Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)

Bệnh viện 211 là bệnh viện quân đội trên địa bàn tỉnh Gia Lai, khu vực Tây Nguyên, do vị trí chiến lược và tầm quan trọng nên việc nâng cấp là hết sức cần thiết. Để có cơ sở khoa học phát triển bệnh viện, nghiên cứu cơ cấu bệnh tật của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 là hết sức cần thiết. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả cơ cấu bệnh của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 211 trong 5 năm (2011-2015). Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang. Toàn bộ bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện từ 1/1/2011 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên cứu. Các mặt bệnh được phân loại theo Báo cáo thống kê loại bệnh của Cục Quân y. Kết quả nghiên cứu cho thấy, loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ ưu thế trong 10 loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội trú qua giai đoạn thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98%, đây là đặc điểm riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu hoá là đặc trưng của mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển còn chiếm tỷ khá cao 11,79%. Có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%)

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)

Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn38
THỰC TRẠNG CƠ CẤU BỆNH TẬT NGƯỜI BỆNH 
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN 211 TRONG 
5 NĂM (2011 – 2015)
Nguyễn Minh Phương1, Phạm Tiến Dũng1
TÓM TẮT
Bệnh viện 211 là bệnh viện quân đội trên địa bàn tỉnh 
Gia Lai, khu vực Tây Nguyên, do vị trí chiến lược và tầm 
quan trọng nên việc nâng cấp là hết sức cần thiết. Để có cơ 
sở khoa học phát triển bệnh viện, nghiên cứu cơ cấu bệnh tật 
của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 là hết sức 
cần thiết. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả cơ 
cấu bệnh của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân 
y 211 trong 5 năm (2011-2015). Thiết kế nghiên cứu theo 
phương pháp mô tả cắt ngang. Toàn bộ bệnh nhân điều trị tại 
Bệnh viện từ 1/1/2011 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên 
cứu. Các mặt bệnh được phân loại theo Báo cáo thống kê loại 
bệnh của Cục Quân y. Kết quả nghiên cứu cho thấy, loại bệnh 
chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ ưu thế trong 10 
loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội trú qua giai đoạn 
thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98%, đây là đặc điểm 
riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại 
Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu hoá là đặc trưng 
của mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển còn chiếm 
tỷ khá cao 11,79%. Có sự khác biệt giữa đối tượng người 
bệnh quân và đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh 
quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là 
loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người 
bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm 
tỷ lệ cao nhất (39,20%).
Từ khóa: Cơ cấu bệnh tật, bệnh nhân điều trị nội trú.
ABSTRACT: 
THE SITUATION OF THE STRUCTURE OF THE 
INPATIENT'S DISEASES AT HOSPITAL 211 IN 5 YEARS 
(2011-2015)
Hospital 211 is a military hospital in the province of Gia 
Lai, Central Highlands region. Due to its strategic location 
and importance so the upgrade is essential. In order to provide 
the scientific basis for upgrade of hospital 211, study on the 
disease patterns of inpatients in 211 hospitals is essential. The 
study was conducted with the aim of describing the structure of the 
inpatient's diseases at Military Hospital 211 in 5 years (2011-
2015). Described cross method was applied in this research. 
All of inpatient at the hospital from 1/1/2011 to 31/12/2015 
were included in this study. The diseases is classified according to 
the statistics report of the Military Medical Department. The 
results showed that the disease group of traumas, wounds 
and poisoning were dominant proportion among 10 common 
disease groups of inpatients over the period 2011-2015 that 
accounts for 33.98%, this is the structural characteristics of 
diseases among inpatients at the hospital 211. The disease 
group of the digestive tract still accounted for a high 11,79% 
that is characteristic of the disease model proof of the 
developing countries. There was a difference between 
military and civil inpatients. For the military inpatients, the 
most common disease for 5 years (2011-2015) is disease 
group of the digestive tract (19.18%) while for the 
civil inpatient, the diseases of trauma, wounds, poisoning 
accounted for the highest percentage (39.20%).
Keywords: Structure of diseases, inpatients.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có vị trí đặc biệt quan 
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam Xã hội Chủ nghĩa. Tây Nguyên gồm các tỉnh: Gia Lai, 
Kon Tum, Đăc Lắk và Lâm Đồng. Tây Nguyên là vùng cao 
nguyên rộng lớn, địa hình hiểm trở, nhiều dãy núi cao, nhiều 
dân tộc thiểu số, đường giao thông khó khăn, nhất là mạng 
lưới y tế còn kém phát triển [5]. Cùng với việc xây dựng 
thế trận quốc phòng-an ninh một cách vững chắc thì việc 
chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bộ đội và nhân dân ở địa bàn Tây 
Nguyên sẽ góp phần xã hội hoá công tác y tế, thực hiện công 
bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ con người và xây dựng 
thế trận lòng dân. 
Bệnh viện Quân y 211 là Bệnh viện đa khoa Quân đội 
trực thuộc Quân đoàn 3, nằm ở thành phố Gia Lai, tỉnh 
1. Học viện Quân y; Tác giả: Nguyễn Minh Phương; Email: [email protected]; ĐT: 0912.052.887
Ngày nhận bài: 03/10/2016 Ngày phản biện: 07/10/2016 Ngày duyệt đăng: 16/10/2016
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 35 - Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn 39
Gia Lai. Có nhiệm vụ tiếp nhận, điều trị cho người bệnh 
là cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên chức quốc phòng các 
đơn vị bộ đội đóng quân trên địa bàn, đồng thời bệnh viện 
cũng khám và điều trị cho nhân dân trong khu vực góp phần 
quan trọng vào công tác chăm sóc sức khỏe cho cán bộ và 
nhân dân trên địa bàn. Do vị trí chiến lược cũng như tầm 
quan trọng của bệnh viện trong năm 2016 Bộ Quốc phòng 
đã nâng cấp Bệnh viện 211 lên bệnh viện hạng I. Tuy nhiên, 
hiện nay Bệnh viện đang trong giai đoạn xây dựng, nâng 
cấp nên chưa mở rộng về số khoa lâm sàng, cũng như chưa 
kịp bổ sung thêm cán bộ nhân viên, nhất là cán bộ nhân 
viên y tế để phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Việc 
tìm hiểu cơ cấu bệnh tật là nhiệm vụ rất quan trọng, làm 
căn cứ để xây dựng kế hoạch phát triển chuyên môn của 
bệnh viện bao gồm công tác phát triển nhân lực, trang thiết 
bị y tế và cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Mô tả cơ cấu bệnh của bệnh 
nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 211 trong 5 năm 
(2011-2015)
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu: Lựa chọn tất cả bệnh nhân điều trị 
tại Bệnh viện đa khoa 211 từ 01/01/2011 đến 31/12/2015, có 
bệnh án lưu trữ tại bệnh viện. 
Bệnh tật được phân loại theo mẫu Báo cáo thống kê theo 
loại bệnh của Cục Quân y (BM-2005). 
Các thông tin liên quan đến bệnh nhân được hồi cứu từ 
bệnh án lưu ở phòng lưu trữ hồ sơ và hệ thống máy tính quản 
lý bệnh nhân. 
Kết quả được xử lý bằng phần mềm Epi info 6.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 5 năm (2011-2015), kết quả khám bệnh và điều trị 
của Bệnh viện Quân y 211, Quân đoàn 3, cụ thể như sau: tổng 
số khám bệnh tại khoa khám bệnh là: 230.475 lượt người/5 
năm, tổng số người bệnh nhận điều trị nội trú: 60.833 lượt 
người/5 năm (trong đó người bệnh quân là 11.576 chiếm tỷ 
lệ 19,02% và số người bệnh dân là 49.257 chiếm 80,98%). 
Bảng 3.1. Cơ cấu bệnh tật của toàn bộ người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)
Loại bệnh
Mã theo
Cục QY
Người bệnh quân Người bệnh dân Tổng cộng
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
Loại I: Bệnh nhiễm trùng và ký sinh 
trùng
101-606 1.188 10,26 3.212 6,52 4.400 7,23
Loại II: Bướu tân sinh 701-707 204 1,76 863 1,75 1.067 1,75
Loại III: Bệnh nội tiết, dinh dưỡng, 
chuyển hóa
801-1004 164 1,42 776 1,57 940 1,55
Loại IV: Bệnh máu, cơ quan tạo máu 1101-1105 14 0,12 129 0,26 143 0,24
Loại V: Tâm thần 1201-1205 410 3,54 721 1,46 1.131 1,86
Loại VI: Bệnh hệ thần kinh và các giác 
quan
1301-1414 1.346 11,62 4.823 9,79 6.169 10,14
Loại VII: Bệnh của hệ tuần hoàn 1501-1521 508 4,39 2.854 5,79 3.362 5,53
Loại VIII: Bệnh của bộ máy hô hấp 1601-1617 1.611 13,92 3.333 6,77 4.944 8,13
Loại IX: Bệnh của bộ máy tiêu hóa 1701-1720 2.220 19,18 4.950 10,05 7.170 11,79
Loại X: Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu 1801-1909 564 4,87 2.580 5,23 3.144 5,17
Loại XI: Bệnh xương khớp 2001-2010 1.157 10,00 2.880 5,85 4.037 6,64
Loại XII: Bệnh da và mô tế bào dưới da 2101-2107 495 4,27 799 1,26 1.294 2,13
Loại XIII: Chấn thương, vết thương, 
ngộ độc
2201-2404 1.363 11,77 19.307 39,20 20.670 33,98
Loại XIV: Các bệnh không xếp danh 2501-2504 332 2,87 2030 4,12 2.362 3,88
Tổng cộng 11.576 100 49.257 100 60.833 100
- Cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh 
viện 211 rất đa dạng, gặp ở tất cả 14 loại bệnh theo phân loại 
của Cục Quân y.
- Trong cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú: 
Đối tượng quân loại bệnh của bộ máy tiêu hóa chiếm tỷ lệ 
cao nhất (19,18%), đối tượng dân loại bệnh chấn thương, 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn40
vết thương ngộ độc chiếm ưu thế (39,20%), chung cả 2 đối 
tượng thì loại bệnh chấn thương, vết thương ngộ độc chiếm 
tỷ lệ cao nhất (33,98%). Cả 2 đối tượng thì loại bệnh máu và 
cơ quan tạo máu có tỷ lệ thấp nhất (0,24%).
Trong tổng số 11.576 người bệnh là quân điều trị nội trú, 
loại bệnh của bộ máy tiêu hóa chiếm tỷ lệ cao nhất (19,18%), 
tỷ lệ người bệnh quân mắc các bệnh tiêu hóa điều trị nội trú 
tương đối ổn định qua các năm, trong đó cao nhất vào năm 
2013 (23,12%) sau đó giảm nhẹ vào những năm tiếp theo. 
 Bệnh của bộ máy hô hấp (13,92%), giảm dần qua các 
năm, năm 2013 là 6,20% nhưng cao đột ngột vào năm 2014 
(25,04%), sau đó lại giảm đột ngột xuống (11,2%) vào năm 2015.
Bệnh thần kinh và các giác quan (11,62%) cao nhất vào 
năm 2012 (13,23%), thấp nhất vào năm 2014 (10,03%).
Biểu đồ 3.1. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh quân điều trị nội trú.
Biểu đồ 3.2. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh dân điều trị nội trú
0
5
10
15
20
25
30
2011 2012 2013 2014 2015
CT, VT, ngộ độc
Bệnh của bộ máy 
tiêu hóa
Bệnh hệ TK và các 
giác quan
Bệnh của bộ máy 
hô hấp
Bệnh nhiễm trùng 
và KST
Bệnh xương khớp 
Bệnh của hệ tuần 
hoàn
Bệnh hệ sinh dục 
và tiết niệu
Các bệnh không 
xếp danh
Bệnh da và mô tế 
bào dưới da
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
2011 2012 2013 2014 2015
CT, VT, ngộ độc
Bệnh của bộ máy 
tiêu hóa
Bệnh hệ TK và các 
giác quan
Bệnh của bộ máy 
hô hấp
Bệnh nhiễm trùng 
và KST
Bệnh xương khớp 
Bệnh của hệ tuần 
hoàn
Bệnh hệ sinh dục 
và tiết niệu
Các bệnh không 
xếp danh
Bệnh da và mô tế 
bào dưới da
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 35 - Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn 41
Trong cơ cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội 
trú thì bệnh có tỷ lệ cao nhất là loại bệnh chấn thương, vết 
thương, ngộ độc (39,20%), loại bệnh này cao nhất là năm 2011 
(45,14%) giảm dần qua các năm đến năm 2015 (34,93%). 
 Trong tổng số 60.833 người bệnh điều trị nội trú loại 
bệnh về chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao 
nhất (33,98%) trong đó loại bệnh này cao nhất vào năm 2011 
(37,34%), sau đó có xu hướng giảm dần đến năm 2015 là 
30,10%.
 Tiếp sau là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (11,79%) 
cũng có xu hướng giảm dần từ 13.06% vào năm 2011 còn 
lại 10,43% vào năm 2015, bệnh của hệ thần kinh và các giác 
quan (10,14%) có xu hướng tăng nhẹ năm 2011 là 9,57% đến 
năm 2015 là 10,78%.
Biểu đồ 3.3. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh điều trị nội trú.
Bảng 3.2. Mười bệnh có tỷ lệ cao nhất theo biểu mẫu của Cục Quân y trong 5 năm (2011-2015), (n=60.833)
0
5
10
15
20
25
30
35
40
2011 2012 2013 2014 2015
Chấn thương, vết 
thương, ngộ độc
Bệnh của bộ máy 
tiêu hóa
Bệnh hệ TK và các 
giác quan
Bệnh của bộ máy hô 
hấp
Bệnh nhiễm trùng 
và KST
Bệnh xương khớp 
Bệnh của hệ tuần 
hoàn
Bệnh hệ sinh dục và 
tiết niệu
Các bệnh không xếp 
danh
Bệnh da và mô tế 
bào dưới da
TT Bệnh Mã theo
Cục QY
Người bệnh quân Người bệnh dân Tổng cộng
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
1 Chấn động não 2208 79 0.68 2.270 4.60 2.349 3,86
2 Vết thương phần mềm 2303 146 1.26 1.899 3.85 2.045 3,36
3 Vết thương đầu mặt cổ 2302 87 0.75 1.557 3.16 1.644 2,70
4 Chứng đau lưng, thắt lưng hông 2005 626 5.40 992 2.01 1.618 2,66
5 Viêm amidal 1603 365 3.15 1.156 2.34 1.521 2,50
6 Chảy máu hộp sọ 2210 73 0.63 1.341 2.72 1.414 2,32
7 Bệnh thần kinh khác 1603 377 3.25 951 1.93 1.328 2,18
8 Loét dạ dày 1703 403 3.48 822 1.66 1.225 1,01
9 Gẫy xương chi trên 2203 38 0.32 825 1.67 863 1,14
10 Gẫy xương chi dưới 2204 35 0.30 843 1.71 878 1,09
Tổng cộng 10 bệnh 2.229 19,25 12.656 25,69 14.885 24,46
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn42
Trong tổng số 60.833 người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh 
viện 211 mười bệnh có tỷ lệ cao nhất đã chiếm tỷ lệ 24,46%. 
Cơ cấu bệnh tật của người bệnh là quân bệnh chiếm tỷ lệ cao 
nhất là bệnh đau lưng, thắt lưng hông (5,40%), còn trong cơ 
cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội trú bệnh có tỷ lệ 
cao nhất là bệnh chấn động não (4,6%), trong cơ cấu bệnh tật 
chung của cả quân và dân tỷ lệ bệnh chấn động não chiếm tỷ 
lệ cao nhất (3,86%).
V. BÀN LUẬN
Theo kết quả của chúng tôi, nếu tính chung tất cả các 
bệnh nhân điều trị nội trú thì trong 5 năm (2011-2015) loại 
bệnh hay gặp nhất là bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc 
(33,98%), sau đó là loại bệnh tiêu hóa (11,79%) và loại bệnh 
của hệ thần kinh và giác quan (10,14%). Tuy nhiên, có sự 
khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và đối tượng người 
bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp 
nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu 
hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn 
thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%), 
loại bệnh của bộ máy tiêu hóa cũng chiếm tỷ lệ rất cao là 
(10,05%).
Đối với người bệnh quân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 
kết quả này của chúng tôi cũng tương tự như cơ cấu bệnh tật 
của người bệnh quân điều trị tại Bệnh viện 17, Quân khu 5 
và Bệnh viện 4, Quân khu 4. Theo đó loại bệnh của bộ máy 
tiêu hóa chiếm tỷ lệ cao nhất tại 2 bệnh viện trên (Bệnh viện 
17 là 18,64% và Bệnh viện 4 là 22,70%) [1], [2]. 
Khi phân tích sâu hơn về các bệnh hay gặp chúng tôi 
cũng thấy có sự khác nhau giữa người bệnh quân và người 
bệnh dân. Nếu tính chung tất cả người bệnh điều trị nội trú 
thì bệnh hay gặp nhất là bệnh chấn động não (3,86%), sau đó 
là các bệnh về chấn thương (vết thương phần mềm là 3,36%, 
vết thương đầu mặt cổ là 2,27%). Nhưng đối với người bệnh 
quân thì bệnh hay gặp lại là chứng đau lưng, thắt lưng hông 
(5,4%), sau đó là các bệnh loét dạ dày (3,48%), trong khi đối 
với người bệnh dân thì bệnh hay gặp nhất là chấn động não 
(4,6%), sau đó là các bệnh về chấn thương (vết thương phần 
mềm (3,85%), vết thương đầu mặt cổ (3,16%). Kết quả của 
chúng tôi trong cơ cấu người bệnh quân điều trị nội trú tại 
Bệnh viện 211 cũng giống cơ cấu bệnh tật của người bệnh 
quân điều trị nội trú tại Bệnh viện 87, Tổng cục Hậu cần bệnh 
có tỷ lệ cao nhất là loét dạ dày (9,13%) và chứng đau lưng, 
thắt lưng hông (4,46%) [3]. Như vậy, có sự khác nhau về cơ 
cấu bệnh tật giữa người bệnh quân và người bệnh dân. Người 
bệnh quân chủ yếu hay gặp bệnh chứng đau lưng, thắt lưng 
hông và loét dạ dày còn người bệnh dân hay gặp các bệnh 
về chấn thương sọ não và các loại chấn thương, vết thương 
khác. 
Theo chúng tôi có sự khác nhau này là do những khác biệt 
đặc thù giữa 2 đối tượng. Đối với quân nhân, do được giáo 
dục trong môi trường đơn vị quân đội nên có ý thức tốt trong 
chấp hành luật lệ giao thông và kỷ luật quân đội, do đó ít xẩy 
ra tai nạn liên quan tới chấn thương, vết thương như người 
bệnh là đối tượng dân. Nhưng do đặc thù công việc trong 
hoạt động rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt Quân đoàn 
3 là quân đoàn chủ lực đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên. 
Do đó, quân đoàn luôn xác định nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu 
cao nên cường độ huấn luyện luôn căng thẳng, mệt mỏi. Cán 
bộ, chiến sỹ phải luyện tập thành thục những bài tập võ thuật, 
các tư thế vận động trên chiến trường, học chiến thuật trên 
mọi loại địa hình khác nhau nhất là trên địa hình rừng núi 
với cường độ luyện tập cao [5]. 
Ngoài ra, để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc 
phòng ở khu vực Tây Nguyên ngoài nhiệm vụ huấn luyện thì 
các đơn vị thường xuyên diễn tập chuyển trạng thái sẵn sàng 
chiến đấu. Cán bộ, chiến sỹ không những phải mang theo 
trang bị, dụng cụ cá nhân mà còn phải mang, vác vũ khí, khí 
tải và dụng cụ cần thiết có khi lên đến 40-50 kg di chuyển bộ 
với quãng đường hàng chục km. Đây có thể là nguyên nhân 
dẫn đến bệnh chứng đau lưng, thắt lưng hông chiếm tỷ lệ 
cao. Ngoài ra, trong quân đội bệnh loét dạ dày cũng chiếm tỷ 
lệ khá cao, đây có thể là do đặc thù lao động căng thẳng, mệt 
mỏi của hoạt động quân sự, chế độ dinh dưỡng cho cán bộ, 
chiến sỹ còn chưa đầy đủ.
Đối với cơ cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội 
trú tại Bệnh viện 211 bệnh chấn thương chiếm tỷ lệ cao nhất, 
theo chúng tôi có thể là do ý thức chấp hành luật giao thông 
của nhân dân trên địa bàn chưa tốt, tình trạng uống rượu 
bia say khi tham gia giao thông vẫn còn phổ biến nên dẫn 
đến các tai nạn [6]. Hơn nữa, bệnh viện có chuyên môn sâu 
về chấn thương nhất là chấn thương sọ não nên khi người 
bệnh bị các tai nạn giao thông hoặc tai nạn thương tích khác 
thường được chuyển đến bệnh viện dẫn đến loại bệnh chấn 
thương, vết thương, ngộ độc của người bệnh điều trị nội trú 
tại Bệnh viện 211 chiếm tỷ lệ cao.
V. KẾT LUẬN
- Loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ 
ưu thế trong 10 loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội 
trú qua giai đoạn thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98% 
đây là đặc điểm riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh 
điều trị nội trú tại Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu 
hoá là đặc chưng của mô hình bệnh tật của các nước đang 
phát triển còn chiếm tỷ khá cao 11,79%.
- Có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và 
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 35 - Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn 43
đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại 
bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của 
bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại 
bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất 
(39,20%).
- Bệnh nhiễm trùng có xu hướng giảm, tỷ lệ chung trong 5 
năm là 7,23% giảm theo từng năm từ 8,45% năm 2011 xuống 
6,36% vào năm 2015.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bệnh viện 4/Quân khu 4 (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện.
2. Bệnh viện 17/Quân khu 5 (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện.
3. Bệnh viện 87/Tổng cục Hậu cần (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện.
4. Cục Quân y (2003), Địa lý y tế quân sự Tây Nguyên, nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
5. Chu Tiến Cường 2008), Ngành Quân y với nhiệm vụ xây dựng tiềm lực y tế Quốc phòng và bảo vệ sức khoẻ nhân 
dân trong thời kỳ đổi mới, số 1, 2008 Tạp chí Y học quân sự. 
6. Phạm Thị Liên (2014), Nghiên cứu nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng đáp ứng của trạm y tế một số xã các tỉnh 
Tây Nguyên, Luận văn thạc sỹ y học, Học viện Quân y.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_co_cau_benh_tat_nguoi_benh_dieu_tri_noi_tru_tai_b.pdf