Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)
Bệnh viện 211 là bệnh viện quân đội trên địa bàn tỉnh Gia Lai, khu vực Tây Nguyên, do vị trí chiến lược và tầm quan trọng nên việc nâng cấp là hết sức cần thiết. Để có cơ sở khoa học phát triển bệnh viện, nghiên cứu cơ cấu bệnh tật của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 là hết sức cần thiết. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả cơ cấu bệnh của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 211 trong 5 năm (2011-2015). Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang. Toàn bộ bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện từ 1/1/2011 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên cứu. Các mặt bệnh được phân loại theo Báo cáo thống kê loại bệnh của Cục Quân y. Kết quả nghiên cứu cho thấy, loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ ưu thế trong 10 loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội trú qua giai đoạn thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98%, đây là đặc điểm riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu hoá là đặc trưng của mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển còn chiếm tỷ khá cao 11,79%. Có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%)
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cơ cấu bệnh tật người bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015)

V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn38 THỰC TRẠNG CƠ CẤU BỆNH TẬT NGƯỜI BỆNH ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN 211 TRONG 5 NĂM (2011 – 2015) Nguyễn Minh Phương1, Phạm Tiến Dũng1 TÓM TẮT Bệnh viện 211 là bệnh viện quân đội trên địa bàn tỉnh Gia Lai, khu vực Tây Nguyên, do vị trí chiến lược và tầm quan trọng nên việc nâng cấp là hết sức cần thiết. Để có cơ sở khoa học phát triển bệnh viện, nghiên cứu cơ cấu bệnh tật của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 là hết sức cần thiết. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả cơ cấu bệnh của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 211 trong 5 năm (2011-2015). Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang. Toàn bộ bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện từ 1/1/2011 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên cứu. Các mặt bệnh được phân loại theo Báo cáo thống kê loại bệnh của Cục Quân y. Kết quả nghiên cứu cho thấy, loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ ưu thế trong 10 loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội trú qua giai đoạn thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98%, đây là đặc điểm riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu hoá là đặc trưng của mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển còn chiếm tỷ khá cao 11,79%. Có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%). Từ khóa: Cơ cấu bệnh tật, bệnh nhân điều trị nội trú. ABSTRACT: THE SITUATION OF THE STRUCTURE OF THE INPATIENT'S DISEASES AT HOSPITAL 211 IN 5 YEARS (2011-2015) Hospital 211 is a military hospital in the province of Gia Lai, Central Highlands region. Due to its strategic location and importance so the upgrade is essential. In order to provide the scientific basis for upgrade of hospital 211, study on the disease patterns of inpatients in 211 hospitals is essential. The study was conducted with the aim of describing the structure of the inpatient's diseases at Military Hospital 211 in 5 years (2011- 2015). Described cross method was applied in this research. All of inpatient at the hospital from 1/1/2011 to 31/12/2015 were included in this study. The diseases is classified according to the statistics report of the Military Medical Department. The results showed that the disease group of traumas, wounds and poisoning were dominant proportion among 10 common disease groups of inpatients over the period 2011-2015 that accounts for 33.98%, this is the structural characteristics of diseases among inpatients at the hospital 211. The disease group of the digestive tract still accounted for a high 11,79% that is characteristic of the disease model proof of the developing countries. There was a difference between military and civil inpatients. For the military inpatients, the most common disease for 5 years (2011-2015) is disease group of the digestive tract (19.18%) while for the civil inpatient, the diseases of trauma, wounds, poisoning accounted for the highest percentage (39.20%). Keywords: Structure of diseases, inpatients. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Tây Nguyên gồm các tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đăc Lắk và Lâm Đồng. Tây Nguyên là vùng cao nguyên rộng lớn, địa hình hiểm trở, nhiều dãy núi cao, nhiều dân tộc thiểu số, đường giao thông khó khăn, nhất là mạng lưới y tế còn kém phát triển [5]. Cùng với việc xây dựng thế trận quốc phòng-an ninh một cách vững chắc thì việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bộ đội và nhân dân ở địa bàn Tây Nguyên sẽ góp phần xã hội hoá công tác y tế, thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ con người và xây dựng thế trận lòng dân. Bệnh viện Quân y 211 là Bệnh viện đa khoa Quân đội trực thuộc Quân đoàn 3, nằm ở thành phố Gia Lai, tỉnh 1. Học viện Quân y; Tác giả: Nguyễn Minh Phương; Email: [email protected]; ĐT: 0912.052.887 Ngày nhận bài: 03/10/2016 Ngày phản biện: 07/10/2016 Ngày duyệt đăng: 16/10/2016 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 35 - Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn 39 Gia Lai. Có nhiệm vụ tiếp nhận, điều trị cho người bệnh là cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên chức quốc phòng các đơn vị bộ đội đóng quân trên địa bàn, đồng thời bệnh viện cũng khám và điều trị cho nhân dân trong khu vực góp phần quan trọng vào công tác chăm sóc sức khỏe cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn. Do vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng của bệnh viện trong năm 2016 Bộ Quốc phòng đã nâng cấp Bệnh viện 211 lên bệnh viện hạng I. Tuy nhiên, hiện nay Bệnh viện đang trong giai đoạn xây dựng, nâng cấp nên chưa mở rộng về số khoa lâm sàng, cũng như chưa kịp bổ sung thêm cán bộ nhân viên, nhất là cán bộ nhân viên y tế để phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Việc tìm hiểu cơ cấu bệnh tật là nhiệm vụ rất quan trọng, làm căn cứ để xây dựng kế hoạch phát triển chuyên môn của bệnh viện bao gồm công tác phát triển nhân lực, trang thiết bị y tế và cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Mô tả cơ cấu bệnh của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 211 trong 5 năm (2011-2015) II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu: Lựa chọn tất cả bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện đa khoa 211 từ 01/01/2011 đến 31/12/2015, có bệnh án lưu trữ tại bệnh viện. Bệnh tật được phân loại theo mẫu Báo cáo thống kê theo loại bệnh của Cục Quân y (BM-2005). Các thông tin liên quan đến bệnh nhân được hồi cứu từ bệnh án lưu ở phòng lưu trữ hồ sơ và hệ thống máy tính quản lý bệnh nhân. Kết quả được xử lý bằng phần mềm Epi info 6.0. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong 5 năm (2011-2015), kết quả khám bệnh và điều trị của Bệnh viện Quân y 211, Quân đoàn 3, cụ thể như sau: tổng số khám bệnh tại khoa khám bệnh là: 230.475 lượt người/5 năm, tổng số người bệnh nhận điều trị nội trú: 60.833 lượt người/5 năm (trong đó người bệnh quân là 11.576 chiếm tỷ lệ 19,02% và số người bệnh dân là 49.257 chiếm 80,98%). Bảng 3.1. Cơ cấu bệnh tật của toàn bộ người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 trong 5 năm (2011-2015) Loại bệnh Mã theo Cục QY Người bệnh quân Người bệnh dân Tổng cộng SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) Loại I: Bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng 101-606 1.188 10,26 3.212 6,52 4.400 7,23 Loại II: Bướu tân sinh 701-707 204 1,76 863 1,75 1.067 1,75 Loại III: Bệnh nội tiết, dinh dưỡng, chuyển hóa 801-1004 164 1,42 776 1,57 940 1,55 Loại IV: Bệnh máu, cơ quan tạo máu 1101-1105 14 0,12 129 0,26 143 0,24 Loại V: Tâm thần 1201-1205 410 3,54 721 1,46 1.131 1,86 Loại VI: Bệnh hệ thần kinh và các giác quan 1301-1414 1.346 11,62 4.823 9,79 6.169 10,14 Loại VII: Bệnh của hệ tuần hoàn 1501-1521 508 4,39 2.854 5,79 3.362 5,53 Loại VIII: Bệnh của bộ máy hô hấp 1601-1617 1.611 13,92 3.333 6,77 4.944 8,13 Loại IX: Bệnh của bộ máy tiêu hóa 1701-1720 2.220 19,18 4.950 10,05 7.170 11,79 Loại X: Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu 1801-1909 564 4,87 2.580 5,23 3.144 5,17 Loại XI: Bệnh xương khớp 2001-2010 1.157 10,00 2.880 5,85 4.037 6,64 Loại XII: Bệnh da và mô tế bào dưới da 2101-2107 495 4,27 799 1,26 1.294 2,13 Loại XIII: Chấn thương, vết thương, ngộ độc 2201-2404 1.363 11,77 19.307 39,20 20.670 33,98 Loại XIV: Các bệnh không xếp danh 2501-2504 332 2,87 2030 4,12 2.362 3,88 Tổng cộng 11.576 100 49.257 100 60.833 100 - Cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 rất đa dạng, gặp ở tất cả 14 loại bệnh theo phân loại của Cục Quân y. - Trong cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú: Đối tượng quân loại bệnh của bộ máy tiêu hóa chiếm tỷ lệ cao nhất (19,18%), đối tượng dân loại bệnh chấn thương, V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn40 vết thương ngộ độc chiếm ưu thế (39,20%), chung cả 2 đối tượng thì loại bệnh chấn thương, vết thương ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (33,98%). Cả 2 đối tượng thì loại bệnh máu và cơ quan tạo máu có tỷ lệ thấp nhất (0,24%). Trong tổng số 11.576 người bệnh là quân điều trị nội trú, loại bệnh của bộ máy tiêu hóa chiếm tỷ lệ cao nhất (19,18%), tỷ lệ người bệnh quân mắc các bệnh tiêu hóa điều trị nội trú tương đối ổn định qua các năm, trong đó cao nhất vào năm 2013 (23,12%) sau đó giảm nhẹ vào những năm tiếp theo. Bệnh của bộ máy hô hấp (13,92%), giảm dần qua các năm, năm 2013 là 6,20% nhưng cao đột ngột vào năm 2014 (25,04%), sau đó lại giảm đột ngột xuống (11,2%) vào năm 2015. Bệnh thần kinh và các giác quan (11,62%) cao nhất vào năm 2012 (13,23%), thấp nhất vào năm 2014 (10,03%). Biểu đồ 3.1. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh quân điều trị nội trú. Biểu đồ 3.2. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh dân điều trị nội trú 0 5 10 15 20 25 30 2011 2012 2013 2014 2015 CT, VT, ngộ độc Bệnh của bộ máy tiêu hóa Bệnh hệ TK và các giác quan Bệnh của bộ máy hô hấp Bệnh nhiễm trùng và KST Bệnh xương khớp Bệnh của hệ tuần hoàn Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu Các bệnh không xếp danh Bệnh da và mô tế bào dưới da 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 2011 2012 2013 2014 2015 CT, VT, ngộ độc Bệnh của bộ máy tiêu hóa Bệnh hệ TK và các giác quan Bệnh của bộ máy hô hấp Bệnh nhiễm trùng và KST Bệnh xương khớp Bệnh của hệ tuần hoàn Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu Các bệnh không xếp danh Bệnh da và mô tế bào dưới da JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 35 - Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn 41 Trong cơ cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội trú thì bệnh có tỷ lệ cao nhất là loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc (39,20%), loại bệnh này cao nhất là năm 2011 (45,14%) giảm dần qua các năm đến năm 2015 (34,93%). Trong tổng số 60.833 người bệnh điều trị nội trú loại bệnh về chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (33,98%) trong đó loại bệnh này cao nhất vào năm 2011 (37,34%), sau đó có xu hướng giảm dần đến năm 2015 là 30,10%. Tiếp sau là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (11,79%) cũng có xu hướng giảm dần từ 13.06% vào năm 2011 còn lại 10,43% vào năm 2015, bệnh của hệ thần kinh và các giác quan (10,14%) có xu hướng tăng nhẹ năm 2011 là 9,57% đến năm 2015 là 10,78%. Biểu đồ 3.3. Mười loại bệnh hay gặp của người bệnh điều trị nội trú. Bảng 3.2. Mười bệnh có tỷ lệ cao nhất theo biểu mẫu của Cục Quân y trong 5 năm (2011-2015), (n=60.833) 0 5 10 15 20 25 30 35 40 2011 2012 2013 2014 2015 Chấn thương, vết thương, ngộ độc Bệnh của bộ máy tiêu hóa Bệnh hệ TK và các giác quan Bệnh của bộ máy hô hấp Bệnh nhiễm trùng và KST Bệnh xương khớp Bệnh của hệ tuần hoàn Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu Các bệnh không xếp danh Bệnh da và mô tế bào dưới da TT Bệnh Mã theo Cục QY Người bệnh quân Người bệnh dân Tổng cộng SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) 1 Chấn động não 2208 79 0.68 2.270 4.60 2.349 3,86 2 Vết thương phần mềm 2303 146 1.26 1.899 3.85 2.045 3,36 3 Vết thương đầu mặt cổ 2302 87 0.75 1.557 3.16 1.644 2,70 4 Chứng đau lưng, thắt lưng hông 2005 626 5.40 992 2.01 1.618 2,66 5 Viêm amidal 1603 365 3.15 1.156 2.34 1.521 2,50 6 Chảy máu hộp sọ 2210 73 0.63 1.341 2.72 1.414 2,32 7 Bệnh thần kinh khác 1603 377 3.25 951 1.93 1.328 2,18 8 Loét dạ dày 1703 403 3.48 822 1.66 1.225 1,01 9 Gẫy xương chi trên 2203 38 0.32 825 1.67 863 1,14 10 Gẫy xương chi dưới 2204 35 0.30 843 1.71 878 1,09 Tổng cộng 10 bệnh 2.229 19,25 12.656 25,69 14.885 24,46 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn42 Trong tổng số 60.833 người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 mười bệnh có tỷ lệ cao nhất đã chiếm tỷ lệ 24,46%. Cơ cấu bệnh tật của người bệnh là quân bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh đau lưng, thắt lưng hông (5,40%), còn trong cơ cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội trú bệnh có tỷ lệ cao nhất là bệnh chấn động não (4,6%), trong cơ cấu bệnh tật chung của cả quân và dân tỷ lệ bệnh chấn động não chiếm tỷ lệ cao nhất (3,86%). V. BÀN LUẬN Theo kết quả của chúng tôi, nếu tính chung tất cả các bệnh nhân điều trị nội trú thì trong 5 năm (2011-2015) loại bệnh hay gặp nhất là bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc (33,98%), sau đó là loại bệnh tiêu hóa (11,79%) và loại bệnh của hệ thần kinh và giác quan (10,14%). Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%), loại bệnh của bộ máy tiêu hóa cũng chiếm tỷ lệ rất cao là (10,05%). Đối với người bệnh quân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 kết quả này của chúng tôi cũng tương tự như cơ cấu bệnh tật của người bệnh quân điều trị tại Bệnh viện 17, Quân khu 5 và Bệnh viện 4, Quân khu 4. Theo đó loại bệnh của bộ máy tiêu hóa chiếm tỷ lệ cao nhất tại 2 bệnh viện trên (Bệnh viện 17 là 18,64% và Bệnh viện 4 là 22,70%) [1], [2]. Khi phân tích sâu hơn về các bệnh hay gặp chúng tôi cũng thấy có sự khác nhau giữa người bệnh quân và người bệnh dân. Nếu tính chung tất cả người bệnh điều trị nội trú thì bệnh hay gặp nhất là bệnh chấn động não (3,86%), sau đó là các bệnh về chấn thương (vết thương phần mềm là 3,36%, vết thương đầu mặt cổ là 2,27%). Nhưng đối với người bệnh quân thì bệnh hay gặp lại là chứng đau lưng, thắt lưng hông (5,4%), sau đó là các bệnh loét dạ dày (3,48%), trong khi đối với người bệnh dân thì bệnh hay gặp nhất là chấn động não (4,6%), sau đó là các bệnh về chấn thương (vết thương phần mềm (3,85%), vết thương đầu mặt cổ (3,16%). Kết quả của chúng tôi trong cơ cấu người bệnh quân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 cũng giống cơ cấu bệnh tật của người bệnh quân điều trị nội trú tại Bệnh viện 87, Tổng cục Hậu cần bệnh có tỷ lệ cao nhất là loét dạ dày (9,13%) và chứng đau lưng, thắt lưng hông (4,46%) [3]. Như vậy, có sự khác nhau về cơ cấu bệnh tật giữa người bệnh quân và người bệnh dân. Người bệnh quân chủ yếu hay gặp bệnh chứng đau lưng, thắt lưng hông và loét dạ dày còn người bệnh dân hay gặp các bệnh về chấn thương sọ não và các loại chấn thương, vết thương khác. Theo chúng tôi có sự khác nhau này là do những khác biệt đặc thù giữa 2 đối tượng. Đối với quân nhân, do được giáo dục trong môi trường đơn vị quân đội nên có ý thức tốt trong chấp hành luật lệ giao thông và kỷ luật quân đội, do đó ít xẩy ra tai nạn liên quan tới chấn thương, vết thương như người bệnh là đối tượng dân. Nhưng do đặc thù công việc trong hoạt động rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt Quân đoàn 3 là quân đoàn chủ lực đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên. Do đó, quân đoàn luôn xác định nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cao nên cường độ huấn luyện luôn căng thẳng, mệt mỏi. Cán bộ, chiến sỹ phải luyện tập thành thục những bài tập võ thuật, các tư thế vận động trên chiến trường, học chiến thuật trên mọi loại địa hình khác nhau nhất là trên địa hình rừng núi với cường độ luyện tập cao [5]. Ngoài ra, để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng ở khu vực Tây Nguyên ngoài nhiệm vụ huấn luyện thì các đơn vị thường xuyên diễn tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Cán bộ, chiến sỹ không những phải mang theo trang bị, dụng cụ cá nhân mà còn phải mang, vác vũ khí, khí tải và dụng cụ cần thiết có khi lên đến 40-50 kg di chuyển bộ với quãng đường hàng chục km. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh chứng đau lưng, thắt lưng hông chiếm tỷ lệ cao. Ngoài ra, trong quân đội bệnh loét dạ dày cũng chiếm tỷ lệ khá cao, đây có thể là do đặc thù lao động căng thẳng, mệt mỏi của hoạt động quân sự, chế độ dinh dưỡng cho cán bộ, chiến sỹ còn chưa đầy đủ. Đối với cơ cấu bệnh tật của người bệnh dân điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 bệnh chấn thương chiếm tỷ lệ cao nhất, theo chúng tôi có thể là do ý thức chấp hành luật giao thông của nhân dân trên địa bàn chưa tốt, tình trạng uống rượu bia say khi tham gia giao thông vẫn còn phổ biến nên dẫn đến các tai nạn [6]. Hơn nữa, bệnh viện có chuyên môn sâu về chấn thương nhất là chấn thương sọ não nên khi người bệnh bị các tai nạn giao thông hoặc tai nạn thương tích khác thường được chuyển đến bệnh viện dẫn đến loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211 chiếm tỷ lệ cao. V. KẾT LUẬN - Loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ ưu thế trong 10 loại bệnh hay gặp của bệnh nhân điều trị nội trú qua giai đoạn thống kê từ năm 2011-2015 chiếm 33,98% đây là đặc điểm riêng của cơ cấu bệnh tật của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện 211. Loại bệnh của bộ máy tiêu hoá là đặc chưng của mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển còn chiếm tỷ khá cao 11,79%. - Có sự khác biệt giữa đối tượng người bệnh quân và JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 35 - Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn 43 đối tượng người bệnh dân, đối với người bệnh quân thì loại bệnh hay gặp nhất trong 5 năm (2011-2015) là loại bệnh của bộ máy tiêu hóa (19,18%), còn đối với người bệnh dân loại bệnh chấn thương, vết thương, ngộ độc chiếm tỷ lệ cao nhất (39,20%). - Bệnh nhiễm trùng có xu hướng giảm, tỷ lệ chung trong 5 năm là 7,23% giảm theo từng năm từ 8,45% năm 2011 xuống 6,36% vào năm 2015. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bệnh viện 4/Quân khu 4 (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện. 2. Bệnh viện 17/Quân khu 5 (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện. 3. Bệnh viện 87/Tổng cục Hậu cần (2011-2015), Báo cáo thống kê điều trị tại bệnh viện. 4. Cục Quân y (2003), Địa lý y tế quân sự Tây Nguyên, nhà xuất bản Quân đội nhân dân. 5. Chu Tiến Cường 2008), Ngành Quân y với nhiệm vụ xây dựng tiềm lực y tế Quốc phòng và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ đổi mới, số 1, 2008 Tạp chí Y học quân sự. 6. Phạm Thị Liên (2014), Nghiên cứu nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng đáp ứng của trạm y tế một số xã các tỉnh Tây Nguyên, Luận văn thạc sỹ y học, Học viện Quân y.
File đính kèm:
thuc_trang_co_cau_benh_tat_nguoi_benh_dieu_tri_noi_tru_tai_b.pdf