trong những năm 
qua còn một số hạn chế chủ yếu như sau:
(1) Về lựa chọn chuyên đề kiểm toán
(i) Bên cạnh một số chuyên đề lựa chọn đúng, 
thành công thì vẫn còn tình trạng một số nội dung, 
hoạt động, chương trình được lựa chọn làm chuyên 
đề kiểm toán chưa phải là các lĩnh vực, chương 
trình, dự án, các vấn đề được các cơ quan dân cử 
giám sát và xã hội quan tâm. Nhiều chuyên đề được 
lựa chọn kiểm toán có kết quả kiểm toán còn nghèo 
nàn; một số cuộc kiểm toán chuyên đề lựa chọn 
chưa phải là các vấn đề thiết thực, nổi cộm được 
các cấp quản lý và dư luận quan tâm nên chưa đi 
sâu, giải đáp các vấn đề bức xúc trong dư luận xã 
hội, những hiện tượng tiêu cực xẩy ra trong quản 
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; (ii) 
Một số chuyên đề, vấn đề lựa chọn kiểm toán còn 
ở diện hẹp, chỉ ảnh hưởng trong một địa phương, 
bộ ngành được kiểm toán mà chưa liên quan, ảnh 
hưởng đến nhiều đơn vị, bộ, ngành, địa phương 
trên toàn quốc nên tầm ảnh hưởng chưa rộng, chưa 
tác động nhiều đến kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do 
hầu hết các đơn vị trong ngành còn bị động trong 
việc lựa chọn nội dung, hoạt động, chương trình 
để thực hiện kiểm toán chuyên đề trong kế hoạch 
kiểm toán hàng năm của đơn vị mình. Nhiều 
trường hợp các đơn vị lựa chỉ chọn khi có ý kiến 
chỉ đạo của Lãnh đạo KTNN. Do việc lựa chọn còn 
bị động, trong thời gian ngắn dẫn đến thiếu thông 
tin về các vấn đề, chuyên đề kiểm toán nên gây khó 
khăn cho việc xây dựng đề cương, KHKT cũng như 
việc xác định phạm vi, tên chuyên đề được kiểm 
toán; nhiều chuyên đề đã xác định trong KHKT 
năm nhưng khi triển khai xây dựng KHKT phải 
điều chỉnh phạm vi, tên của chuyên đề kiểm toán.
(2) Về xây dựng đề cương kiểm toán chuyên đề
Qua thực tiễn xây dựng và triển khai áp dụng 
một số đề cương kiểm toán chuyên đề cho thấy còn 
một số hạn chế như: (i) Đề cương xây dựng còn 
dàn trải, ôm đồm nhiều trọng tâm, nội dung kiểm 
toán không cần thiết, không phù hợp với thực tế 
tổ chức về nhân sự, thời gian của các Đoàn kiểm 
15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
toán hiện nay. Do vậy, thực tế các Đoàn kiểm toán 
không thực hiện được đầy đủ các nội dung kiểm 
toán đã xây dựng trong đề cương. (ii) Một số trọng 
tâm, nội dung, phạm vi xác định trong một số đề 
cương không phù với thông tin thu thập, không 
phù hợp với các quy định pháp luật, phân cấp quản 
lý của vấn đề, nội dung, hoạt động, chương trình 
được lựa chọn kiểm toán chuyên đề nên quá trình 
thực hiện còn vướng mắc, phải điều chỉnh. (iii) 
Mặc dù, khối lượng công việc thực hiện khá nhiều 
nhưng một số đề cương không hướng dẫn cụ thể 
phạm vi kiểm toán, cách thức tổ chức thực hiện, 
đối với một số trọng tâm, nội dung kiểm toán khó 
dẫn đến quá trình thực hiện các đơn vị còn lúng 
túng và thực hiện chưa thống nhất. (iv) Ngoài ra, 
một số đề cương có hồ sơ mẫu biểu còn phức tạp, 
số lượng nhiều, chưa tập trung vào một số vấn đề 
cần thiết của cuộc kiểm toán, gây khó khăn cho 
công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán mà hiệu 
quả lại không cao.
Nguyên nhân chủ yếu do thời gian xây dựng đề 
cương ngắn, đơn vị chủ trì xây dựng đề cương cũng 
như các KTV được phân công trực tiếp xây dựng 
đề cương chưa có đủ thời gian để nghiên cứu đầy 
đủ quy định pháp luật, phân cấp quản lý, tình hình 
tổ chức thực hiện tại các địa phương, bộ, ngành, 
doanh nghiệp đối với vấn đề, nội dung, hoạt động, 
chương trình được lựa chọn kiểm toán chuyên đề. 
Ngoài ra, nhiều đơn vị trong Ngành chưa nêu cao 
tinh thần trách nhiệm trong việc tham gia ý kiến 
đối với đề cương kiểm toán các chuyên đề; thời 
gian để tham gia ý kiến không nhiều, do đó các 
đơn vị không có điều kiện nghiên cứu kỹ đề đề 
cương nên không có nhiều ý kiến tham gia hoàn 
thiện đề cương. Bên cạnh đó, chuyên đề được lựa 
chọn kiểm toán trong năm thường là vấn đề, nội 
dung, hoạt động chưa có trong thực tiễn kiểm toán 
của KTNN nên các đơn vị chưa có kinh nghiệm 
dẫn đến đề cương xây dựng, ban hành còn chưa 
sát, chưa phù hợp quy định pháp luật và thực tế 
triển khai thực hiện. 
(3) Lựa chọn cách thức tổ chức thực hiện kiểm 
toán chuyên đề
Với mỗi cách thức tổ chức thực hiện kiểm toán 
chuyên đề sẽ có những ưu điểm, hạn chế nhất định. 
Chẳng hạn, đối với một số cuộc kiểm toán chuyên 
đề thực hiện độc lập do nhiều đơn vị trong ngành 
cùng thực hiện thì ưu điểm là sẽ tạo được tính chủ 
động cho các đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán, nguồn 
lực thực hiện sẽ được tập trung nhiều hơn trong 
toàn ngành, thuận lợi trong quản lý KTV, quản lý 
kết quả kiểm toán... Nhưng sẽ có tình trạng kết quả 
kiểm toán mang tính đơn lẻ từ phát hiện của từng 
Đoàn kiểm toán mà không được chia sẻ để nhân 
rộng ở tất cả các đoàn dẫn đến mẫu chọn kiểm toán 
và ý kiến kiểm toán chưa đủ đại diện cho các vùng 
miền, khu vực; kết quả kiểm toán còn xử lý chưa 
thống nhất giữa các Đoàn, Tổ kiểm toán. Đối với 
cuộc kiểm toán chuyên đề độc lập do một đơn vị 
trong ngành chủ trì, các đơn vị khác cử nhân sự 
tham gia phối hợp thì ưu điểm là tạo tính thống 
nhất cao hơn, các phát hiện kiểm toán của các tổ 
kiểm toán được nhân rộng trong toàn đoàn, liên 
kết được các vấn đề trong một cuộc kiểm toán... 
Nhưng không thuận lợi trong trong quản lý KTV, 
quản lý kết quả kiểm toán, đơn vị chủ trì không 
chủ động trong bố trí số lượng, chất lượng nhân sự 
tham gia Đoàn kiểm toán.
Việc lựa chọn các chủ đề, vấn đề phù hợp về 
loại hình (nội dung lồng ghép hay chuyên đề lồng 
ghép), tính chất (đơn giản hay phức tạp), phạm 
vi (rộng hay hẹp liên quan đến một hay nhiều địa 
phương, bộ ngành) để thực hiện kiểm toán lồng 
ghép trong kiểm toán báo cáo quyết toán ngân 
sách địa phương, bộ ngành, BCTC doanh nghiệp 
cũng là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của 
cuộc kiểm toán. Thực tế trong thời gian qua, một 
số chuyên đề đã lựa chọn phương thức tổ chức 
thực hiện chưa đảm bảo tối ưu dẫn đến quá trình 
thực hiện còn nhiều vướng mắc, bất cập làm giảm 
hiệu quả của cuộc kiểm toán; một số vấn đề, chủ 
đề có phạm vi kiểm toán rộng, tính chất phức tạp 
nhưng tổ chức kiểm toán lồng ghép trong cuộc 
kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của các 
địa phương, bộ, ngành dẫn đến việc bố trí nhân 
lực (thời gian và nhân sự) không tương xứng với 
yêu cầu của chuyên đề kiểm toán nên kết quả kiểm 
toán đạt được chưa cao.
(4) Về xây dựng, tổ chức thực hiện KHKT của 
các Đoàn kiểm toán
- Nhiều KHKT chưa thu thập được đầy đủ các 
thông tin về chuyên đề kiểm toán phục vụ cho việc 
đánh giá, xác định trọng yếu, rủi ro kiểm toán; thu 
thập thông tin về phân cấp quản lý, tình hình thực 
16
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
hiện của các vấn đề, hoạt động, chương trình được 
lựa chọn kiểm toán chuyên đề chưa chính xác dẫn 
đến việc xác định trọng tâm, nội dung kiểm toán 
chưa phù hợp làm ảnh hưởng đến kết quả của cuộc 
kiểm toán.
- Một số KHKT xác định trọng tâm kiểm toán 
còn chung chung hoặc đưa toàn bộ trọng tâm theo 
đề cương đã ban hành mà chưa căn cứ từ thông tin 
và số liệu qua khảo sát để xác định trọng tâm dẫn 
đến xác định chưa đầy đủ trọng tâm hoặc xác định 
trọng tâm, trọng yếu kiểm toán không phù hợp với 
thông tin thu thập; chưa xác định trọng yếu, trọng 
tâm kiểm toán tại mỗi đơn vị được kiểm toán.
- Xác định thiếu nội dung kiểm toán tương ứng 
với các trọng tâm kiểm toán đã xác định; xác định 
nội dung kiểm toán chưa phù hợp với thông tin 
thu thập hoặc xác định nội dung kiểm toán nhưng 
không có thông tin liên quan; chưa xác định nội 
dung kiểm toán cụ thể cho mỗi đơn vị, đầu mối 
được kiểm toán. Một số nội dung kiểm toán xác 
định còn chung chung nên chưa giúp cho các Tổ 
kiểm toán, các KTV, nhất là KTV mới vào nghề 
định hướng, triển khai trong quá trình thực hiện 
kiểm toán.
- Việc lựa chọn đầu mối, đơn vị kiểm toán chủ 
yếu trên cơ sở nhân sự hiện có của Đoàn kiểm toán 
mà không trên cơ sở yêu cầu, mục tiêu, trọng yếu, 
nội dung của cuộc kiểm toán; lựa chọn đơn vị, đầu 
mối kiểm toán nhưng không có đủ thông tin làm 
cơ sở lựa chọn; tiêu chí lựa chọn các đơn vị được 
kiểm toán không rõ ràng, cụ thể.
- Phạm vi kiểm toán của một vài KHKT còn 
chồng chéo với các KTNN khu vực và chuyên 
ngành; xác định thiếu các đơn vị kiểm toán tổng 
hợp đối với các chuyên đề lồng ghép; phạm vi kiểm 
toán lồng ghép chưa phù hợp với nhân sự hiện có 
hoặc đặc thù của địa phương được kiểm toán, còn 
dàn trải theo đề cương chung; xác định phạm vi, 
đối tượng kiểm toán chưa phù hợp với thời gian, 
nhân sự dẫn đến quá trình thực hiện phải điều 
chỉnh, bổ sung.
- Việc bố trí thời gian, nhân sự của một số Đoàn 
kiểm toán chưa ưu tiên cho kiểm toán các chuyên 
đề, nội dung lồng ghép, nhất là việc kiểm toán tổng 
hợp các chuyên đề lồng ghép; bố trí nhân sự chưa 
căn cứ trên cơ sở trọng yếu, trọng tâm đã xác định, 
xác định trọng tâm kiểm toán nhưng không bố trí 
nhân sự, thời gian để thực hiện; nhiều Đoàn kiểm 
toán chưa tập trung cho việc kiểm toán tổng hợp 
nên kết quả kiểm toán chưa có nhiều phát hiện, 
đánh giá, nhận định mang tầm vĩ mô về cơ chế 
quản lý, điều hành đối với chuyên đề, vấn đề được 
kiểm toán. Bên cạnh đó, các phương pháp kiểm 
toán còn đơn giản, hiệu quả chưa cao...
17NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trong việc 
xây dựng, tổ chức thực hiện KHKT gồm: (i) Việc 
xây dựng KHKT của một số Đoàn kiểm toán còn 
mang tính hình thức, chưa thật sự coi KHKT là 
tiền đề quan trọng không thể thiếu của cuộc kiểm 
toán. Một vài Lãnh đạo Đoàn kiểm toán, lãnh đạo 
KTNN khu vực, chuyên ngành chưa quan tâm, coi 
trọng đúng mức đối với công tác xây dựng KHKT 
nên dẫn đến thiếu sự chỉ đạo, điều hành; còn thiếu 
kiên quyết trong chỉ đạo hoàn thiện, chỉnh sửa 
KHKT. (ii) Chưa dành thời gian thỏa đáng cho việc 
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT. (iii) Chất 
lượng đội ngũ cán bộ, KTV lập KHKT còn hạn chế, 
thiếu kỹ năng phân tích, tổng hợp đánh giá các 
thông tin thu thập; chưa tập trung nghiên cứu kỹ 
các thông tin thu thập được để phân tích, đánh giá 
xác định trọng yếu, trong tâm, nội dung, phạm vi 
kiểm toán làm cơ sở bố trí nhân sự, thời gian phù 
hợp, còn lệ thuộc nhiều vào đề cương kiểm toán, 
thiếu sáng tạo trong điều kiện thực tế của cuộc 
kiểm toán; chất lượng nhân sự thực hiện kiểm toán 
còn hạn chế, chưa được bồi dưỡng, đào tạo kỹ càng 
về chuyên đề sẽ thực hiện kiểm toán. (iv) Chưa có 
sự liên hệ chặt chẽ với các KTNN trong ngành khi 
lựa chọn các đầu mối kiểm toán để tránh chồng 
chéo; các đơn vị cùng thực hiện kiểm toán chuyên 
đề chưa phối hợp tốt trong cung cấp thông tin, chia 
sẻ kinh nghiệm, trao đổi kết quả kiểm toán liên 
quan đến chuyên đề chọn kiểm toán.
Việc tổ chức thực hiện kiểm toán chuyên đề 
còn một số bất cập, hạn chế như đã nêu trên dẫn 
đến một số cuộc kiểm toán chưa đi sâu đánh giá 
cơ chế quản lý, điều hành; tính kinh tế, hiệu quả 
và hiệu lực trong việc sử dụng nguồn lực của các 
đơn vị được kiểm toán đối với chuyên đề, nội dung 
kiểm toán, chưa giải đáp thích đáng được các vấn 
đề bức xúc về những hiện tượng tiêu cực xảy ra 
mà mới chỉ thiên về phát hiện các sai sót và xử lý 
tài chính tăng thu, giảm chi NSNN; một số chuyên 
đề tổ chức thành cuộc kiểm toán độc lập nhưng 
chỉ do một hoặc một số ít đơn vị trong ngành thực 
hiện nên mẫu chọn không đủ lớn, không đủ đại 
diện cho các vùng miền dẫn đến kết quả, kiến nghị 
kiểm toán trong phạm vi hẹp, chưa toàn diện, giá 
trị chưa cao. Bên cạnh đó, việc tổng hợp kết quả 
kiểm toán chuyên đề do nhiều đơn vị trong ngành 
cùng thực hiện cũng gặp nhiều khó khăn do còn có 
việc xử lý chưa thống nhất, kết quả kiểm toán vụn, 
không phong phú... dẫn đến BCKT chưa đáp ứng 
đầy đủ mong đợi của các cơ quan quản lý và của 
người dân.
Mở rộng đối tượng cụ thể của hoạt động KTNN 
sang kiểm toán chuyên đề là yêu cầu khách quan, tạo 
nên sự phát triển mới trong hoạt động của KTNN 
để phát huy ngày càng đầy đủ vai trò của KTNN 
đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối 
với việc đổi mới và nâng cao chất lượng quyết định, 
giám sát NSNN của các cơ quan dân cử nói riêng. 
KTNN chuyên ngành Ia đề xuất một số giải pháp 
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của kiểm toán 
chuyên đề trong thời gian tới như sau:
 Thứ nhất, Về lựa chọn vấn đề, nội dung, hoạt 
động, chương trình để kiểm toán chuyên đề: Việc 
lựa chọn vấn đề, chủ đề để tổ chức kiểm toán 
chuyên đề là công việc quan trọng nhất, có thể 
quyết định đến thành công hay thất bại của cuộc 
kiểm toán. Những vấn đề, chủ đề cần được quan 
tâm lựa chọn để tiến hành trong kiểm toán việc 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công gồm: 
(i) Những vấn đề quan trọng được Quốc hội, 
Chính phủ, người dân quan tâm và cần gắn chặt 
với tình hình chung về phát triển kinh tế - xã hội 
của đất nước; (ii) Những vấn đề, lĩnh vực nổi cộm, 
có nhiều ý kiến, cần giải đáp từ công luận; (iii) 
Những vấn đề được lựa chọn theo khả năng thực 
hiện, từ nhỏ đến lớn, từ nông tới sâu và từ đơn 
giản tới phức tạp. 
Để lựa chọn được các vấn đề, chủ đề thiết thực, 
trước hết cần chuyển từ thế bị động sang thế chủ 
động trong xây dựng KHKT hàng năm của KTNN. 
Theo đó, cần dành thời gian, nhân lực thỏa đáng 
và có lộ trình hợp lý để tổ chức thu thập, nắm bắt 
thông tin thông qua thông tin đại chúng, thông 
tin trong nội ngành, nghiên cứu, định hướng, xác 
định các vấn đề, chủ đề đáp ứng các yêu cầu nêu 
trên trong quản lý, điều hành vĩ mô của nền kinh tế 
cũng như hoạt động quản lý của các đơn vị là đối 
tượng kiểm toán để xây dựng trước KHKT hàng 
năm cho riêng loại hình kiểm toán chuyên đề; từ 
đó bố trí thời gian hợp lý cho việc xây dựng đề 
cương kiểm toán cũng như thu thập thông tin xây 
dựng KHKT, đào tạo KTV thực hiện kiểm toán các 
chuyên đề này.
18
PHAÙT TRIEÅN PHÖÔNG THÖÙC kIEÅm ToAÙN CHuyEâN ñEà CuûA kIEÅm ToAÙN NHAø NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 133 - tháng 11/2018
Thứ hai, Nâng cao chất lượng xây dựng đề 
cương kiểm toán chuyên đề:
- Bố trí nhân sự, thời gian phù hợp cho công tác 
xây dựng đề cương kiểm toán chuyên đề; tổ chức 
thu thập thông tin về phân cấp quản lý, tình hình 
tổ chức thực hiện tại các địa phương, bộ, ngành, 
doanh nghiệp đối với vấn đề, nội dung, hoạt động, 
chương trình được lựa chọn kiểm toán chuyên đề; 
nghiên cứu, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quy 
định pháp luật có liên quan đến chủ đề, vấn đề sẽ 
thực hiện kiểm toán chuyên đề cho KTV trực tiếp 
tham gia xây dựng đề cương.
- Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các đơn vị 
trong việc xây dựng và tham gia ý kiến hoàn thiện 
đề cương; bố trí thời gian hợp lý để các đơn vị có 
điều kiện nghiên cứu kỹ, tổ chức trao đổi, thảo luận 
cho ý kiến về việc hoàn thiện đề cương kiểm toán. 
Việc xây dựng đề cương cần gắn với thực tiễn hoạt 
động kiểm toán, hạn chế để xảy ra những bất cập, 
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện kiểm; 
xác định trọng tâm, nội dung kiểm toán phù hợp 
với nhân sự, thời gian hiện có của các đơn vị sẽ 
thực hiện kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu, 
yêu cầu của cuộc kiểm toán, tránh dàn trải, hạn chế 
các vấn đề không thiết thực hoặc ít liên quan đến 
chủ đề, vấn đề chọn kiểm toán; rà soát để đơn giản 
nhất có thể hồ sơ, mẫu biểu của KHKT và BCKT 
nhằm hướng đến đề cương có tính khả thi cao 
nhất, hiệu quả kiểm toán cao nhất.
Thứ ba, Cần lựa chọn cách thức tổ chức kiểm 
toán chuyên đề phù hợp: Đây cũng là một trong 
những yếu tố tạo nên thành công của các cuộc 
kiểm toán chuyên đề. Để xác định các vấn đề, chủ 
đề để kiểm toán chuyên đề theo hình thức lồng 
ghép trong các cuộc kiểm toán quyết toán ngân 
sách địa phương, bộ, ngành, kiểm toán BCTC của 
doanh nghiệp hay thành lập một cuộc kiểm toán 
chuyên đề độc lập; thực hiện cuộc kiểm toán theo 
hình thức giao cho một đơn vị chủ trì, các đơn vị 
khác trong Ngành cử nhân sự tham gia phối hợp 
hay các KTNN chuyên ngành, khu vực cùng tổ 
chức thực hiện kiểm toán chuyên đề đó trên địa 
bàn quản lý của mình để đạt kết quả tốt nhất thì 
trước hết cần phải nghiên cứu kỹ các thông tin liên 
quan đến chuyên đề, phạm vi, tính chất, yêu cầu 
của cuộc kiểm toán cũng như nguồn nhân lực hiện 
có, các tình huống có thể xảy ra trong thực tiễn 
triển khai kiểm toán để phân tích, đánh giá những 
ưu điểm, hạn chế của các phương thức này, từ đó 
lựa chọn phương án kiểm toán tối ưu nhất, có hiệu 
quả cao nhất. 
Thứ tư, Nâng cao chất lượng công tác xây dựng 
KHKT của các Đoàn kiểm toán với các biện pháp 
chủ yếu đó là:
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, 
các đơn vị trong xây dựng KHKT của Đoàn kiểm 
toán; dành thời gian thỏa đáng cho công tác xây 
dựng KHKT, trong đó tăng thời gian cho công tác 
khảo sát, thu thập thông tin; dành thời gian hợp 
lý cho phân tích, đánh giá xác định trọng yếu, rủi 
ro kiểm toán; xác định mục tiêu, nội dung, phạm 
vi kiểm toán; tập trung nhiều hơn cho việc kiểm 
toán tổng hợp.
- Bố trí, chọn lọc những KTV có đủ năng 
lực để tạo lập một đội ngũ KTV chuyên nghiệp 
trong công tác xây dựng KHKT tại các KTNN 
khu vực, KTNN chuyên ngành thực hiện kiểm 
toán chuyên đề.
- Tăng cường phối hợp trong công tác xây dựng 
kế hoạch kiểm toán giữa các đơn vị trong ngành, 
nâng cao chất lượng công tác thẩm định, xét duyệt 
KHKT nhằm tránh sự trùng lắp trong việc lựa chọn 
đầu mối kiểm toán.
Thứ năm, Có cách thức, nội dung đào tạo đội 
ngũ KTV chuyên sâu, am hiểu các lĩnh vực kinh tế 
xã hội và am hiểu quản lý kinh tế, tài chính vĩ mô, 
từ đó có thể tiếp cận chính sách một cách am tường 
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán 
nhằm thực hiện tốt định hướng vừa đa dạng vừa 
chuyên sâu trong hoạt động kiểm toán chuyên đề.
Thứ sáu, Nghiên cứu để vận dụng hiệu quả 
công tác phân tích rủi ro, xác định trọng yếu kiểm 
toán trong hoạt động xây dựng KHKT nói chung 
và kiểm toán chuyên đề nói riêng. Vận dụng các 
phương pháp kiểm toán đa dạng, phù hợp với thực 
tế kiểm toán của các cuộc kiểm toán nhằm nâng 
cao hiệu quả hoạt động kiểm toán.
Thứ bảy, Thiết lập hệ thống thông tin điện tử với 
đầy đủ dữ liệu cần thiết về các đơn vị được kiểm 
toán, phục vụ cho việc xây dựng KHKT chuyên đề 
hàng năm và KHKT của Đoàn kiểm toán; thường 
xuyên thu thập và cập nhật, bổ sung.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_cong_tac_to_chuc_kiem_toan_chuyen_de_cua_kiem_toa.pdf